.
KINH
ÐẠI THỪA ÐẠI TẬP ÐỊA TẠNG THẬP LUÂN
- Hán dịch: Tam-tạng
Pháp sư Huyền Trang
- Việt dịch: Thích
nữ Huệ Thanh, Chùa Phổ Tế, Nha Trang.
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh,
Tỳ-kheo Tâm Hạnh
---o0o---
Quyển thứ sáu
PHẦN II
Phẩm thứ tư: HỮU Y HÀNH
Này thiện nam tử! Ông xem các vị Sát-đế-lợi
và vô lượng hữu tình này thân cận những người phá giới, làm việc xấu ác,
chẳng phải là bậc pháp khí, ở trong Tăng sẽ bỏ mất tất cả những pháp lành
đã có, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Vì vậy, muốn được sanh thiên,
chứng quả Niết-bàn an vui thù thắng đều phải thân cận phụng sự, cúng dường
các vị Sa-môn thắng đạo, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa, hoặc mong
cầu Sa-môn thị đạo, mạng đạo.
Nếu không gặp ba hạng Sa-môn này thì mong cầu
Sa-môn ô đạo. Tuy hạng Sa-môn này phá giới mà có chánh kiến, đầy đủ ý lạc
và gia hạnh nên vẫn đến thân cận phụng sự, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe
giáo pháp ba thừa.
Không nên thân cận phụng sự, cúng dường người
có gia hạnh, ý lạc, kiến hoại. Tuy hạng Sa-môn kia giới hoại mà không có
tà kiến, đầy đủ ý lạc, gia hạnh, kiến nên vẫn đến thưa hỏi, lắng nghe pháp
Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa, Ðại thừa mà không nên khinh chê; tùy theo ý
thích phát nguyện tinh tấn học một trong ba thừa, không khinh chê các thừa
khác. Nếu người nào khinh chê một thừa cho đến một bài tụng trong ba thừa
thì không nên thân cận, giao tiếp, hoặc cùng ở chung, cùng làm việc. Nếu
thân cận hoặc giao tiếp, cùng ở chung, cùng làm việc, quyết định đều sẽ
đọa địa ngục Vô gián.
Này thiện nam tử! Vì thế, nếu người nào muốn
nương theo một trong ba thừa để mong cầu ra khỏi sanh tử, nhàm chán đau
khổ, ưa thích an lạc thì nên nương vào chánh pháp Như Lai giảng thuyết,
hoặc nương vào chánh pháp giảng thuyết của Thanh văn thừa, hoặc nương vào
chánh pháp giảng thuyết của Ðộc Giác thừa, hoặc nương vào chánh pháp giảng
thuyết của Ðại thừa và có lòng tin kính sâu rộng, chớ sanh tâm phỉ báng
làm chướng ngại, che mờ cho đến một bài tụng mà phải thường nên cung kính
đọc tụng, lắng nghe giáo pháp, nên phát ngụyện chân chánh, kiên cố, mong
cầu chứng đắc.
Nếu ai tùy theo phỉ báng một pháp nào trong
ba thừa thì không nên ở chung cho đến một đêm, không nên thân cận thưa hỏi
giáo pháp. Các hữu tình nào phỉ báng một trong ba thừa, hoặc là thân cận
người phỉ báng ba thừa, thưa hỏi, lãnh thọ, do nhân duyên đó chắc chắn sẽ
đọa vào địa ngục Vô gián, chịu khổ não lớn không có thời kỳ ra khỏi. Vì
sao?
Này thiện nam tử! Vì ở đời quá khứ, khi Ta
tinh tấn tu hạnh Bồ-tát, mong cầu chứng đắc trí Vô thượng; hoặc vì mong
cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Thanh văn thừa cho dù một bài
tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt,
tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh pháp giảng thuyết của Ðộc
giác thừa, cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu,
thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chánh
pháp giảng thuyết của Ðại thừa cho dù một bài tụng mà xả bỏ thân mình,
tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não.
Ta chịu khổ nhọc như vậy để mong cầu dù cho
một bài tụng trong ba thừa rồi sanh tâm hoan hỷ, cung kính, lãnh thọ, gìn
giữ, đúng như pháp tu hành, không lúc nào tạm bỏ, trải qua vô lượng kiếp
tu tập tất cả hạnh khổ khó làm mới chứng được quả thắng trí vô thượng cứu
cánh.
Lại vì lợi ích an lạc cho các hữu tình mà
giảng thuyết chỉ bày chánh pháp ba thừa, vì nghĩa này không nên phỉ báng
làm chướng ngại, ngăn che, cho đến một bài tụng; thường phải cung kính đọc
tụng, lắng nghe, phát nguyện chân chánh, kiên cố, mong cầu chứng đắc.
Này thiện nam tử! Như vậy, chánh pháp giải
thoát của ba thừa này, tất cả hằng hà sa số chư Phật trong quá khứ, hiện
tại, vị lai đều giảng thuyết, dùng đại lực oai thần hộ trì. Vì muốn cứu
giúp khổ lớn sanh tử của tất cả hữu tình, vì muốn làm cho hạt giống Tam
bảo hưng thịnh, không để đoạn tuyệt nên đối với chánh pháp Tam thừa này
phải tin kính, chớ hủy báng, làm chướng ngại, ngăn che. Nếu phỉ báng, làm
chướng ngại, ngăn che chánh pháp ba thừa cho đến một bài tụng thì quyết
định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.
Lại nữa, này thiện nam tử! Vào đời vị lai, ở
cõi Phật này có hạng Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, Tể
quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Trưởng giả
Chiên-trà-la, Phiệt-xá Chiên-trà-la, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam,
hoặc nữ dua nịnh, dối trá, ngu si, ngã mạn cho là thông minh; tánh hung
dữ, bạo ngược; không thấy, không sợ quả khổ đời sau; ưa thích sát sanh cho
đến tà kiến, ganh tỵ, tham lam, bỏn xẻn, oán ghét bạn lành, thân gần bạn
ác; chẳng phải là pháp khí của bậc Hiền Thánh ba thừa. Hoặc là người ít
nghe và tu tập pháp Thanh văn thừa, liền đối với pháp Ðộc-giác thừa, Vô
thượng thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại,
che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Hoặc người ít nghe và tu tập pháp
Ðộc-giác thừa liền đối với pháp Thanh văn thừa, Vô thượng thừa được chư
Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho
lưu thông rộng rãi. Hoặc có người ít nghe và tu tập pháp Vô thượng thừa
liền đối với pháp Thanh văn thừa, Ðộc-giác thừa được chư Phật hộ trì thì
phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng
rãi. Vì cầu danh lợi nên nói như vầy:
“Ta là Ðại thừa, là người theo Ðại thừa, chỉ
thích nghe, tu tập, thọ trì Ðại thừa, không thích pháp Thanh văn thừa,
Ðộc-giác thừa, không thích thân cận người học hai thừa”.
Những người dối xưng là Ðại thừa như vậy là
do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực. Như vậy là hủy báng, làm chướng ngại, che
mờ chánh pháp ba thừa, không làm cho lưu truyền, ganh ghét người tu học
giáo pháp ba thừa, phỉ báng hủy nhục, làm cho không có oai lực.
Này thiện nam tử! Tất cả chư Phật Thế Tôn và
chư đại Bồ-tát trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại vì muốn làm lợi lạc cho
tất cả hữu tình nên dùng lực đại bi hộ trì hai việc:
- Một là muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam
bảo, không để đoạn tuyệt, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa.
- Hai là giáo pháp ba thừa tương ưng với pháp
bốn Thánh đế.
Ðó là hai việc.
Nguyện xin Phật Thế Tôn và chư đại Bồ-tát hộ
trì, chẳng phải các Thanh văn, Ðộc thắng giác, cũng chẳng phải trăm ngàn
vô số đại Phạm thiên vương và Thiên vương Ðế thích, Chuyển luân vương bốn
đại châu có thể hộ trì.
Ở đời vị lai trong cõi Phật này có vua
Sát-đế-lợi Chiên-trà-la do nương pháp Ta mà được xuất gia, cạo bỏ râu tóc,
mặc áo ca-sa, tìm cách dò xét những lỗi lầm sai phạm của người khác, dùng
các cách quở trách, hủy nhục hoặc dùng roi gậy, hoặc nhốt trong lao ngục,
hoặc đoạt lấy của cải, hoặc lột áo ca-sa bắt hoàn tục làm các việc thế
tục, hoặc đuổi đi quân dịch, hoặc lạm dụng sai khiến, hoặc không cho ăn
uống, hoặc hại thân mạng. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la kia do ngu si, kiêu
mạn, ỷ thế lực, hủy nhục, trách phạt các vị tu hành; chư Phật Bồ-tát dùng
sức đại bi hộ trì các đệ tử của Ta. Họ phỉ báng, hủy diệt giáo pháp, chư
Phật Bồ-tát dùng sức đại bi hộ trì giáo pháp thậm thâm của Ta. Chư Phật
Bồ-tát ba đời đã hộ trì chánh pháp ba thừa mà bọn chúng đã làm chướng
ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi.
Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến
Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, người nam hoặc nữ ngu si, kiêu mạn, tự
xưng là Ðại thừa, những người ấy còn chẳng phải là pháp khí hai thừa Thanh
văn, Ðộc giác, huống là pháp khí Vô thượng Ðại thừa. Vì cầu lợi dưỡng,
cung kính, danh dự mà dối gạt thế gian, ngu si tự nói: “Chúng tôi là người
Ðại thừa” và hủy báng chánh pháp hai thừa của Như Lai. Những người này do
ngu si, lừa gạt, kiêu mạn, ganh ghét, xan tham phá hủy pháp nhãn của Ta
làm cho mau ẩn mất. Những người ấy đối với tất cả chư Phật trong ba đời
phạm tội lỗi lớn, cũng đối với tất cả Bồ-tát trong ba đời phạm tội lỗi
lớn, lại đối với tất cả Thanh văn trong ba đời phạm tội lỗi lớn, không bao
lâu sẽ thiếu khuyết thân thể, mắc các bệnh nặng.
Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la kia cho đến
Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, người nam hoặc nữ, do tạo nghiệp ác,
khởi tà kiến điên đảo nên tổn mất tất cả thiện căn đã có. Mặc dù vào đời
vị lai sẽ sanh vào ngạ quỷ, súc sanh nhưng vẫn hưởng được phước lạc vì có
lúc đã tu tập nhiều phước đức. Tuy nhiên thân ấy còn không thể phát sanh
thiện căn hạ liệt ở cõi Sắc, Vô sắc, huống là có thể gieo trồng chủng tử
thiện căn trí Nhất thiết trí vô công dụng khởi của Thanh văn, Ðộc giác và
Vô thượng thừa. Lại cũng làm cho lưỡi của mình bị bệnh trong nhiều ngày,
bị tê cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn, khó chịu nỗi, sau khi
chết nhất định sẽ sanh vào đại địa ngục Vô gián.
Vì thế, Như Lai từ bi thương xót tất cả vua
Sát-đế-lợi hiền thiện cho đến Mậu-đạt-la hiền thiện, hoặc nam hoặc nữ.
v.v... làm cho họ luôn luôn được lợi ích an lạc. Như Lai ân cần nhắc nhở,
dạy bảo như vầy:
Các ngươi nên nương theo chánh pháp của Ta,
cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, cẩn thận chớ làm não loạn, trách mắng, quở
phạt người xuất gia. Ðối với chánh pháp ba thừa Ta đã giảng dạy, thận
trọng chớ có hủy báng, làm chướng ngại, che lấp. Nếu trái lời Ta dạy mà cố
ý làm thì mắc tội báo như đã nói rõ ở trước. Vì sao? - Vì người nương theo
giáo pháp của Ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ, có hình tướng xuất gia,
chính là người được chư Phật Bồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai
dùng thần lực đại bi hộ trì. Hình tướng oai nghi xuất gia, cạo râu tóc,
mặc áo ca-sa đỏ là tướng giải thoát của các bậc Hiền Thánh, cũng là tướng
pháp vị giải thoát của tất cả hàng Thanh văn thừa thọ dụng, cũng là tướng
pháp vị giải thoát của tất cả hàng Ðộc giác thừa thọ dụng, cũng là tướng
pháp vị giải thoát của tất cả hàng Ðại thừa thọ dụng.
Chánh pháp ba thừa do Như lai giảng thuyết
được chư Phật Bồ-tát trong ba đời dùng thần lực đại bi hộ trì, là chỗ
nương tựa để giải thoát của chư Hiền Thánh, cũng là chỗ nương tựa của tất
cả Thanh văn thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương
tựa của tất cả Ðộc giác thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là
chỗ nương tựa của tất cả hàng Ðại thừa thọ dụng để được pháp vị giải
thoát.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên người mong
cầu giải thoát phải thân cận, cung kính, cúng dường những người nương theo
chánh pháp của Ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ làm người xuất gia,
trước phải tin kính giáo pháp Thanh văn thừa, hoặc tự mình nghe lãnh thọ,
dạy người nghe lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người đọc tụng; hoặc
tự mình biên chép, dạy người biên chép; hoặc tự mình ban bố, dạy người ban
bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người giảng thuyết; tư duy tu hành làm
cho lưu truyền rộng khắp.
Cũng vậy, nên tin kính pháp Ðộc giác thừa,
hoặc tự mình nghe lãnh thọ, dạy người khác nghe lãnh thọ; hoặc tự mình đọc
tụng, dạy người đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người biên chép;
hoặc tự mình ban bố, dạy người ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy
người giảng thuyết; tư duy tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.
Cũng vậy, nên tin kính pháp Ðại thừa, hoặc tự
mình nghe lãnh thọ, dạy người khác nghe lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng,
dạy người đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người biên chép; hoặc tự
mình ban bố, dạy người ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người giảng
thuyết; tư duy tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp.
Nếu chẳng phải bậc pháp khí thì mình không
nên nghe, cũng không được dạy người nghe, cho đến như đã nói rõ ở trước.
Lại nên xa lìa tất cả pháp ác, phải bỏ bạn ác, nên gần bạn lành, phải
siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật, nên thường sám hối tất cả nghiệp ác,
nên tùy theo chỗ thích ứng phát hạnh nguyện chơn chánh. Nếu có thể được
như vậy thì ngay đời này được thành tựu pháp khí Thanh văn thừa, hoặc
không thối chuyển hạt giống Ðộc giác thừa, hoặc không thối chuyển hạt
giống Ðại thừa. Thế nên phải tu tập cả ba thừa, không nên kiêu ngạo vọng
xưng là Ðại thừa, phỉ báng pháp Thanh văn, Ðộc giác thừa. Lúc đầu, Ta chỉ
vì pháp khí Ðại thừa mà kiên chí tu hành, nói lời như vầy, là: “Chỉ tu
theo Ðại thừa mới có thể được rốt ráo”. Thế nên Như Lai nói xưa nay không
trái nhau.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn giải rõ lại nghĩa này
nên nói bài tụng:
- Ở trước các đại chúng
Kim Cang Tạng hỏi Ta
Vì sao khuyên cúng dường
Bí-sô ác phá giới
Mất công đức đầu-đà
Si mê chấp ác kiến
Ô đạo chẳng pháp khí
Mà không cho trách phạt
Lại nghe người ấy thuyết
Pháp vi diệu ba thừa
Thuốc hay chơn giải thoát
Hướng Niết-bàn tịch tịnh
Vì sao kinh khác nói
Chỉ Ðại thừa giải thoát
Ngăn học pháp nhị thừa
Nay lại nói ba thừa
Thương xót các hữu tình
Làm cho bỏ nghiệp ác
Ðược lợi ích an lạc
Xin giải nghi cho con
Làm lợi Sát-đế-lợi
Cho đến Mậu-đạt-la
Không não loạn Bí-sô
Sợ họ mắc tội lớn
Cạo tóc, mặc ca-sa
Là tướng pháp chư Phật
Chư Phật thường hộ trì
Pháp phục đạo giải thoát
Tuy phá các luật nghi
Chẳng phải ngăn giải thoát
Hay xả các ác kiến
Sẽ mau đến Niết-bàn
Như thuốc tốt bị hư
Còn có thể trị bệnh
Như vậy phá luật nghi
Cũng diệt khổ cho người
Không cho Bí-sô kia
Cùng bố-tát, yết-ma
Ðược thuyết pháp cho người
Ðều được phước không nghi
Nếu quy kính Tam bảo
Tôn Ta làm Ðại sư
Hay bỏ các điều ác
Còn hơn các ngoại đạo
Như vào đảo La-sát
Các thương nhân sợ hãi
Mỗi người cầm sợi lông
Qua biển được khỏi nạn
Cũng vậy, người phá giới
Xa lìa các tà kiến
Do lòng tin làm nhân
Khỏi La-sát phiền não
Tướng giải thoát như vậy
Chư Phật đều hộ trì
Không não người phá giới
Hay lìa các ác kiến
Những người thích nhiều phước
Vui cầu chơn giải thoát
Hộ pháp khí, chẳng khí
Chứng giải thoát không khó
Si mạn xưng Ðại thừa
Không có lực trí tuệ
Pháp nhị thừa còn mê
Huống là hiểu Ðại thừa
Ví như mắt mù lòa
Không thể thấy hình sắc
Như vậy mất đức tin
Không thể hiểu Ðại thừa
Không thể uống ao sông
Làm sao uống biển cả?
Không tập pháp nhị thừa
Làm sao học Ðại thừa?
Trước tin pháp nhị thừa
Sau mới tin Ðại thừa
Tụng đại thừa, không tin
Nói rỗng không, không ích
Bên trong chấp đoạn kiến
Vọng xưng là Ðại thừa
Không giữ gìn ba nghiệp
Làm hoại chánh pháp Ta
Người này sau khi chết
Quyết định đọa Vô gián
Nên quán căn cơ thuyết
Không căn cơ không thuyết
Kiêu ngạo không từ bi
Hung ác, chí thấp kém
Người trí phải nên biết
Người này là chấp đoạn
Không Thanh văn, Duyên giác
Cũng chẳng phải Ðại thừa
Lừa dối, phỉ báng Phật
Quyết đọa ngục Vô gián
Trì giới ưa ồn ào
Xẻn pháp sợ khổ ác
Người trí phải biết rõ
Ðó là Thanh văn thừa
Bố thí quán sanh diệt
Ưa ở nơi thanh vắng
Người trí nên biết rõ
Ðó là Ðộc giác thừa
Ðầy đủ các căn lành
Gìn giữ tâm từ bi
Ưa giáo hóa lợi
sanh
Ðó gọi là Ðại thừa
Giữ giới bỏ thân mạng
Không não hại chúng sanh
Tinh tấn cầu pháp không
Nên biết là Ðại thừa
Tâm kham nhẫn các pháp
Nói rõ không che giấu
Thường vui thích các pháp
Nên biết là Ðại thừa
Pháp khí, chẳng pháp khí
Tâm bình đẳng lợi lạc
Không nhiễm pháp thế tục
Nên biết là Ðại thừa
Thế nên người có trí
Cung kính thuyết ba thừa
Không làm não chúng Tăng
Mau thành Vô thượng giác.
Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có sát-đế-lợi
hiền thiện, Bà-la-môn hiền thiện, Tể quan hiền thiện, Cư sĩ hiền thiện,
Trưởng giả hiền thiện, Sa-môn hiền thiện, Phiệt-xá hiền thiện, Mậu-đạt-la
hiền thiện, hoặc người nam, người nữ nào thành tựu mười luân nên làm theo,
thì ngay trong đời hiện tại có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh văn
thừa, làm cho không lui mất, hoặc ngay trong đời này thành tựu pháp khí
bậc Thánh Thanh văn thừa, chẳng phải pháp khí bậc Thánh Ðộc giác thừa, Ðại
thừa.
Thế nào là mười?
1- Ðầy đủ đức tin thanh tịnh: nghĩa là tin có
tất cả nghiệp quả thiện ác.
2- Ðầy đủ tàm quý: nghĩa là xa lìa tất cả bạn
ác, ác kiến. 3- An trú trong luật nghi: nghĩa là tránh xa sát
sanh cho đến uống rượu.
4- An trú tâm từ: nghĩa là xa lìa tất cả sân
giận làm não loạn.
5- An trú tâm bi: nghĩa là cứu giúp tất cả
hữu tình yếu đuối.
6- An trú tâm hỷ: nghĩa là xa lìa tất cả bốn
ác nghiệp về lời nói.
7- An trú tâm xả: nghĩa là xa lìa tất cả tánh
tham lam, ganh ghét.
8- Quy y chân chánh hoàn thiện: nghĩa là xa
lìøa tất cả vọng chấp, tốt xấu, hoàn toàn không quy y tà thần, ngoại đạo.
9- Ðầy đủ đức tinh tấn: nghĩa là kiên cố,
dõng mãnh tu tập các thiện pháp.
10- Thương ưa thiền định: nghĩa là tư duy tìm
cầu nghĩa giáo pháp, vui thích không mỏi mệt.
Này thiện nam tử! Nếu có Sát-đế-lợi hiền
thiện cho đến Mậu-đạt-la hiền thiện, hoặc nam hoặc nữ thành tựu mười luân
nên làm theo này, ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh
văn thừa, làm cho không lui mất. Hoặc ngay trong đời này chứng Thánh pháp
của Thanh văn thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh văn thừa, chẳng
phải chứng Thánh pháp Ðộc giác, Ðại thừa; chẳng phải thành tựu pháp khí
bậc Thánh Ðộc giác, Ðại thừa. Nên biết, trong đây Ðộc giác, Ðại thừa đều
như trước đã nói.
Này thiện nam tử! Mười luân nên làm theo này,
tất cả Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát, chư Phật Như Lai đều đồng có.
Này thiện nam tử! Lại có mười luân nên làm
theo, không có ở Thanh văn mà chỉ có ở các bậc Ðộc giác, Bồ-tát, Như Lai:
Nếu có Sát-đế-lợi hiền thiện cho đến
Mậu-đạt-la hiền thiện.v.v... hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân nên
làm theo này, ngay trong hiện đời có thể mau gieo trồng hạt giống Ðộc giác
thừa, làm cho không lui mất. Hoặc ngay trong hiện đời chứng Thánh pháp của
Ðộc giác thừa, thành tựu pháp khí Ðộc giác thừa.
Thế nào là mười?
1- Tu hành thanh tịnh các nghiệp về thân,
ngữ, ý.
2- Ðầy đủ tàm quý, nhàm chán thân mình.
3- Ðối với năm thủ uẩn rất lo sợ.
4- Thấy dòng sông
sanh tử rất khó vượt qua.
5- Thường ưa chỗ vắng vẻ, xa lìa nơi ồn ào.
6- Ưa thích nơi thanh vắng, không chê lỗi
người.
7- Gìn giữ các căn, tâm thường tịch tịnh.
8- Khéo quán sát kỹ về nhân quả duyên
khởi.
9- Thường ưa siêng năng tu tập đẳng trì tịnh
lự.
10- Ðối với pháp tập khởi hay khéo diệt trừ.
Này thiện nam tử! Nếu có Sát-đế-lợi hiền
thiện cho đến Mậu-đạt-la hiền thiện, hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười
luân nên làm theo này thì ngay trong hiện đời có thể mau gieo trồng hạt
giống Ðộc giác thừa, làm cho không lui mất, hoặc ngay trong hiện đời chứng
Thánh pháp của Ðộc giác thừa, thành tựu pháp khí Ðộc giác thừa.
Này thiện nam tử! Ðó gọi là luân nên làm theo
của tất cả Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả Thanh văn và các Ðộc giác nương vào
luân này mau có thể vượt qua biển lớn ba cõi, mau hướng đến thành
Niết-bàn.
Này thiện nam tử! “Luân nên làm theo” (Hữu y
hành luân) là nghĩa như thế nào?.
- Hữu y, hữu
là có chấp thủ, có ngã sở. Y là có sự nhiếp thọ, có sự ràng
buộc. Hành là: hành uẩn, hành giới, hành xứ và hành hệ
thuộc. Luân là luân giáo thọ, giáo giới, như bánh xe của
Chuyển luân vương hoặc thủ hành luân.
Như vậy, tất cả Thanh văn, Ðộc giác nương vào
luân này mong cầu đạo Niết-bàn nên hai hạng này chẳng phải là bậc pháp khí
Ðại thừa. Vì sao? - Vì hai hạng đó nương vào hạnh thấp kém nên chẳng phải
bậc Ðại thừa.
Do vị đó tự mình chấp lấy các
hành uẩn, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ
cho mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu
tình nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó tự mình nương vào các
hành giới, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ
cho mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu
tình nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó nhiếp thọ các hành xưù,
kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho mình, chứ
không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng
phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó lệ thuộc hữu, lệ
thuộc hành, đối với các hữu tình không ưa nhiếp thọ, không có tâm
từ bi, có lệ thuộc nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó thấy người khác chịu đủ các khổ mà
bỏ đi, không chịu cứu, chỉ mong cầu giải thoát cho bản thân mình nên chẳng
phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó muốn diệt trừ phiền não căn bản cho
mình mà không thích diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên chẳng phải
là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó không có khả năng cỡi xe Ðại thừa
hướng đến Bồ-đề nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó không thể theo bánh xe pháp lớn
hướng đến Bồ-đề nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại thừa.
Do vị đó thích tu riêng một mình, không có
bạn tu hành đồng đến thành Niết-bàn nên chẳng phải là bậc pháp khí Ðại
thừa.
Này thiện nam tử! Các chúng sanh nào đối với
pháp Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa chưa lập công khó nhọc và siêng năng tu
học thì chúng sanh đó căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn.
Nếu họ giảng thuyết chánh pháp Ðại thừa thâm sâu vi diệu thì hai bên -
người giảng và nghe - đều mắc tội lớn, cũng là trái nghịch tất cả chư
Phật. Vì sao? - Vì các chúng sanh ấy đối với pháp Thanh văn thừa, Ðộc giác
thừa chưa lập công khó nhọc và siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục,
còn thấp kém, ít tinh tấn mà liền nghe, lãnh thọ chánh pháp Ðại thừa thâm
sâu vi diệu như vậy.
Các chúng sanh này thật là ngu si
mà tự cho mình thông suốt, phá tan, diệt trừ tưởng điên đảo, vọng chấp nói
không có nhân, đối với các nghiệp quả phát sanh tưởng đoạn diệt, bác bỏ
tất cả, không có điều thiện để làm, điều ác để tạo nghiệp, vọng nói Ðại
thừa, phá hoại, làm rối loạn chánh pháp Ta, rồi phi pháp nói là chánh
pháp, chánh pháp nói là phi pháp; thật chẳng phải Sa-môn nói là Sa-môn,
thật là Sa-môn nói chẳng phải Sa-môn; thật chẳng phải Tỳ-nại-da nói là
Tỳ-nại-da, thật là Tỳ-nại-da nói là chẳng phải Tỳ-nại-da. Do tâm họ ngu
si, điên đảo, cao ngạo, ngã mạn, ganh ghét bạn bè nên đối với pháp Ðại
thừa ủng hộ, khen ngợi, làm cho lưu truyền rộng rãi, còn đối với pháp
Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa thì phỉ báng, làm chướng ngại, không lưu
truyền rộng rãi, không thể như thật mà nương vào Thanh văn thừa, hoặc Ðộc
giác thừa, hoặc Vô thượng thừa mà bỏ thế tục xuất gia, thọ giới Cụ túc,
thành tựu tánh Bí-sô; cũng không thể như thật tu tập tất cả nhân duyên
pháp thiện; đối với đệ tử của Ta hoặc là bậc pháp khí, hoặc chẳng phải bậc
pháp khí, nghĩa là người siêng năng tu hạnh học, vô học, cho đến chứng đắc quả sau cùng, hoặc là phàm phu hiền thiện trì giới,
phá giới, không có giới thì họ dùng đủ cách mắng nhiếc, quở trách, làm não
loạn, hoặc đoạt lấy y bát của người, không cho thọ dùng các vật dụng; trói
buộc, giam nhốt như vậy cho đến nói chấp đoạn, bác bỏ tất cả, không có
nhân quả. Tuy họ ở trong loài người nhưng thật là La-sát, vào đời vị lai
vô số đại kiếp khó được lại thân người. Thà ở trong địa ngục chịu vô lượng
khổ chứ không làm người mà sanh đoạn kiến. Người ngu si này, không bao lâu
thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng, không thể nói
được, chịu các khổ đau đớn khó chịu nổi. Sau khi qua đời, nhất định đọa
vào ngục Vô gián. Ở trong các đường ác xoay vần qua lại, thọ lấy các khổ,
khó có thể cứu vớt, hàng trăm ngàn kiếp khó trở lại thân người. Tuy đã
trải qua vô lượng vô số kiếp rồi trở lại được làm người nhưng sanh trong
đời năm trược, vào thời kỳ không có Phật, sanh ra bị mù, điếc, câm, ngọng,
không có lưỡi; các thứ bệnh nặng thường làm đau khổ bức bách; hoặc thân
hôi dơ, người không muốn nhìn đến; lời nói chậm chạp, vụng về, khó nghe;
tâm thường mê loạn, không hiểu rõ; sanh vào nhà nghèo cùng, thiếu thốn,
không gặp bạn lành, làm theo bạn ác, thích tạo nghiệp ác ưa chấp ác kiến,
tạo tội Vô gián để trở lại đọa vào ngục Vô gián, luân hồi trong đường ác,
khó có thời kỳ ra khỏi.
Như vậy, người ngu si chấp đoạn diệt, làm hư
hoại, hủy diệt chánh pháp của Ta, làm bức bách, xúc não, trách phạt các đệ
tử trì giới, phá giới, không có giới của Ta, làm cho họ không an tâm tu
hành các điều thiện. Do nhân duyên này mà hàng trăm ngàn kiếp chìm đắm
trong các đường ác, từ chỗ đen tối này đến chỗ đen tối khác, khó có thời
kỳ ra khỏi.
Những chúng sanh mắc tội báo như vậy đều là
chưa mong cầu nghe, tu tập pháp Thanh văn, Ðộc giác thừa, mà trước mong
cầu nghe, tu tập chánh pháp Ðại thừa thâm sâu vi diệu. Người ngu si chấp
đoạn như vậy sanh làm người thấp kém còn khó được, huống là thành bậc pháp
khí Hiền thánh; còn không thể chứng được Niết-bàn của Thanh văn, Ðộc giác,
huống là được đạo Vô thượng Chánh đẳng giác thâm sâu rộng lớn. Những chúng
sanh mắc lỗi lầm như vậy là đều do chưa học pháp Thanh văn thừa, Ðộc giác
thừa mà trước đã học Ðại thừa.
Này thiện nam tử! Ví như bình sành bị nhiều
lằn nứt, đựng các thứ dầu, sữa đều bị rỉ chảy. Hai thứ: bình đựng và chất
chứa trong đó đều bị hoại mất. Vì sao? - Vì bình đựng bị hư hoại. Chúng
sanh này đối với pháp Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa chưa chịu khó nhọc và
siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn; nếu
thuyết giảng chánh pháp Ðại thừa thâm sâu vi diệu thì người giảng, người
nghe đều mắc tội lớn, cũng là việc làm trái nghịch tất cả chư Phật, mắc
tội lỗi đã nói rộng như ở trước.
Ví như kho tích chứa tài sản của báu ở đời bị
sụp lở, tất cả đều tan mất; những chúng sanh như vậy đối với pháp nhị thừa
phỉ báng không tin, không chịu tu học mà giảng thuyết Ðại thừa cho họ nên
hiểu biết không đúng như thật. Do đó tạo tội xoay vần không dứt.
Ví như ghe thuyền lủng rỉ nhiều chỗ, không
thể chuyên chở qua biển lớn được, chúng sanh này phần nhiều tham lam, ganh
ghét, đối với pháp nhị thừa chưa từng tu học, vọng xưng là Ðại thừa, thật
là chấp đoạn kiến, kiêu mạn, dua nịnh, thành ra thân rỉ chảy, không thể
nương cậy vào biển Nhất thiết trí.
Ví như người mù mắt, không thể chỉ các thứ
trân bảo, cũng vậy, chúng sanh kiêu mạn, buông lung, chấp trước kiến
không, không học nhị thừa, mù mờ không có mắt trí tuệ, không thể chỉ rõ
trân bảo công đức Ðại thừa vô thượng.
Ví như có người thân hôi dơ, tuy dùng các thứ
hương thơm tốt nhất để thoa nhưng hoàn toàn không thể làm cho thân thể
sạch thơm được; cũng vậy, chúng sanh ngu si kiêu mạn, đối với pháp nhị
thừa không thích siêng năng tu tập, không bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Tuy
siêng năng nghe, lãnh thọ Ðại thừa vô thượng nhưng hoàn toàn không hiểu
được chánh pháp thâm sâu.
Ví như ruộng đá, tuy gieo trồng giống tốt,
gia công đầu tư vào ruộng, nhưng hoàn toàn không thu hoạch được. Cũng vậy,
chúng sanh đối với pháp nhị thừa kiêu mạn, biếng nhác, không ưa siêng năng
tu tập, chỉ tham cầu năm món dục lạc chưa từng mỏi mệt nhàm chán; tuy đối
với bản thân gieo hạt giống Ðại thừa, siêng năng tinh tấn chịu khổ, nhưng
hoàn toàn không có thành tựu.
Ví như cái hủ trước đã đựng thuốc độc, sau bỏ
ít đường phèn, không thể ăn được. Cũng vậy, chúng sanh này đối với pháp
nhị thừa không chịu tu học, chấp cho là không có nhân, nếu vì họ thuyết
giảng Ðại thừa thì hoàn toàn không thể thành tựu lợi ích cho mình và
người.
Ví như cái hủ, trước đây đựng đường phèn, sau
bỏ ít thuốc độc, không thể dùng được. Cũng vậy, chúng sanh tinh tấn tu học
chánh pháp nhị thừa, chưa được thành tựu, nếu thuyết giảng Ðại thừa cho họ
thì cả hai đều mất.
Ví như người ngu si, tâm cuồng loạn mà trỗi
các âm nhạc cho họ nghe, cũng không thể hiểu biết được. Cũng vậy, chúng
sanh đối với chánh pháp nhị thừa chưa từng tu học, bị phiền não tham sân
si mạnh mẽ khuấy rối, chấp trước cho là không có nhân và chấp đoạn diệt,
căn cơ chưa thuần thục mà thuyết giảng Ðại thừa cho họ nghe, tuy trải qua
nhiều thời gian nhưng không thể hiểu rõ được.
Ví như có người không mặc áo giáp, đội mũ
giáp, không cầm dao gậy mà liền xông vào chiến trận, ắt sẽ bị thương, chịu
các đau khổ. Cũng vậy, chúng sanh này đối với chánh pháp nhị thừa chưa
từng tu học, trí tuệ thấp kém, căn khí chưa thành thục mà thuyết giảng Ðại
thừa cho họ nghe, ắt sẽ sanh tâm vọng chấp; do đây, dần dần tạo các nghiệp
ác không dứt. Người ngu si này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết,
nhiều ngày lưỡi sẽ khô cứng không nói được, chịu các khổ đau đớn khó chịu
nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, lưu chuyển qua
lại trong các đường ác.
Nên biết
theo thứ lớp như đã nói rộng ở trước.
Này thiện nam tử! Thế nên người trí trước
phải quán sát hết thảy tâm của chúng sanh rồi sau đó mới giảng thuyết
chánh pháp. Trước phải phát sanh tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm làm lợi ích,
tâm không biếng nhác, tâm nhẫn nhục, tâm không kiêu mạn, tâm không ganh
ghét, tâm không xan tham, tâm thiền định, sau đó mới giảng thuyết chánh
pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho các chúng sanh do nghe giáo pháp
mà lưu chuyển trong sanh tử, đọa vào đường hiểm nạn lớn.
Thế nên Như Lai hiểu biết rõ tâm
tưởng của tất cả chúng sanh, dùng hành luân vô trần cấu, hành luân vô
thủ mà thuyết chánh pháp cho họ. Tất cả chúng đại Bồ-tát đầy đủ đại
giáp trụ giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh cũng như vậy. Do thương
xót nên làm cho họ diệt trừ các phiền não, làm cho họ vượt ra khỏi biển ba
cõi, làm cho tất cả chúng sanh tùy theo tâm ưa thích mà hướng đến một thừa
trong ba thừa và mau được viên mãn. Giảng thuyết chánh pháp cho họ nghe,
hoàn toàn không làm cho họ lưu chuyển trong sanh tử, đọa vào nạn hiểm lớn.
Thế nào gọi là luân
vô trần cấu hành? - Vô trần cấu nghĩa là lúc thuyết pháp, không vì
có uẩn, không vì có xứ, không vì có giới, không vì có Dục giới, không vì
có Sắc giới, không vì có Vô sắc giới, không vì có đời này, không vì có đời
khác, không vì có các hành, không vì có thọ, không vì có tưởng, không vì
có tư, không vì có xúc, không vì có tác ý, không vì có vô minh cho đến
không vì có lão tử, không vì có hành và bất hành mà giảng thuyết chánh
pháp cho các chúng sanh. Chỉ vì tất cả uẩn, xứ, giới, nói rộng cho đến
hành và bất hành đều vắng lặng mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng
sanh. Do nghĩa này nên gọi là vô trần cấu hành, nghĩa là có thể
đoạn hẳn chết ở đây sanh ở kia, giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sanh
hay đoạn hẳn các uẩn, xứ, giới; nói rộng cho đến đoạn hẳn hành và bất hành
mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh. Ðó gọi là hành.
Luân nghĩa là như ánh
trăng rằm chiếu sáng, diệu tỏa khắp không gian, chiếu soi tất cả cảnh vật
không chướng ngại. Cũng vậy, Như Lai và các Bồ-tát có thần thông giảng
thuyết, dạy bảo ba loại luân thù thắng có tác dụng vô ngại, đi khắp các
thế giới giáo hóa làm lợi lạc tất cả chúng sanh, làm cho các chúng sanh
cùng quy về một đường. Ðiều này tất cả chúng sanh ở đời không có, tất cả
Thanh văn, Ðộc giác cũng không có. Phật và Bồ-tát hay làm cho chúng sanh
diệt trừ các khổ não sanh tử, chứng đắc quả Niết-bàn an vui. Ðó gọi là
hành luân vô trần cấu của chư Phật Bồ-tát.
Thế nào gọi là hành luân
không chấp thủ? - Nghĩa là đối với các pháp không chướng ngại,
giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp tất cả. Các bậc pháp khí ba thừa
tùy theo căn cơ chúng sanh mà giảng thuyết chánh pháp, không chấp trước.
Nghĩa là chư Như Lai vì các chúng sanh giảng thuyết giáo pháp này, giống
như hư không, không có tướng sai khác; dùng vô lượng định an trụ trang
nghiêm tự tại, giảng thuyết chánh pháp vi diệu cho các chúng sanh không
chấp trước.
Tất cả chúng đại Bồ-tát đầy đủ đại giáp trụ
giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy. Nghĩa là:
Lúc giảng thuyết các pháp chẳng phải có,
chẳng phải không. Chẳng phải là không của
sắc, chẳng phải lìa không của sắc.
Cho đến chẳng phải là không của thức, chẳng
phải lìa không của thức.
Chẳng phải là không của nhãn, chẳng phải lìa
không của nhãn.
Cho đến chẳng phải là không của ý, chẳng phải
lìa không của ý.
Chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa
không của sắc.
Cho đến chắng phải là không của pháp, chẳng
phải lìa không của pháp.
Chẳng phải là không của nhãn thức, chẳng phải
lìa không của nhãn thức.
Cho đến chẳng phải là không của ý thức, chẳng
phải lìa không của ý thức.
Chẳng phải là không của Dục giới, chẳng phải
lìa không của Dục giới.
Cho đến chẳng phải là không của hư không vô
biên xứ, chẳng phải lìa không của hư không vô biên xứ.
Chẳng phải là không của thức vô biên xứ,
chẳng phải lìa không của thức vô biên xứ.
Chẳng phải là không của vô sở hữu xứ, chẳng
phải lìa không của vô sở hữu xứ.
Chẳng phải là không của phi tưởng phi phi
tưởng xứ, chẳng phải lìa không của phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Chẳng phải là không của bốn niệm trụ, chẳng
phải lìa không của bốn niệm trụ.
Cho đến chẳng phải là không của tám chi Thánh
đạo, chẳng phải lìa không của tám chi Thánh đạo.
Chẳng phải là không của pháp duyên khởi,
chẳng phải lìa không của pháp duyên khởi.
Chẳng phải là không của ba bất hộ, chẳng phải
lìa không của ba bất hộ.
Chẳng phải là không của bốn vô sở úy, chẳng
phải lìa không của bốn vô sở úy.
Chẳng phải là không của mười lực, chẳng phải
lìa không của mười lực.
Chẳng phải là không của mười tám pháp bất
cộng, chẳng phải lìa không của mười tám pháp bất cộng.
Chẳng phải là không của đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả; chẳng phải lìa không của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.
Chẳng phải là không của Niết-bàn, chẳng phải
lìa không của Niết-bàn.
Ðó là Như Lai và các Bồ-tát giảng thuyết
chánh pháp vi diệu cho các chúng sanh.
Này thiện nam tử! Như vậy Như Lai
vì các chúng sanh dùng hành luân vô trần cấu thuyết pháp như
ánh trăng tròn chiếu sáng diệu tỏa khắp không gian, thấu suốt cảnh vật
không bị chướng ngại, cho đến nói rộng như trên.
Lại dùng hành luân vô thủ
giảng thuyết chánh pháp vi diệu, đối với tất cả pháp không bị chướng ngại, giống như
mặt trời chiếu soi tất cả.
Bậc pháp khí trong ba thừa tùy theo căn cơ
chúng sanh giảng thuyết chánh pháp không có chấp trước. Nghĩa là các đức
Như Lai giảng thuyết giáo pháp như vậy cho các chúng sanh, giống như hư
không không có tướng sai khác, dùng vô lượng định an trú trang nghiêm tự
tại, vì các chúng sanh giảng thuyết chánh pháp vi diệu không bị chấp
trước, làm cho các chúng sanh tùy theo sở thích mà hướng đến ba thừa.
Tất cả chúng đại Bồ-tát đầy đủ đại giáp trụ
giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy, làm cho các chúng
sanh nghe giáo pháp thâm sâu thù thắng này rồi, đối với ba thừa tùy theo
sở thích mà hướng đến một thừa, các thiện căn đều được thành tựu, an trú
vào một thừa tốt nhất, hoàn toàn không làm cho người đó ở trong sanh tử
tăng trưởng nhiều điều ác bất thiện, mà đối với Niết-bàn thì vững chắc
không thối lui.
Này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát vì muốn dứt trừ
dòng sanh tử cho vô lượng vô số chúng sanh mà thuyết pháp cho họ. Hàng
Thanh văn, Duyên giác vì muốn dứt trừ dòng sanh tử của mình mà thuyết pháp
cho họ.
Ðại Bồ-tát vì làm cho vô lượng vô số chúng
sanh vượt qua bốn bạo lưu mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Duyên
giác chỉ vì muốn làm cho mình vượt qua bốn bạo lưu mà giảng thuyết giáo
pháp cho họ.
Ðại Bồ-tát vì muốn diệt trừ các bệnh phiền
não cho vô lượng vô số chúng sanh mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng
Thanh văn, Ðộc giác vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho mình mà giảng
thuyết giáo pháp cho chúng sanh.
Ðại Bồ-tát vì muốn dứt trừ các uẩn phiền não
tập khí tương tục của chúng sanh, làm cho đoạn trừ hết không còn sót lại
mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Ðộc giác chỉ vì mình
muốn đoạn trừ các uẩn tập khí phiền não tương tục còn dư lại chưa đoạn hết
mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sanh.
Ðại Bồ-tát vì muốn thành tựu quả đại bi đẳng
lưu - mà đại bi là nhân - nên giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh
văn, Ðộc giác không vì quả đại bi nên không có nhân đại bi mà giảng thuyết
giáo pháp cho chúng sanh.
Ðại Bồ-tát nhớ nghĩ các chúng sanh nên thuyết
pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Ðộc giác không nhớ nghĩ đến các chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ.
Ðại Bồ-tát vì muốn làm ngừng khổ đau của tất
cả chúng sanh mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Ðộc giác
chỉ vì muốn làm ngừng khổ cho mình mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng
sanh.
Ðại Bồ-tát vì muốn tất cả chúng sanh được
viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Ðộc
giác chỉ vì bản thân mình được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp
cho chúng sanh.
Ðại Bồ-tát vì muốn làm cho các chúng sanh
thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh văn,
Ðộc giác chỉ vì muốn mình được thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh
pháp cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Nói tóm lại, đại Bồ-tát có
vô lượng luật nghi, vì muốn diệt trừ bóng tối vô minh lớn, sự sợ hãi lớn,
tất cả suy tổn của tất cả chúng sanh, được ánh sáng lớn và tiếng khen lớn,
như thật giác ngộ trí Nhất thiết trí nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh
văn, Ðộc giác có ít luật nghi, chỉ vì diệt trừ bóng tối vô minh cho bản
thân, được ánh sáng nhỏ và ít tiếng khen, như thật giác ngộ chút phần pháp
trí mà thuyết pháp cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Thanh văn, Ðộc giác không
có tâm thật sự nhớ nghĩ đến chúng sanh, không có thật lòng thương xót
chúng sanh, không có tâm thật sự không khinh thường chúng sanh, không có
tâm thật sự làm lợi ích cho chúng sanh, không có tâm thật sự cứu giúp
chúng sanh, không có tâm thật sự tiến cử người khác, không có tâm thật sự
muốn khen ngợi người khác, không có tâm thật sự không dua nịnh mà khen
ngợi người khác, không có tâm không luyến tiếc thân mình làm cho người
khác an vui, không có tâm không khởi sai lầm về ba nghiệp thân, ngữ, ý đối
với người khác.
Này thiện nam tử! Người an trú Ðại thừa không
có tâm thật sự nghĩ nhớ đến bản thân mình, nói rộng cho đến không có tâm
phát khởi sai lầm về ba nghiệp thân, ngữ, ý đối với người khác.
KINH ÐẠI THỪA ÐẠI TẬP ÐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Hết quyển thứ
sáu
--- o0o ---
Mục Lục
Quyển 01
|
Quyển 02
|
Quyển 03
|
Quyển 04 |
Quyển 05
--- o0o ---
Vi tính: Nguyên
Tịnh
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 4-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục