(1) Bấy giờ đức Thế-Tôn ở trong đạo-tràng Bồ-Ðề tại nước Ma-Kiệt-Ðề vừa
thành bực chánh-giác, nơi điện Phổ-Quang-Minh nhập tam-muội tên
Sát-Na-Tế-Chư-Phật, dùng sức nhứt-thiết-trí-tự-thần-thông hiện thân
Như-Lai thanh-tịnh vô-ngại không chỗ y-tựa, không chỗ nhiễm trước, có thể
làm cho người thấy đều được khai-ngộ. Tùy nghi xuất hiện chẳng lỗi thời.
Hằng trụ một tướng, chính là vô-tướng. Cùng với mười phật-sát vi-trần-số
đại Bồ-Tát câu-hội. Chư Bồ-Tát này đều là bực Quán-Ðảnh đầy đủ hạnh Bồ-Tát
đồng như pháp-giới vô-lượng vô biên, đã được Phổ-Kiến tam-muội, đại-bi
an-ổn tất cả chúng-sanh, thần-thông tự-tại, thâm-nhập trí-huệ đồng với
Như-Lai, diễn nghĩa chân thiệt, đủ nhứt-thiết-trí hàng phục chúng ma. Dầu
nhập thế-gian mà tâm luôn tịch-tịnh, an-trụ nơi giải-thoát vô-trụ của
Bồ-Tát. Danh hiệu của các người là :
Kim-Cang-Huệ Bồ-Tát, Vô-Ðẳng-Huệ Bồ-Tát, Nghĩa-Ngữ-Huệ Bồ-Tát,
Tối-Thắng-Huệ Bồ-Tát, Thường-Xả-Huệ Bồ-Tát, Na-Dà-Huệ Bồ-Tát,
Thành-Tựu-Huệ Bồ-Tát, Ðiều-Thuận-Huệ Bồ-Tát, Ðại-Lực-Huệ Bồ-Tát,
Nan-Tư-Huệ Bồ-Tát, Vô-Ngại-Huệ Bồ-Tát, Tăng-Thượng-Huệ Bồ-Tát,
Phổ-Cúng-Huệ Bồ-Tát, Như-Lý-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Xảo-Huệ Bồ-Tát,
Pháp-Tự-Tại-Huệ Bồ-Tát, Pháp-Huệ Bồ-Tát, Tịch-Tịnh-Huệ Bồ-Tát,
Hư-Không-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Tướng-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát,
Như-Huyễn-Huệ Bồ-Tát, Quảng-Ðại-Huệ Bồ-Tát, Thế-Lực-Huệ Bồ-Tát,
Thế-Gian-Huệ Bồ-Tát, Phật-Ðịa-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát,
Tôn-Thắng-Huệ Bồ-Tát, Trí-Quang-Huệ Bồ-Tát, Vô-Biên-Huệ Bồ-Tát,
Niệm-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, Ðạt-Không-Tế Bồ-Tát, Tánh-Trang-Nghiêm Bồ-Tát,
Thậm-Thâm-Cảnh Bồ-Tát, Thiện-Giải-Xứ-Phi-Xứ Bồ-Tát, Ðại-Quang-Minh Bồ-Tát,
Thường-Quang-Minh Bồ-Tát, Liễu-Phật-Chủng Bồ-Tát, Tâm-Vương Bồ-Tát,
Nhứt-Hạnh Bồ-Tát, Thường-Hiện-Thần-Thông Bồ-Tát, Trí-Huệ-Nha Bồ-Tát,
Công-Ðức-Xứ Bồ-Tát, Pháp-Ðăng Bồ-Tát, Chiếu-Thế Bồ-Tát, Trì-Thế Bồ-Tát,
Tối-An-Ổn Bồ-Tát, Tối-Thượng Bồ-Tát, Vô-Thượng Bồ-Tát, Vô-Tỉ Bồ-Tát,
Siêu-Luân Bồ-Tát, Vô-Ngại-Hạnh Bồ-Tát, Quang-Minh-Diệm Bồ-Tát,
Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Nhứt-Trần Bồ-Tát, Kiên-Cố-Hạnh Bồ-Tát, Chú-Pháp-Vũ
Bồ-Tát, Tối-Thắng-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Trang-Nghiêm Bồ-Tát, Trí-Nhãn Bồ-Tát,
Pháp-Nhãn Bồ-Tát, Huệ-Vân Bồ-Tát, Tổng-Trì-Vương Bồ-Tát, Vô-Trụ-Nguyện
Bồ-Tát, Trí-Tạng Bồ-Tát, Tâm-Vương Bồ-Tát, Nội-Giác-Huệ Bồ-Tát,
Trụ-Phật-Trì Bồ-Tát, Ðà-La-Ni-Dũng-Kiện-Lực Bồ-Tát, Trì-Ðiạ-Lực Bồ-Tát,
Diệu-Nguyệt Bồ-Tát, Tu-Di-Ðảnh Bồ-Tát, Bửu-Ðảnh Bồ-Tát, Phổ-Quang-Chiếu
Bồ-Tát, Oai-Ðức-Vương Bồ-Tát, Trí-Huệ-Luân Bồ-Tát, Ðại-Oai-Ðức Bồ-Tát,
Ðại-Long-Tướng Bồ-Tát, Chất-Trực-Hạnh Bồ-Tát, Bất-Thối-Chuyển Bồ-Tát,
Trì-Pháp-Tràng Bồ-Tát, Vô-Vong-Thất Bồ-Tát, Nhiếp-Chư-Thú Bồ-Tát,
Bất-Tư-Nghì-Quyết-Ðịnh-Huệ Bồ-Tát, Du-Hí-Vô-Biên-Trí Bồ-Tát,
Vô-Tận-Diệu-Pháp-Tạng Bồ-Tát, Trí-Nhựt Bồ-Tát, Pháp-Nhựt Bồ-Tát, Trí-Tạng
Bồ-Tát, Trí-Trạch Bồ-Tát, Phổ-Kiến Bồ-Tát, Bất-Không-Kiến Bồ-Tát,
Kim-Cang-Dũng Bồ-Tát, Kim-Cang-Trí Bồ-Tát, Kim-Cang-Diệm Bồ-Tát,
Kim-Cang-Huệ Bồ-Tát, Phổ-Nhãn Bồ-Tát, Phật-Nhựt Bồ-Tát,
Trì-Phật-Kim-Cang-Bí-Mật-Nghĩa Bồ-Tát, Phổ-Nhãn-Cảnh-Giới-Trí-Trang-Nghiêm
Bồ-Tát, . . .
Mười phật-sát vi-trần-số đại Bồ-Tát như vậy, thuở xưa đều cùng với đức
Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đồng tu những thiện-căn-hạnh của Bồ-Tát.
Bấy giờ Phổ-Nhãn Bồ-Tát thừa thần-lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch y vai bên hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật rằng :
"Bạch đức Thế-Tôn ! Con có chỗ muốn hỏi nơi đấng Như-Lai Ðẳng Chánh-Giác,
xin thương xót cho phép".
Phật nói: "Phổ-Nhãn ! Cho phép ngươi hỏi. Ta sẽ giải thuyết cho ngươi được
hoan-hỷ".
Phổ-Nhãn Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát và chúng
Bồ-Tát an-trụ nơi hạnh nguyện Phổ-Hiền, thành-tựu bao nhiêu tam-muội
giải-thoát, mà hoặc nhập, hoặc xuất, hoặc có lúc an-trụ nơi các đại
tam-muội của Bồ-Tát. Vì khéo nhập xuất nơi các đại tam-muội quảng-đại
bất-tư-nghì của Bồ-Tát nên có thể ở nơi tất cả tam-muội thần-thông
biến-hóa tự-tại không thôi nghỉ ? ".
Phật nói : " Lành thay ! Nầy Phổ-Nhãn ! Người vì lợi ích cho chúng Bồ-Tát
thuở quá-khứ, vị-lai và hiện-tại mà hỏi nghĩa trên đây.
Nầy Phổ-Nhãn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện đương ở tại đây, đã thành tựu
thần-thông tự-tại bất tư-nghì vượt lên trên tất cả Bồ-Tát, khó gặp-gỡ
được. Từ nơi vô-lượng Bồ-Tát hạnh, Phổ-Hiền phát sanh Bồ-Tát đại-nguyện,
những công hạnh đều đã thanh-tịnh, đều không thối-chuyển. Vô-lượng môn
ba-la-mật, môn vô-ngại đà-la-ni, môn biện-tài vô-tận-Phổ-Hiền đều đã
thanh-tịnh vô-ngại cả. Do bổn-nguyện-lực, Phổ-Hiền vận lòng đại-bi lợi ích
tất cả chúng-sanh suốt thuở vị-lai không hề nhàm mỏi.
Ngươi nên hỏi Phổ-Hiền. Bồ-Tát ấy sẽ vì ngươi mà nói về tam-muội tự-tại
giải-thoát đó ".
Bấy giờ chúng Bồ-Tát trong hội nghe danh hiệu Phổ-Hiền, tức thời chúng
được vô-lượng bất-tư-nghì tam-muội, tâm được vô-ngại yên tịnh chẳng động,
trí-huệ rộng lớn khó dò lường được, cảnh-giới rất sâu ít ai sánh kịp, hiện
tiền đều thấy vô-lượng chư Phật, được Phật-lực, đồng Phật-tánh, chiếu sáng
suốt ba thuở quá khứ, vị-lai, hiện-tại. Ðược phước-đức vô cùng tận, tất cả
thần-thông đều đã đầy đủ.
Chư Bồ-Tát này đối với Phổ-Hiền Bồ-Tát sanh lòng tôn-trọng khát ngưỡng
muốn thấy, nhưng nhìn khắp mọi nơi mà vẫn không thấy, cũng chẳng thấy tòa
ngồi của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Sự
không thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát của đại chúng trên đây là do oai lực của
Như-Lai và cũng là thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát khiến như vậy.
Phổ-Nhãn Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện nay ở đâu
? ".
Phật nói : " Nầy Phổ-Nhãn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện đương ngồi gần bên ta
không hề dời chỗ. "
Phổ-Nhãn Bồ-Tát và chư Bồ-Tát lại ngó tìm khắp cả hội-trường rồi thưa : "
Bạch đức Thế-Tôn ! Nay chúng con vẫn chưa thấy được thân và tòa ngồi của
Phổ-Hiền Bồ-Tát".
Phật nói : " Ðúng thế ! Vì cớ chi mà các ngươi chẳng thấy được ? Nầy
Phổ-Nhãn ! Vì trụ xứ của Phổ-Hiền Bồ-Tát rất sâu bất-khả-thuyết. Phổ-Hiền
Bồ-Tát được vô-biên môn trí-huệ, nhập sư-tử-phấn-tấn định, được lực-dụng
tự-tại vô-thượng, vào nơi vô-ngại thanh-tịnh sanh mười trí-lực của
Như-Lai, lấy pháp-giới-tạng làm thân, tất cả Như-Lai đồng hộ-niệm, khoảng
một niệm có thể chứng nhập trí vô-sai-biệt của tam-thế chư Phật. Vì thế
nên các ngươi không thấy được ".
Phổ-Nhãn Bồ-Tát nghe Phật nói công-đức thanh-tịnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát liền
được mười ngàn vô-số tam-muội. Dùng sức tam-muội lại khát ngưỡng quán-sát
muốn thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhưng cũng vẫn chẳng thấy. Tất cả chư Bồ-Tát
khác cũng chẳng thấy.
Bấy giờ Phổ-Nhãn Bồ-Tát xuất tam-muội thưa: "Bạch đức Thế-Tôn ! Con đã
nhập mười ngàn vô-số tam-muội cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhưng vẫn chẳng
được thấy. Chẳng thấy thân và thân-nghiệp, ngữ và ngữ-nghiệp, ý và
ý-nghiệp cùng tòa ngồi chỗ ở của Phổ-Hiền Bồ-Tát ".
Phật nói : " Ðúng thế, đúng thế ! Nầy Phổ-Nhãn ! Phải biết đều do Phổ-Hiền
Bồ-Tát an-trụ trong sức bất-tư-nghì giải-thoát.
Nầy Phổ-Nhãn ! Như ý ngươi nghĩ sao ? Có người nào nói được trụ-xứ của các
huyễn-tướng ở trong huyễn-thuật văn tự chăng ? "
-
Bạch Thế-Tôn ! Không thể nói được.
-
Nầy Phổ-Nhãn ! Tướng huyễn trong huyễn-thuật còn không thể nói, huống là
cảnh- giới thân bí-mật, cảnh-giới ngữ bí-mật và cảnh- giới ý bí-mật của
Phổ-Hiền mà có thể nhập có thể thấy được. Vì cảnh- giới của Phổ-Hiền
Bồ-Tát thậm-thâm bất-tư-nghì, vô-lượng, đã ngoài hạn-lượng.
Tóm lại, Phổ-Hiền Bồ-Tát dùng kim-cang-huệ vào khắp pháp-giới, nơi tất cả
thế-giới : vô-sở-hành, vô-sở-trụ. Biết thân của tất cả chúng-sanh đều tức
là phi-thân, không đi không đến. Ðược không đoạn diệt vô-sai-biệt
thần-thông tự-tại. Không y-tựa không tạo-tác không động chuyển, đến nơi
biên-tế rốt ráo của pháp-giới.
Nầy Phổ-Nhãn ! Nếu ai được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, nếu được hầu hạ, nếu được
nghe danh, nếu có tư-duy, nếu có tưởng nhớ, nếu sanh tín-giải, nếu siêng
quán-sát, nếu mới xu-hướng, nếu đương tìm cầu, nếu phát thệ nguyện tiếp
nối không dứt thời đều được lợi ích không luống uổng.
Bấy giờ Phổ-Nhãn và chúng Bồ-Tát đối với Phổ-Hiền Bồ-Tát sanh lòng khát
ngưỡntg trông mong được thấy, đồng xướng lên rằng : " Nam-mô nhứt-thiết
chư Phật ! Nam-mô Phổ-Hiền Bồ-Tát".
Xướng ba lần như thế xong, chúng Bồ-Tát và Phổ-Nhãn đồng cúi đầu đảnh lễ.
Phật bảo Phổ-Nhãn Bồ-Tát và đại-chúng: "Chư Phật-tử ! Các ngươi lại phải
kính lễ Phổ-Hiền Bồ-Tát ân-cần cầu thỉnh. Rồi phải chuyên tâm quan-sát
mười phương, tưởng thân Phổ-Hiền hiện ở trước mình. Suy gẫm như vậy khắp
cả pháp-giới, thâm-tâm tín-giải, nhàm lìa tất cả, thệ đồng một hạnh-nguyện
với Phổ-Hiền Bồ-Tát vào nơi pháp chơn-thiệt bất-nhị, thân mình hiện khắp
tất cả thế-gian, biết rõ các căn-tánh sai biệt của chúng-sanh, khắp mọi
nơi tập họp đạo Phổ-Hiền.
Nếu các ngươi có thể phát đại-nguyện như vậy thời sẽ được thấy Phổ-Hiền
Bồ-Tát.
Nghe Phật dạy xong, Phổ-Nhãn Bồ-tát và đại-chúng đồng thời đảnh lễ cầu
thỉnh được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dùng sức giải-thoát thần-thông theo chỗ đáng
hiện mà hiện sắc-thân, làm cho tất cả chúng Bồ-Tát đều thấy Phổ-Hiền
Bồ-Tát ngồi trên tòa liên-hoa gần đức Như-Lai. Cũng thấy nơi tất cả
thế-giới khác, chỗ tất cả chư Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát tuần tự nối tiếp mà
đến. Cũng thấy nơi tất cả chư Phật kia diễn thuyết tất cả hạnh bồ-tát
khai-thị đạo nhứt-thiết-chủng-trí xiển minh tất cả thần-thông của Bồ-Tát,
phân-biệt tất cả oai-đức của Bồ-Tát thị-hiện tất cả tam-thế chư Phật.
Bấy giờ Phổ-Nhãn và chúng Bồ-Tát thấy thần-biến nầy, lòng hớn-hở và rất
vui mừng, đều đảnh lễ Phổ-Hiền Bồ-Tát tôn trọng xem như tất cả chư Phật
mười phương.
Do
thần-lực của Phật và do sức tín-giải của chúng Bồ-Tát cùng với sức
bổn-nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát tự nhiên kết tụ mười ngàn thứ mây báu :
những mây hoa, mây tràng-hoa, mây hương, mây hương bột, mây lọng, mây
y-phục, mây đồ trang-nghiêm, mây trân bửu, mây hương đốt, mây lụa màụ
Bất-khả-thuyết thế-giới chấn động sáu cách, trổi các thứ nhạc trời, tiếng
vang xa đến bất-khả-thuyết thế-giới. Phóng quang-minh chiếu khắp
bất-khả-thuyết thế-giới làm cho ba ác đạo đều được thoát khổ. Nghiêm tịnh
bất-khả-thuyết thế-giới làm cho bất-khả-thuyết Bồ-Tát nhập hạnh Phổ-Hiền,
bất-khả-thuyết Bồ-Tát viên-mãn hạnh nguyện Phổ-Hiền thành bực vô-thượng
chánh-giác.
Phổ-Nhãn Bồ-Tát thưa : " Bạch đức Thế-Tôn ! Phổ-Hiền Bồ-Tát là bực trụ nơi
oai-đức lớn, trụ nơi vô-đẳng, trụ nơi vô-quá, trụ nơi bất-thối, trụ nơi
bình-đẳng, trụ nơi bất-hoại, trụ nơi tất cả pháp sai-biệt, trụ nơi tất cả
pháp vô-sai-biệt, trụ nơi tất cả chúng-sanh tâm thiện-xảo an-trụ, trụ nơi
tất cả pháp tự-tại giải-thoát tam-muội.
Phật nói : " Ðúng thế ! Ðúng thế ! Như lời ngươi đã nói. Phổ-Hiền Bồ-Tát
có vô-số công-đức thanh-tịnh. Những là vô-đẳng trang-nghiêm công-đức,
vô-lượng bửu công-đức, bất-tư-nghì-hải công-đức, vô-lượng-tướng công-đức,
vô-biên-vân công-đức, vô-biên-tế bất-khả-xưng-tán công-đức, vô-tận-pháp
công-đức, bất-khả-thuyết công-đức, nhứt-thiết Phật công-đức, xưng-dương
tán-thán bất-khả-tận công-đức.
Phật bảo Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng: " Phổ-Hiền ! Ngươi nên vì Phổ-Nhãn và chúng
Bồ-Tát trong đại-hội mà nói mười đại tam-muội, cho họ được khéo nhập và
thành tựu viên-mãn hạnh nguyện của Phổ-Hiền.
Vì
chư đại Bồ-Tát nói mười đại tam-muội nầy khiến quá-khứ Bồ-Tát đã được
xuất-ly, hiện-tại Bồ-Tát đương được xuất-ly, vị-lai Bồ-Tát sẽ được
xuất-ly.
Ðây là mười : một là phổ-quang đại tam-muội, hai là diệu-quang đại
tam-muội, ba là thứ-đệ-biến-vãng-chư-Phật-quốc-độ đại tam-muội, bốn là
thanh-tịnh-thâm-tâm-hành đại tam-muội, năm là
tri-quá-khứ-trang-nghiêm-tạng đại tam-muội, sáu là trí-quang-minh-tạng đại
tam-muội, bảy là nhiễu-tri-nhứt-thiết-thế-giới Phật trang-nghiêm đại
tam-muội, tám là chúng-sanh sai-biệt-thân đại tam-muội, chín là pháp-giới
tự-tại đại tam-muội, mười là vô-ngại-luân đại tam-muội.
Chư đại Bồ-Tát mới có thể khéo nhập mười đại tam-muội nầy. Tam thế chư
Phật đã nói, sẽ nói và nay đương nói. Nếu chư Bồ-Tát mến thích tôn trọng
tu tập mười đại tam-muội nầy không trễ-nải, thời được thành-tựu. Những bực
nầy gọi là Phật, là Như-Lai, cũng gọi là đấng được mười trí-lực, là đấng
Ðạo-Sư, đấng Ðại-Ðạo-Sư, là Nhứt-Thiết-Trí, là Nhứt-Thiết-Kiến, là
Trụ-Vô-Ngại, là Ðạt-Chư-Cảnh, là Nhứt-Thiết-Pháp Tự-Tại. "
Bực Bồ-Tát nầy vào khắp tất cả thế-giới mà không chấp trước thế-giới, vào
khắp tất cả chúng-sanh-giới mà không thấy tướng chúng-sanh, vào khắp tất
cả thân mà nơi thân được vô-ngại, vào khắp tất cả pháp-giới, mà biết
pháp-giới là vô-biên, gần-gũi tất cả tam-thế chư Phật, thấy rõ tất cả pháp
của chư Phật, khéo nói tất cả văn-tự, thấu rõ tất cả giả danh, thành-tựu
đạo thanh-tịnh của tất cả Bồ-Tát, an-trụ tất cả hạnh sai-biệt của Bồ-Tát,
trong một niệm được khắp tất cả pháp tam-thế, nói khắp tất cả giáo-pháp
của chư Phật, chuyển khắp tất cả pháp-luân bất-thối, nơi quá-khứ, vị-lai,
hiện-tại mỗi mỗi đời chứng khắp tất cả đạo bồ-đề, nơi trong mỗi mỗi bồ-đề
nầy rõ khắp chỗ thuyết pháp của tất cả Phật.
Trên đây là môn pháp-tướng của chư Bồ-Tát, là môn trí-giác của chư Bồ-Tát,
là môn nhứt-thiết-chủng-trí vô-thắng-tràng, là môn các hạnh-nguyện của
Phổ-Hiền Bồ-Tát, là môn mãnh-lợi thần-thông thệ-nguyện, là môn nhứt-thiết
tổng-trì biện-tài, là môn tam-thế chư-pháp sai-biệt, là môn nhứt-thiết chư
Phật thị-hiện, là môn dùng nhứt-thiết-trí an lập tất cả chúng-sanh, là môn
dùng Phật thần-lực nghiêm-tịnh tất cả thế-giới.
Nếu Bồ-Tát nhập đại tam-muội nầy được pháp-giới-lực vô-cùng-tận, được
hư-không-hạnh vô-ngại, được Pháp-Vương-Vị vô-lượng tự-tại như ngôi
quán-đảnh thọ chức của thế-gian, được vô-biên-trí thông đạt tất cả, được
quảng-đại-lực viên-mãn mười thứ, thành tâm vô-tránh nhập tịch-diệt-tế,
đại-bi vô-úy dường như sư-tử, là trượng-phu trí-huệ thắp đèn chánh-pháp
sáng, khen không thể hết tất cả công-đức, hàng Thanh-Văn Duyên-Giác chẳng
nghĩ bàn đến được.
Bồ-Tát nầy được Pháp-giới-trí, trụ vô-động-tế mà hay tùy khai diễn các
pháp. Trụ nơi vô-tướng khéo vào pháp tướng. Ðược tự-tánh thanh-tịnh-tạng
sanh nhà Như-Lai thanh-tịnh, khéo mở các pháp-môn sai-biệt mà dùng trí-huệ
rõ vô-sở hữu. Khéo biết thời tiết để thường thật hành pháp-thí khai ngộ
tất cả, gọi là Trí-Giả. Nhiếp khắp chúng-sanh đều làm cho thanh-tịnh. Dùng
trí phương-tiện thị-hiện thành phật-đạo mà thường tu hành hạnh Bồ-Tát
không cùng tận. Nhập cảnh giới nhứt-thiết-trí phương-tiện thị-hiện các môn
thần-thông quảng-đại.
Vì
thế nên nầy Phổ-Hiền ! Nay ngươi phải nên phân-biệt nói rộng mười đại
tam-muội của tất cả Bồ-Tát. Nay chúng-hội nầy đều mong được nghe ".
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát thừa ý-chí của Như-Lai, quán sát Phổ-Nhãn và chúng
Bồ-Tát mà nói rằng :
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy có mười pháp-môn vô-tận.
Ðây là mười : một là chư Phật xuất-hiện trí vô-tận, hai là chúng-sanh
biến-hóa trí vô-tận, ba là thế-giới như ảnh trí vô-tận, bốn là thâm nhập
pháp-giới trí vô-tận, năm là thiện nhiếp bồ-tát trí vô-tận, sáu là Bồ-Tát
bất thối trí vô-tận, bảy là thiện quán nhứt-thiết pháp-nghĩa trí vô-tận,
tám là thiện trì tâm-lực trí vô-tận, chín là trụ quảng đại bồ-đề tâm trí
vô-tận, mười là trụ nhứt-thiết phật-pháp nhứt-thiết-trí nguyện-lực trí
vô-tận.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy phát mười môn vô-biên-tâm.
Ðây là mười : một là phát tâm vô-biên độ thoát tất cả chúng-sanh, hai là
phát tâm vô-biên thừa sự tất cả chư Phật, ba là phát tâm vô-biên
cúng-dường tất cả chư Phật, bốn là phát tâm vô-biên thấy khắp tất cả chư
Phật, năm là phát tâm vô-biên thọ-trì tất cả phật-pháp chẳng quyên mất,
sáu là phát tâm vô-biên thị-hiện vô-lượng thần-biến của tất cả chư Phật,
bảy là phát tâm vô-biên vì được phật-lực nên chẳng bỏ tất cả bồ-đề hạnh,
tám là phát tâm vô-biên nhập khắp cảnh-giới vi-tế của nhứt-thiết-trí diễn
thuyết tất cả phật-pháp, chín là phát tâm vô-biên nhập khắp cảnh giới
quảng đại bất-tư-nghì của Phật, mười là phát tâm vô-biên ham thích
biện-tài của Phật và lãnh thọ các phật-pháp, thị-hiện những thân tự-tại
vào trong chúng-hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai, mười là phát tâm vô-biên
ham thích biện-tài của Phật và lãnh thọ các phật-pháp, thị-hiện những thân
tự-tại vào trong chúng-hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy có mười môn nhập tam-muội sai-biệt-trí.
Ðây là mười : một là đông-phương nhập định tây-phương khởi, hai là
tây-phương nhập định đông-phương khởi, ba là nam-phương nhập định
bắc-phương khởi, bốn là bắc-phương nhập định đông-phương khởi, năm là
đông-bắc-phương nhập định tây-nam-phương khởi, sáu là tây-nam-phương nhập
định đông-bắc-phương khởi, bảy là tây-bắc-phương nhập định đông-nam-phương
khởi, tám là đông-nam-phương nhập định tây-bắc-phương khởi, chín là
hạ-phương nhập định thượng-phương khởi, mười là thượng-phương nhập định
hạ-phương khởi.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy có mười môn trí thiện-xảo nhập đại tam-muội.
Ðây là trí thiện-xảo nhập phổ-quang-minh đại tam-muội thứ nhứt của đại
Bồ-Tát :
Ðại Bồ-Tát lấy Ðaị-Thiên thế-giới làm một liên-hoa, hiện thân ngồi
kiết-già khắp trên liên-hoa nầy. Trong thân lại hiện đại-thiên thế-giới,
trong đó có trăm ức tứ thiên-hạ, mỗi mỗi tứ thiên-hạ hiện trăm ức thân,
mỗi mỗi thân nhập trăm ức trăm ức Ðại-Thiên thế-giới. Nơi thế-giới nầy,
mỗi mỗi tứ thiên-hạ hiện trăm ức Bồ-Tát tu hành. Mỗi mỗi Bồ-Tát tu hành
phát sanh trăm ức trăm ức thắng-giải quyết-định. Mỗi mỗi quyết-định-giải
làm cho trăm ức trăm ức căn-tánh viên-mãn. Mỗi mỗi căn tánh thành-tựu trăm
ức trăm ức pháp hạnh bất-thối của Bồ-Tát.
Những thân đã thị-hiện đây chẳng phải một, chẳng phải nhiều. Nhập định và
xuất định không bị lầm loạn.
Chư Phật-tử ! Như Lai-Hầu A-Tu-La Vương, bổn-thân cao bảy trăm do-tuần,
hóa hình cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, đứng giữa đại-hải lộ nửa thân
cao ngang đỉnh núi Tu-Di. Dầu hóa thân cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần,
nhưng bổn thân của A-Tu-La Vương vẫn không hư hoại, các uẩn xừ giới đều
như cũ, tâm không lầm loạn, nơi thân biến-hóa không nghĩ là thân khác,
cũng không nghĩ bổn-thân là chẳng phải mình. Bổn thân luôn hưởng thọ các
sự vui, mà thân biến-hóa thường hiện các thứ tự-tại thần-thông oai-lực.
Chư Phật-tử ! A-Tu-La Vương có tham sân si, còn đủ tánh kiêu-mạn còn có
thể biến hiện thân mình như vậy, huống là đại Bồ-Tát đã thân liễu đạt tâm
pháp như huyễn, thế-gian đều như mộng, chư Phật xuất thế đều như bóng
hình, tất cả thế-giới dường như biến-hóa, ngôn ngữ âm thanh đều như vang,
đã thấy pháp chơn-thiệt, dùng pháp như-thiệt làm thân mình, biết tất cả
pháp bổn-tánh thanh-tịnh, rõ biết thân tâm không có thiệt thể, thân mình ở
khắp vô-lượng cảnh-giới, dùng Phật-trí quang-minh quảng đại để tịnh tu tất
cả hạnh bồ-đề.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ trong tam-muội nầy vượt quá thế-gian, xa lìa
thế-gian. Không bị mê loạn, không ai che chướng được.
Chư Phật-tử ! Như Tỳ-Kheo quán-sát thân mình trụ nơi quán bất-tịnh, thấy
kỹ thân mình đều là bất-tịnh.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy quán sát pháp-thân thấy các thế-gian
vào khắp trong thân mình, trong đó thấy rõ tất cả thế-gian và pháp
thế-gian mà trọn không chấp trước. Trên đây là trí thiện-xảo nhập
phổ-quang-minh tam-muội thứ nhứt.
Ðây là diệu-quang-minh đại tam-muội thứ hai của đại Bồ-Tát :
Ðại Bồ-Tát nầy có thể nhập Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số Ðại-Thiên
thế-giới. Nơi mỗi mỗi thế-giới hiện Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số thân.
Mỗi mỗi thân phóng Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số quang-minh. Mỗi mỗi
quang-minh hiện Ðại-Thiên thế-giới vi-trần số màu sắc. Mỗi mỗi màu sắc
chiếu Ðại-Thiên thê-giới vi-trần-số thế-giới. Trong mỗi mỗi thế-giới
điều-phục Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số chúng-sanh.
Những thế-giới nầy nhiều loại chẳng đồng, Bồ-Tát điều biết rõ, đều nhập
trong đó. Những thế-giới đó cũng đều đến nhập nơi thân của Bồ-Tát, dầu vậy
nhưng những thế-giới đó vẫn không tạp loạn, các pháp cũng chẳng hoại diệt.
Chư Phật-tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên chiếu núi Tu-Di, chiếu bảy Bửu-Sơn.
Bảy Bửu-Sơn và khoảng giữa Bửu-Sơn đều có quang ảnh hiển-hiện rõ ràng.
Bóng mặt nhựt trên Bửu-Sơn đều hiển-hiện trong bóng giữa khoảng Bửu-Sơn.
Bóng mặt nhựt giữa khoảng bảy Bửu-Sơn cũng đều hiển-hiện trong bóng mặt
nhựt trên Bửu-Sơn. Xoay vần hiện bóng lẫn nhau như vậỵ
Có
người nói bóng mặt nhựt hiện ra nơi bảy Bửu-Sơn, có người nói bóng mặt
nhựt hiện ra nơi khoảng giữa bảy Bửu-Sơn. Có người nói bóng mặt nhựt nhập
vào bảy Bửu-Sơn, có người nói bóng mặt nhựt nhập vào khoảng giữa bảy
Bửu-Sơn. Nhưng bóng mặt nhựt nầy chiếu hiện lẫn nhau không có ngằn mé,
thể-tánh chẳng phải có cũng lại chẳng phải không. Chẳng ở nơi Bửu-Sơn cũng
chẳng rời Bửu-Sơn, chẳng trụ nơi nước cũng chẳng rời nước.
Chư Phật-tử ! Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi diệu-quang-minh đại tam-muội,
chẳng hư hoại tướng an lập của thế-gian, chẳng diệt mất tự-tánh các pháp
thế-gian, chẳng trụ trong thế-giới, chẳng trụ ngoài thế-giới. Ðối với
Thế-giới không chỗ phân-biệt, cũng chẳng hư hoại tướng thế-giới. Quán tất
cả pháp nhứt tướng vô-tướng cũng chẳng hư hoại tự-tánh các pháp. Trụ luôn
nơi tánh chơn-như chẳng hề bỏ rời.
Chư Phật-tử ! Ví như nhà huyễn-thuật, biết giỏi về huyễn-thuật làm các sự
huyễn nơi ngã tư đường, trong một ngày hay khoảng giây lát, hoặc hiện một
ngày, hoặc hiện một đêm, hoặc hiện làm bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một
tháng, một năm, trăm năm. Tùy theo ý muốn, nhà huyễn-thuận nầy hiện ra
thành ấp, xóm, làng, suối, ao, sông, biển, mặt nhựt, mặt nguyệt, mây, mưa,
cung điện, nhà cửa.
Chẳng vì huyễn hiện trải qua cả tháng cả năm mà hư hoại một ngày hay một
giờ căn-bổn. Cũng chẳng vì thời-gian căn-bổn ngắn ngủi mà hư hoại năm
tháng huyễn hiện. Tướng huyễn hiện rõ , ngày giờ căn-bổn không mất.
Cũng vậy, Ðại Bồ-Tát nhập diệu-quang-minh đại tam-muội nầy hiện vô-số
thế-giới vào một thế-giới. Vô-số thế-giới đó, mỗi mỗi thế-giới đều có đất,
nước, gió, lửa, đại-hải, các núi, thành ấp, vườn rừng, nhà cửa,
thiên-cung, long-cung, bát bộ cung-điện, đủ cả mọi sự trang-nghiêm. Cũng
có ba cõi : cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc, Tiểu-Thiên thế-giới, Ðại-Thiên
thế-giới, nghiệp-hành quả-báo, chết đây sanh kia, tất cả thời-tiết của
thế-gian : giờ, phút, ngày, đêm, tháng, năm, kiếp thành, kiếp hoại, cõi
nước thanh-tịnh, chúng Bồ-Tát chầu chực thần-thông tự-tại, giáo-hóa
chúng-sanh. Khắp nơi trong các cõi nước đó có vô-lượng nhơn-chúng khác
loài khác tướng, vô-lượng vô-biên chẳng thể nghĩ bàn. Nghiệp-lực
thanh-tịnh thuở quá khứ vị-lai hiện-tại xuất sanh vô-lượng trân-bửu
thượng-diệu. Những việc như trên đều thị hiện đủ cả vào nơi một thế-giới.
Ðại Bồ-Tát ở nơi đây đều thấy rõ khắp cả ; vào khắp, xem khắp, nghĩ khắp,
rõ khắp. Dùng trí vô-tận đều biết như thiệt. Chẳng vì những thế-giới kia
nhiều mà hư-hoại một thế-giới nầy. Chẳng vì một thế-giới nầy mà hư-hoại
nhiều thế-giới kia.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát biết tất cả pháp đều là vô-ngã. Ðây gọi là nhập
vô-mạng-pháp vô-tác-pháp.
Vì
Bồ-Tát nơi tất cả thế-gian siêng tu hành pháp vô-tránh nên gọi là bực
an-trụ pháp vô-ngã.
Vì
Bồ-Tát như thiệt thấy tất cả thân đều từ duyên khởi nên gọi là bực an-trụ
pháp vô-chúng-sanh.
Vì
Bồ-Tát biết tất cả pháp sanh diệt đều từ nhơn mà sanh nên gọi là bực
an-trụ pháp vô-bổ-đặc-dà-la.
Vì
Bồ-Tát biết các pháp bổn-tánh bình-đẳng nên gọi là bực an-trụ pháp
vô-ý-sanh vô-ma-nạp-bà.
Vì
Bồ-Tát biết các pháp bổn-tánh tịch-tịnh nên gọi là bực an-trụ pháp
tịch-tịnh.
Vì
Bồ-Tát biết các pháp nhứt tướng nên gọi là bực an-trụ pháp vô-phân-biệt.
Vì
Bồ-Tát biết pháp-giới không có các thứ pháp sai biệt nên gọi là bực an-trụ
pháp bất-tư-nghì.
Vì
Bồ-Tát siêng tu tất cả phương-tiện giỏi điều phục chúng-sanh nên gọi là
bực an-trụ pháp đại-bi.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có thể đem vô-số thế-giới nhập vào một thế-giới,
biết vô-số chúng-sanh nhiều loại khác nhau, thấy vô-số Bồ-Tát đều phát
tâm, xem vô-số chư Phật xuất hiện mọi nơi. Chư Phật đây diễn nói bao nhiêu
chánh-pháp, các Bồ-Tát đây đều lãnh thọ cả. Cũng thấy thân mình tu hành
trong các đạo-tràng đó.
Dầu vậy, nhưng chẳng bỏ nơi đây mà thấy chỗ kia, cũng chẳng bỏ chỗ kia mà
thấy tại đây. Thân kia, thân đây không có sai biệt, vì nhập pháp-giới vậy.
Thường siêng quán-sát không thôi nghĩ chẳng bỏ rời trí-huệ, vì chẳng thối
chuyển vậy.
Như là huyễn-thuật ở một nơi nào đó hiện các sự huyễn, chẳng vì nơi hiện
huyễn-sự mà hư hoại bổn-xứ, chẳng vì thời-gian huyễn mà hư hoại ngày giờ
căn-bổn.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát nơi không có quốc-độ hiện ra quốc-độ. Nơi có quốc-độ
hiện không quốc-độ. Nơi có chúng-sanh hiện không chúng-sanh, nơi không
chúng-sanh hiện có chúng-sanh. Không sắc hiện có sắc, có sắc hiện không
sắc. Trước chẳng làm loạn sau, sau chẳng làm loạn trước.
Ðại Bồ-Tát biết tất cả pháp thế-gian đều đồng như huyễn hóa. Vì biết pháp
huyễn nên biết trí huyễn. Vì biết trí huyễn nên biết nghiệp huyễn.
Ðã
biết trí huyễn và nghiệp huyễn nên khởi huyễn-trí xem tất cả nghiệp như là
huyễn-thuật thế-gian. Chẳng xứ mà hiện huyễn, cũng ở ngoài bổn chẳng ở
ngoài huyễn mà có bổn-xứ.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng ở ngoài hư không mà nhập thế-gian, cũng chẳng ở
ngoài thế-gian mà nhập hư-không. Tại sao vậy ? Vì hư không và thế-gian
không sai biệt, trụ nơi thế-gian cũng trụ nơi hư-không.
Ðại Bồ-Tát ở trong hư-không hay thấy hay tu tất cả công nghiệp sai biệt
diệu trang-nghiêm của thế-gian. Khoảng một niệm đều rõ biết được vô-số
thế-giới hoặc thành hoặc hoại, cũng biết các kiếp tuần-tự nối tiếp. Trong
khoảng một niện hiện vô-số kiếp, nhưng cũng chẳng làm cho một niệm đó rộng
lớn ra.
Ðại Bồ-Tát được huyễn-trí giải-thoát bất-tư-nghì, đến nơi bỉ ngạn, trụ nơi
huyễn-tế, nhập ở huyễn số thế-gian, tư-duy các pháp thảy đều như huyễn,
chẳng trái huyễn thế, cùng tận nơi huyễn-trí, rõ biết tam-thế cùng huyễn
không khác, thông đạt quyết định, tâm không ngằn mé.
Như chư Như-Lai trụ trí như huyễn, tâm Phật bình-đẳng. Cũng vậy, đại
Bồ-Tát biết các thế-gian thảy đều như huyền, với tất cả chỗ đều không chấp
trước, không có ngã sở.
Như là huyễn-thuật hiện các sự huyễn, dầu chẳng đồng ở với các huyễn-sự
đó, nhưng vẫn không mê lầm đối với các huyễn-sự.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát, biết tất cả pháp đến rốt ráo bỉ-ngạn, tâm chẳng chấp
ngã hay nhập nơi pháp, cũng chẳng lầm loạn nơi các pháp.
Trên đây là trí thiện-xảo diệu-quang-minh đại tam-muội thứ hai của đại
Bồ-Tát.
(1)
Chư Phật-tử ! Thế nào là thứ-đệ biến vãng chư Phật quốc-độ thần-thông đại
tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Ðại Bồ-Tát này qua vô-số thế-giới phương đông, lại qua vô-số thế-giới
vi-trần-số thế-giới, nơi các thế-giới đó nhập tam-muội nầy. Hoặc sát-na
nhập, hoặc giây lát nhập, hoặc nối tiếp nhập. Hoặc sáng, hoặc trưa, hoặc
chiều nhập. Hoặc đầu hôm, giữa đêm, hoặc cuối đêm nhập. Hoặc nhập một
ngày, hoặc năm ngày, hoặc nửa tháng, một tháng. Hoặc nhập một năm, trăm
năm, ngàn năm. Hoặc nhập trăm ngàn năm, ức năm, trăm ngàn ức năm, trăm
ngàn na-do-tha ức năm. Hoặc nhập một kiếp, trăm kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm
ngàn na-do-tha ức kiếp. Hoặc nhập vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp,
vô đẳng kiếp. Hoặc nhập bất-khả-sổ kiếp, bất-khả-xưng kiếp, bất-khả-tư
kiếp, bất-khả-lượng kiếp, bất-khả-thuyết kiếp, bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết kiếp. Hoặc lâu, hoặc gần, hoặc pháp, hoặc thời-gian các
loại chẳng đồng.
Với những sự trên đây, Bồ-Tát chẳng sanh lòng phân-biệt, chẳng nhiễm
trước, chẳng cho là khác, chẳng cho là không khác, chẳng cho là khắp,
chẳng cho là riêng.
Dầu lìa sự phân-biệt, mnà Bồ-Tát dùng thần-thông phương-tiện từ tam-muội
khởi, với các pháp chẳng quên chẳng mất, đến nơi rốt ráo.
Ví
như mặt nhựt đi vòng soi sáng, ngày đêm không dừng. Mặt nhựt mọc gọi là
ngày, mặt nhựt lặn gọi là đêm. Ban ngày mặt nhựt chẳng sanh, ban đêm mặt
nhựt cũng chẳng mất.
Ðại Bồ-Tát nơi vô-số thế-giới nhập thần-thông tam-muội. Ðã nhập tam-muội,
thấy rõ ngần ấy vô-số thế-giới cũng như vậy.
Trên đây là trí thiện-xảo thứ-đệ biến-vãng chư Phật quốc-độ thần-thông đại
tam-muội thứ ba của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát thanh-tịnh thân-tâm-hành đại tam-muội
?
Ðại Bồ-Tát nầy biết số thân chư Phật đồng với số chúng-sanh. Thấy vô-lượng
Phật hơn số vi-trần trong vô-số thế-giới, Bồ-Tát đem các thứ hương, hoa,
lọng, châu báu, đồ trang-nghiêm, ma-ni-bửu-tạng, nhẫn đến tứ-sự, tất cả
đều thượng-diệu quảng đại hơn hẳn của các cõi trời để cúng-dường mỗi đức
Phật.
Ðối với mỗi đức Phật, Bồ-Tát cung-kính tôn-trọng cúi đầu đảnh lễ thưa
thỉnh phật-pháp, khen Phật bình-đẳng, ca ngợi công-đức quảng-đại của chư
Phật. Nhập vào đại-bi của chư Phật, được sức vô-ngại bình-đẳng của chư
Phật. Khoảng một niệm, cần cầu diệu-pháp khắp tất cả Phật. Nhưng với những
tướng chư Phật xuất thế nhập diệt, đều vô-sở-đắc.
Như tâm tán-động liễu-biệt cảnh sở-duyên, tâm khởi, chẳng biết sở-duyên
nào khởi, tâm diệt, chẳng biết sở-duyên nào diệt.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát nầy trọn chẳng phân-biệt tướng xuất thế cùng nhập
niết-bàn của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Như dương-diệm giữa ngày, chẳng phải từ mây sanh, chẳng phải
từ ao sanh, chẳng ở trên đất, chẳng ở dưới nước, chẳng phải có chẳng phải
không, chẳng phải thiện chẳng phải ác, chẳng phải trong chẳng phải đục,
chẳng dùng uống rửa được, chẳng làm ô-uế được, chẳng phải có thể chất
chẳng phải không thể chất, chẳng phải có vị chẳng phải không vị. Do vì
nhơn duyên mà hiện tướng nước. Do thức phân biệt trông xa tợ nước mà sanh
tưởng là nước, đến gần thời không có, tưởng nước tự mất.
Ðại Bồ-Tát đây cũng như vậy. Tướng Như-Lai xuất-thế và niết-bàn đều
bất-khả-đắc. Chư Phật có tướng hay không tướng đều là tâm tưởng phân biệt.
Chư Phật-tử ! Tam-muội nầy gọi là thanh-tịnh thâm-tâm-hành. Ðại Bồ-Tát ở
nơi tam-muội nầy nhập rồi mà khởi, sau khi khởi chẳng mất.
Ví
như có người từ giấc ngủ thức dậy nhớ sự chiêm-bao. Lúc thức dầu nhớ sự
chiêm-bao. Lúc thức dầu không có cảnh-giới chiêm-bao nhưng vẫn có thể ghi
nhớ chẳng quên.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát nhập tam-muội thấy Phật nghe pháp, sau khi xuất định
ghi nhớ chẳng quên, rồi đem pháp đã được nghe giảng dạy lại tất cả
chúng-hội trong đạo-tràng, trang-nghiêm tất cả quốc-độ chư Phật, vô lượng
nghĩa thú đều được sáng suốt, tất cả pháp môn cũng đều thanh-tịnh, thắp
đuốc đại-trí, làm lớn giống Phật, đầy đủ vô-úy, biện-tài chẳng cạn, khai
thị diễn thuyết pháp-tạng thậm-thâm.
Trên đây là trí thiện-xảo thanh-tịnh thâm-tâm-hạnh đại tam-muội thứ tư của
đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát tri quá-khứ trang-nghiêm tạng tam-muội
?
Ðại Bồ-Tát nầy biết được quá-khứ chư Phật xuất hiện. Những là các cõi thứ
đệ trong kiếp thứ đệ, các kiếp thứ đệ trong cõi thứ đệ, chư Phật xuất hiện
thứ đệ trong kiếp thứ đệ, thuyết-pháp thứ đệ trong chư Phật xuất hiện thứ
đệ, các tâm nguyện thứ đệ trong thuyết pháp thứ đệ, các căn tánh thứ đệ
trong tâm nguyện thứ đệ, điều-phục thứ đệ trong căn tánh thứ đệ, chư Phật
thọ-mạng thứ đệ trong điều phục thứ đệ, biết ức na-do-tha số lượng năm
tuổi thứ đệ trong thọ-mạng thứ đệ.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy vì được vô-biên thứ-đệ trí như vậy nên biết
quá-khứ chư Phật, nên biết quá-khứ các cõi, nên biết quá-khứ pháp-môn, nên
biết quá-khứ các kiếp, nên biết quá-khứ các pháp, nên biết quá-khứ các
tâm, nên biết quá-khứ các tri-giải, nên biết qúa khứ các chúng-sanh, nên
biết quá-khứ các phiền-não, nên biết quá-khứ các nghi-thức, nên biết
quá-khứ các thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Tam-muội nầy tên là quá khứ thanh-tịnh tạng. Trong một niệm
có thể nhập trăm kiếp, có thể nhập ngàn kiếp, có thể nhập trăm ngàn kiếp,
có thể nhập trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, có thể nhập vô-số kiếp, có thể
nhập vô-lượng kiếp, có thể nhập vô-biên kiếp, có thể nhập vô-đẳng kiếp, có
thể nhập bất-khả-sổ kiếp, có thể nhập bất-khả-xưng kiếp, có thể nhập
bất-khả-tư kiếp, có thể nhập bất-khả-lượng kiếp, có thể nhập
bất-khả-thuyết kiếp, có thể nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy chẳng diệt hiện-tại, chẳng
duyên quá-khứ.
Ðại Bồ-Tát nầy từ tam-muội khởi, thọ nơi đức Như-Lai mười thứ pháp quán
đảnh bất-tư-nghì, cũng được, cũng thanh-tịnh, cũnh thành-tựu, cũng nhập,
cũng chứng, cũng mãn, cũng trì, bình-đẳng biết rõ ba luân thanh-tịnh.
Ðây là mười : một là biện thuyết chẳng trái nghĩa, hai là thuyết pháp
vô-tận, ba là huấn từ không lỗi, bốn là nhạo thuyết chẳng dứt, năm là tâm
không khủng bố, sáu là lời quyết thành thiệt, bảy là chúng-sanh y-tựa, tám
là cứu thoát ba cõi, chín là thiện-căn tối-thắng, mười là điều ngự
diệu-pháp.
Trên đây là mười pháp quán-đảnh. Nếu Bồ-Tát nhập tam-muội nầy, từ tam-muội
xuất liền được.
Như ca-la-lã lúc nhập thai-tạng, trong một niệm thức liền thác sanh.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ tam-muội nầy xuất, trong một niệm thời được mười
pháp nầy nơi đức Như-Lai.
Trên đây gọi là trí thiện-xảo biết quá-khứ trang-nghiêm-tạng đại tam-muội
thứ năm của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát trí-quang-minh-tạng đại tam-muội ?
Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy có thể biết vị-lai chư Phật trong tất cả kiếp
tất cả thế-giới, hoặc đã nói hoặc chưa nói, hoặc đã thọ-ký hoặc chưa
thọ-ký, các loại danh hiệu chẳng đồng. Những là vô-số danh, vô-lượng danh,
vô-biên danh, vô-đẳng danh, bất-khả-sổ danh, bất-khả-xưng danh, bất-khả-tư
danh, bất-khả-lượng danh, bất-khả-thuyết danh. Sẽ xuất thế, sẽ độ sanh, sẽ
làm Pháp- Vương, sẽ khởi phật-sự, sẽ nói phước lợi, sẽ khen thiện-nghĩa,
sẽ nói bạch-phần-nghĩa, sẽ trừ sạch các điều ác, sẽ an-trụ công-đức, sẽ
khai-thị đệ-nhất-nghĩa-đế, sẽ nhập quán-đảnh-vị, sẽ thành nhứt-thiết-trí.
Chư Phật đó tu hạnh viên-mãn, phát nguyện viên-mãn, nhập viên-mãn trí, có
viên-mãn chúng, đủ viên-mãn trang-nghiêm, họp viên-mãn công-đức, ngộ
viên-mãn pháp, được viên-mãn quả, đủ viên-mãn tướng, thành viên-mãn giác.
Chư Phật đó, danh tánh chủng-tộc, phương-tiện thiện-xảo thần-thông
biến-hóa, thành-thục chúng-sanh, nhập niết-bàn, tất cả những điều như vậy,
Bồ-Tát nầy biết rõ cả.
Trong một niệm, Bồ-Tát nầy có thể nhập một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp,
trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha kiếp. Có thể nhập Diêm-Phù-Ðề
vi-trần số kiếp, tứ thiên-hạ vi-trần số kiếp, tiểu-thiên thế-giới
vi-trần-số kiếp, trung thiên thế-giới vi-trần số kiếp, đại thiên thế-giới
vi-trần số kiếp. Có thể nhập trăm phật-sát vi-trần số kiếp, trăm ngàn
phật-sát vi-trần số kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần số kiếp,
vô-số phật-sát vi-trần số kiếp, vô-lượng phật-sát vi-trần số kiếp, vô-biên
phật-sát vi-trần số kiếp, vô-đẳng phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-sổ
phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-xưng phật-sát vi-trần số kiếp,
bất-khả-tư phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-lượng phật-sát vi-trần số
kiếp, bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số kiếp, nhẫn đến nhập
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát cực vi-trần số kiếp.
Vị-lai tất cả thế-giới có ngần ấy kiếp số như vậy, Bồ-Tát nầy có thể dùng
trí-huệ đều biết rõ. Vì biết rõ nên tâm Bồ-Tát nầy lại nhập mười thứ
trì-môn. Ðây là mười :
Vì
nhập Phật-trì nên được bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số chư Phật
hộ-niệm.
Vì
nhập Pháp-trì nên được mười thứ đà-la-ni quang-minh vô-tận biện-tài.
Vì
nhập Hạnh-trì nên xuất sanh các nguyện viên mãn thù-thắng.
Vì
nhập Lực-trì nên không ai che chướng được, không ai khuất phục được.
Vì
nhập Trí-trì nên thật hành phật-pháp không có chướng ngại.
Vì
nhập Ðại-bi-trì nên chuyển pháp luân bất-thối thanh-tịnh.
Vì
nhập Sai-biệt-thiện-xảo-cú-trì nên chuyển tất cả văn-tự-luân, tịnh tất cả
pháp-môn-địa.
Vì
nhập Sư-tử-thọ-sanh-pháp-trì nên mở khóa cửa pháp, ra khỏi bùn lầy tham
dục.
Vì
nhập Trí-lực-trì nên tu hạnh Bồ-Tát thường chẳng thôi nghỉ.
Vì
nhập Thiện hữu-lực-trì nên làm cho vô-biên chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Vì
nhập Vô-trụ-lực-trì nên nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quảng đại kiếp.
Vì
nhập Pháp-lực-trì nên dùng vô-ngại phương-tiện trí biết tất cả pháp
tự-tánh thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã trụ tam-muội nầy rồi thời khéo hay trụ
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp, khéo hay trụ bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết cõi, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các loài
chúng-sanh, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tướng khác nhau
của chúng-sanh, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết nghiệp báo
đồng dị, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết những căn tinh-tấn
tập-khí tiếp nối các hạnh sai-biệt, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết vô-lượng nhiễm tịnh các thứ tư-duy, khéo hay biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các loại pháp nghĩa vô-lượng văn-tự ngôn từ
diễn thuyết, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật xuất-thế
chủng tộc thời-tiết hiện tướng thuyết pháp thi vi phật-sự nhập niết-bàn,
khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-biên môn trí-huệ, khéo hay
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả thần-thông vô-lượng biến hiện.
Chư Phật-tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên soi sáng thế-gian tất cả vật loại,
như thành ấp, cung-điện, nhà cửa, núi sông, chim thú, vườn rừng, bông trái
vân vân, người có mắt sáng thời đều thấy rõ cả. Ánh sáng mặt nhựt
bình-đẳng không phân-biệt có thể làm cho Bồ-Tát khéo biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha tướng sai khác.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy lúc rõ biết như vậy khiến chúng-sanh được
mười thứ bất-không. Ðây là mười :
Một là kiến bất-không, vì làm cho chúng-sanh phát sanh thiện-căn.
Hai là văn bất-không, vì làm cho chúng-sanh được thành-thục.
Ba
là đồng-trụ bất-không, vì làm cho chúng sanh tâm điều-phục.
Bốn là phát khởi bất không, vì làm cho chúng-sanh thật hành đúng như lời,
thông đạt tất cả pháp nghĩa.
Năm là hạnh bất-không, vì làm cho vô-biên thế-giới đều thanh-tịnh.
Sáu là thân-cận bất-không, vì ở chỗ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật
dứt nghi ngờ cho bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh.
Bảy là chuyện bất-không, vì theo sở niệm của chúng-sanh khiến làm việc
cúng dường thù-thắng thành-tựu các nguyện.
Tám là thiện-xảo pháp bất-không vì làm cho đều được trụ nơi trí thanh-tịnh
giải-thoát vô-ngại.
Chín là mưa pháp-vũ bất-không, vì nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
căn-tánh chúng-sanh, phương-tiện khai-thị hạnh nhứt-thiết-trí khiến trụ
phật-đạo.
Mười là xuất hiện bất-không, vì hiện vô-biên tướng, làm cho tất cả
chúng-sanh đều được soi sáng.
Chư Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát an trụ nơi tam-muội nầy được mười thứ
bất-không, thời chư Thiên-Vương đều đến đảnh lễ, chư Long-Vương nổi mây
thơm lớn. chư Dạ-Xoa-Vương đảnh lễ dưới chưn, chư A-Tu-La-Vương cung kính
cúng-dường, chư Ca-Lâu-La-Vương tôn trọng đứng quanh, chư Phạm-Thiên-Vương
đều đến thỉnh cầu, chư Càn-Thát-Bà-Vương thường đến chầu chực, chư
Khẩn-Na-La-Vương và chư Ma-Hầu-La-Dà Vương đều cùng ngợi khen, chư
Nhơn-Vương kính thờ cúng-dường.
Trên đây là trí thiện-xảo trí-quang-minh-tạng đại tam-muội thứ sáu của đại
Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới
Phật trang-nghiêm tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Sao lại gọi tam-muội nầy là liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới Phật trang-nghiêm
?
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ trong tam-muội nầy, hay thứ-đệ nhập thế-giới
phương đông, hay thứ-đệ nhập thế-giới phương nam, phương tây, phương bắc,
đông nam, tây nam, tây bắc, đông bắc, thượng phương và hạ phương. Ðều thấy
chư Phật xuất thế, cũng thấy tất cả thần-lực của đức Phật đó, cũng thấy
những sự biến-hóa của chư Phật, cũng thấy oai-đức rộng lớn của chư Phật,
cũng thấy sự tối-thắng tự-tại của chư Phật, cũng thấy chư Phật đại
sư-tử-hống, cũng thấy những công-hạnh đã tu của chư Phật, cũng thấy các
loại trang-nghiêm của chư Phật, cũng thấy chư Phật thần-thông biến-hóa,
cũng thấy chúng-hội của chư Phật vân tập, chúng-hội thanh-tịnh, chúng-hội
quảng-đại, chúng-hội nhứt tướng, chúng-hội nhiều tướng, chúng-hội xứ-sở,
chúng-hội an ở, chúng-hội thành-thục, chúng-hội điều phục, chúng-hội
oai-đức. Tất cả những việc như vậy Bồ-Tát nầy đều thấy rõ. Cũng thấy
chúng-hội số lượng lớn nhỏ bằng Diêm-Phù-Ðề, hoặc bằng tứ thiên-hạ, hoặc
bằng tiểu-thiên thế-giới, hoặc bằng trung-thiên thế-giới, hoặc bằng
đại-thiên thế-giới. Cũng thấy chúng-hội đầy khắp trăm ngàn ức na-do-tha
cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-số cõi Phật, hoặc đầy khắp trăm phật-sát
vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp ngàn Phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc
đầy khắp trăm ngàn ức na-do-tha Phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy
khắp vô-số phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-lượng phật-sát
vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-biên phật-sát vi-trần-số cõi Phật,
hoặc đầy khắp vô-đẳng phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp
bất-khả-sổ phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-xưng
phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-tư phật-sát vi-trần-số
cõi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-lượng phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc
đầy khắp bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số cõi Phật, nhẫn đến cũng thấy
chúng-hội đầy khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số cõi
Phật. Cũng thấy chư Phật ở trong chúng-hội đạo-tràng kia thị-hiện các loại
tướng trạng, các loại thời gian, các loại quốc-độ, các loại biến-hóa, các
loại thần-thông, các loại trang-nghiêm, các loại tự-tại, các loại hình
lượng, các loại sự-nghiệp.
Ðại Bồ-Tát nầy cũng thấy tự-thân qua chúng-hội đó, thấy mình thuyết-pháp,
thấy mình lãnh thọ lời Phật, cũng thấy mình khéo biết duyên-khởi, cũng
thấy thân mình ở giữa không-gian, cũng thấy thân mình ở nơi pháp-thân,
cũng thấy thân mình chẳng sanh nhiễm trước, cũng thấy thân mình chẳng ở
nơi phân-biệt, cũng thấy thân mình không mỏi nhọc, cũng thấy thân mình vào
khắp các trí, cũng thấy thân mình biết khắp các nghĩa, cũng thấy thân mình
vào khắp các địa, cũng thấy thân mình vào khắp các loài, cũng thấy thân
mình biết khắp phương-tiện, cũng thấy thân mình qua khắp trước Phật, cũng
thấy thân mình vào khắp các lực, cũng thấy thân mình vào khắp chơn-như,
cũng thấy thân mình vào khắp vô-tránh, cũng thấy thân mình vào khắp các
pháp. Lúc thấy như vậy, Bồ-Tát nầy chẳng phân-biệt quốc-độ, chẳng phân
biệt chúng-sanh, chẳng phân biệt Phật, chẳng phân biệt pháp, chẳng nhiễm
trước thân và thân nghiệp, chẳng chấp trước tâm và ý.
Ví
như các pháp chẳng phân-biệt tự-tánh, chẳng phân-biệt âm-thanh, mà tự-tánh
chẳng bỏ, danh tự chẳng mất.
Ðại Bồ-Tát cũng vậy, chẳng bỏ công-hạnh, làm theo thế-gian, mà vẫn không
chấp trước nơi hai sự nầy.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát thấy Phật có vô-lượng ánh sáng màu sắc, vô-lượng
hình tướng, đều viên mãn thành-tựu bình-đẳng thanh-tịnh, mỗi mỗi hiện-tiền
chứng biết phân minh.
Hoặc thấy thân Phật nhiều ánh sáng hoặc thấy viên-quang một tầm, hoặc thấy
sáng rực như mặt nhựt, hoặc thấy quang sắc vi-diệu, hoặc thấy sắc
thanh-tịnh, hoặc thấy màu huỳnh-kim, hoặc thấy màu kim-cang, hoặc thấy màu
xanh biếc, hoặc thấy vô-biên màu sắc, nhẫn đế hoặc thấy thân Phật màu
đại-thanh ma-ni-bửu.
Hoặc thấy thân Phật cao bảy thước tay, hoặc tám thước tay, hoặc chín thước
tay, hoặc mười thước tay, hoặc hai mươi thước tay, ba mươi thước tay, một
trăm thước tay, một ngàn thước tay, hoặc thấy thân Phật cao một câu-lô-xá,
nửa do-tuần, một do-tuần, mười do-tuần, trăm do-tuần, ngàn do-tuần, trăm
ngàn do-tuần, hoặc thấy thân Phật bằng Diêm-Phù-Ðề, tứ-thiên-hạ bằng
tiểu-thiên thế-giới, bằng trung- thiên thế-giới, bằng đại-thiên thế-giới,
bằng trăm đại-thiên thế-giới, bằng ngàn đại-thiên thế-giới, bằng vẫn chẳng
giảm. Ở tại mặt nguyệt thấy là lớn, cũng chẳng tăng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy tùy nơi tâm nguyện thấy thân Phật
các thứ tướng hóa-hiện, ngôn từ thuyết pháp thọ-trì chẳng quên, mà thân
Như-Lai chẳng tăng chẳng giảm.
Ví
như chúng-sanh sau khi mạng chung lúc sắp thọ sanh chỗ thấy thanh-tịnh
chẳng rời nơi tâm.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng rời tam-muội thậm thâm nầy mà thấy thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thành-tựu mười thứ pháp mau
chóng : những là mau thêm các hạnh viên-mãn đại-nguyện, mau dùng
pháp-quang chói sáng thế-gian mau dùng phương-tiện chuyển-pháp-luân độ
thoát chúng-sanh, mau tùy theo nghiệp chúng-sanh thị-hiện quốc-độ
thanh-tịnh của chư Phật, mau dùng trí bình-đẳng thẳng vào thập-lực, mau
cùng tất cả Như-Lai đồng trụ, mau dùng sức đại-từ dẹp phá quân ma, mau dứt
nghi cho chúng-sanh hoan-hỉ, mau tùy thắng-giải thị-hiện thần-biến, mau
dùng các thứ diệu pháp ngôn từ tịnh các thế-gian.
Ðại Bồ-Tát nầy lại được mười thứ pháp ấn, để ấn tất cả pháp : một là đồng
thiện-căn bình-đẳng với tam-thế chư Phật, hai là đồng được trí-huệ
pháp-thân vô-biên-tế với chư Phật, ba là đồng chư Như-Lai trụ pháp bất
nhị, bốn là đồng chư Như-Lai quan-sát tam-thế vô-lượng cảnh-giới thẩy đều
bình-đẳng, năm là đồng chư Như-Lai được liễu đạt pháp-giới vô-ngại
cảnh-giới, sáu là đồng chư Như-Lai thành-tựu thập-lực thật là vô-ngại, bảy
là đồng chư Như-Lai tuyệt hẳn hai hạnh, trụ pháp vô-tránh, tám là đồng chư
Như-Lai giáo-hóa chúng-sanh hằng chẳng thôi nghỉ, chín là đồng chư Như-Lai
ở trong trí thiện-xảo nghĩa thiện-xảo hay khéo quan-sát, mười là đồng chư
Như-Lai cùng với tất cả Phật bình-đẳng không hai.
Chư Phật-tử ! Nếu đại Bồ-Tát thành-tựu mười pháp-ấn nầy thời rõ biết môn
phương-tiện thiện-xảo tất cả thế-giới phật trang-nghiêm đại tam-muội. Là
bực vô-sư, vì chẳng do người khác dạy mà tự nhập tất cả phật-pháp. Là bực
trượng-phu, vì hay khai ngộ tất cả chúng sanh. Là bực thanh-tịnh vì biết
tâm-tánh bổn-tịnh. Là bực đệ-nhứt vì hay độ thoát-tất cả thế-gian. Là bực
an-ủy vì hay khai hiểu tất cả chúng-sanh. Là bực an-trụ, vì người chưa trụ
phật-chủng-tánh thời làm cho được trụ. Là bực chơn-thiệt-tri vì nhập môn
mhứt-thiết-trí. Là bực vô-dị-tưởng vì lời nói không hai. Là bực trụ
pháp-tạng, vì thệ nguyện rõ biết tất cả phật-pháp. Là bực hay mưa pháp-vũ
vì tùy tâm nguyện của chúng-sanh đều làm cho đầy đủ.
Chư Phật-tử ! Ví như Ðế-Thích, nơi búi tóc trên đầu để châu ma-ni, vì
bửu-châu nầy mà oai-quang càng thạnh. Thiên-Ðế lúc mới được bửu-châu nầy,
thời được mười pháp vượt hơn tất cả tam-thập-tam thiên : một là sắc tướng,
hai là hình thể, ba là thị-hiện, bốn là quyến-thuộc, năm là đồ dùng, sáu
là âm-thanh, bảy là thần-thông, tám là tự-tại, chín là huệ-giải, mười là
trí-dụng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát lúc mới được tam-muội nầy thời được mười môn trí-tạng
quảng-đại : một là trí chiếu sáng tất cả cõi Phật, hai là trí biết tất cả
chúng-sanh thọ sanh, ba là trí làm sự biến-hóa khắp tam-thế, bốn là trí
vào khắp tất cả thân Phật, năm là trí thông đạt tất cả phật-pháp, sáu là
trí nhiếp khắp tất cả tịnh-pháp, bảy là trí khiến khắp tất cả chúng-sanh
nhập pháp-thân, tám là trí hiện thấy tất cả pháp phổ-nhãn thanh-tịnh, chín
là trí tất cả tự-tại đến bỉ-ngạn, mười là trí an-trụ tất cả pháp quảng đại
khắp hết không thừa.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy lại được mười thứ thân oai-đức
rất thanh-tịnh : một là vì chiếu sáng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
thế-giới mà phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-minh, hai là vì
làm cho thế-giới đều thanh-tịnh mà phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
vầng quang-ming vô-lượng sắc-tướng, ba là vì điều phục chúng-sanh mà phóng
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-minh, bốn là vì thân cận tất cả
chư Phật mà hóa làm bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thân, năm là vì thừa sự
cúng-dường tất cả chư Phật mà rưới bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ
mây hoa hương thù-diệu, sáu là vì thừa sự cúng-dường tất cả chư Phật và
điều phục tất cả chúng-sanh mà trong mỗi mỗi lỗ chưn lông hóa làm
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ âm nhạc, bảy là vì thành-thục
chúng-sanh mà hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-lượng các thứ
thần-biến tự-tại, tám là vì nơi chỗ tất cả chư Phật mười phương cầu thỉnh
diệu-pháp mà một bước vượt qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới,
chín là vì làm cho tất cả chúng-sanh, những ai nghe thấy đều chẳng luống
uổng mà hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết sắc-thân vô-lượng tướng
thanh-tịnh không ai thấy được đảnh, mười là vì khai-thị vô-lượng pháp
bí-mật cho chúng-sanh mà phát bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết âm-thanh
ngôn-ngữ.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát được mười thứ thân oai-đức rất thanh-tịnh nầy
rồi, thời có thể làm cho chúng-sanh được mười thứ viên-mãn : Một là làm
cho chúng-sanh được thấy Phật, hai là làm cho chúng-sanh thâm-tín nơi
Phật, ba là làm cho chúng-sanh được nghe pháp, bốn là làm cho chúng-sanh
biết có cõi Phật, năm là làm cho chúng-sanh thấy thần-biến của Phật, sáu
là làm cho chúng-sanh nhớ nghiệp đã tập họp, bảy là làm cho chúng-sanh
định tâm viên-mãn, tám là làm cho chúng-sanh nhập Phật thanh-tịnh, chín là
làm cho chúng-sanh phát bồ-đề tâm, mười là làm cho chúng-sanh viên-mãn
phật-trí.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát làm cho chúng-sanh được mười thứ viên-mãn rồi,
lại vì chúng-sanh mà làm mười thứ phật-sự. Những là dùng âm-thanh làm
phật-sự vì thành-thục chúng-sanh. Dùng sắc hình làm phật-sự vì điều-phục
chúng-sanh. Dùng ức niệm làm phật-sự vì thanh-tịnh chúng-sanh. Dùng
chấn-động thế-giới làm phật-sự vì khiến chúng-sanh lìa ác-thú. Dùng
phương-tiện giác-ngộ làm phật-sự vì khiến chúng-sanh chẳng thất-niệm. Dùng
tướng trong mộng làm phật-sự vì khiến chúng-sanh thường chánh-niệm. Dùng
phóng đại quang-minh làm phật-sự vì nhiếp lấy khắp chúng-sanh. Dùng tu tập
bồ-tát hạnh làm phật-sự vì làm cho chúng-sanh trụ thắng-nguyên. Dùng thành
đẳng-chánh-giác làm phật-sự vì làm cho chúng-sanh biết pháp huyễn. Dùng
chuyển diệu-pháp-luân làm phật-sự, do vì đại chúng mà thuyết-pháp chẳng
lỗi thời. Dùng hiện-trụ thọ-mạng làm phận-sự vì điều-phục tất cả
chúng-sanh. Dùng thị-hiện nhập niết-bàn làm phật-sự, vì biết các
chúng-sanh nhàm mỏi.
Trên đây là trí thiện-xảo rõ biết tất cả cõi Phật trang-nghiêm đại
tam-muội thứ bảy của đại Bồ-Tát.
(2)
Chư Phật-tử ! Thế nào là nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội
của đại Bồ-Tát ?
Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được mười thứ vô-sở-trước : những là nơi tất
cả cõi vô-sở-trước, nơi tất cả phương vô-sở-trước, nơi tất cả kiếp
vô-sở-trước, nơi tất cả chúng vô-sở-trước, nơi tất cả pháp vô-sở-trước,
nơi tất cả Bồ-Tát vô-sở-trước, nơi tất cả Bồ-Tát nguyện vô-sở-trước, nơi
tất cả tam-muội vô-sở-trước, nơi tất cả Phật vô-sở-trước, nơi tất cả địa
vô-sở-trước.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nơi tam-muội nầy, nhập thế nào ? khởi thế nào ?
Ðại Bồ-Tát nơi tam-muội nầy, nội-thân nhập ngoại-thân khởi, ngoại-thân
nhập nội-thân khởi, đồng-thân nhập dị-thân khởi, dị-thân nhập đồng-thân
khởi, nhơn-thân nhập dạ-xoa thân khởi, dạ-xoa thân nhập long-thân khởi,
long-thân nhập a-tu-la thân khởi, a-tu-la thân nhập thiên-thân khởi,
thiên-thân nhập phạm-vương thân khởi, phạm-vương thân nhập dục-giới thân
khởi, thiên-trung nhập địa-ngục khởi, địa-ngục nhập nhơn-gian khởi,
nhơn-gian nhập loài khác khởi, ngàn thân nhập một thân khởi, một thân nhập
ngàn thân khởi, na-do-tha thân nhập một thân khởi, một thân nhập na-do-tha
thânkhởi, trong chúng nam-châu nhập trong chúng tây-châu khởi, trong chúng
tây-châu nhập trong chúng bắc-châu khởi, trong chúng bắc-châu nhập trong
chúng đông-châu khởi, trong chúng đông-châu nhập trong chúng ba châu kia
khởi, trong chúng ba châu nhập trong chúng bốn châu khởi, trong chúng bốn
châu nhập trong chúng tất cả biển sai-biệt khởi, trong chúng tất cả biển
sai-biệt nhập trong chúng tất cả hải-thần khởi, trong chúng tất cả
hải-thần nhập trong thủy-đại khởi, trong thủy-đại nhập trong địa-đại khởi,
trong địa-đại nhập trong hỏa-đại khởi, trong hỏa-đại nhập trong phong-đại
khởi, trong phong-đại nhập trong tất cả tứ-đại-khởi, trong tất cả tứ đại
nhập trong pháp vô-sanh khởi, trong pháp vô-sanh nhập trong núi Tu-Di
khởi, trong núi Tu-Di nhập trong bảy Bửu-Sơn khởi, trong bảy Bửu-Sơn nhập
trong tất cả cây cỏ lùm rừng hắc-sơn khởi, trong tất cả lùm rừng hắc-sơn
nhập trong tất cả diệu-hương hoa bửu trang-nghiêm khởi, trong tất cả
trang-nghiêm nhập trong tất cả chúng-sanh thọ sanh nơi bốn châu
thượng-phương hạ-phương khởi, trong tất cả chúng-sanh thọ-sanh nhập trong
chúng-sanh nơi Tiểu-Thiên thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi Tiểu-Thiên
Thế-Giới nhập trong chúng-sanh nơi Trung-Thiên Thế-Giới khởi, trong
chúng-sanh nơi Trung-Thiên thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi Ðại-Thiên
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi trăm ngàn ức na-do-tha Ðại-Thiên
thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-số thế-giới khởi, trong chúng-sanh
nơi vô-số thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-lượng thế-giới khởi, nơi
chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-biên
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi vô-biên thế-giới nhập trong chúng-sanh
nơi vô-đẳng phật-độ khởi, trong chúng-sanh nơi vô-đẳng phật-độ nhập trong
chúng sanh nơi bất-khả-sổ thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-sổ
thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-xưng thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi bất-khả-xưng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-tư
thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-tư thế-giới nhập trong
chúng-sanh nơi bất-khả-lượng thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi
bất-khả-lượng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới
khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới nhập trong chúng-sanh
nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới nhập trong chúng-sanh tạp-nhiễm
khởi, trong chúng-sanh tạp-nhiễm nhập trong chúng-sanh thanh-tịnh khởi,
trong chúng-sanh thanh-tịnh nhập trong chúng-sanh tạp-nhiễm khởi, trong
nhãn-xứ nhập trong nhĩ-xứ khởi, trong nhĩ-xứ nhập trong tỹ-xứ khởi, trong
tỹ-xứ nhập trong thiệt-xứ khởi, trong thiệt-xứ nhập trong thân-xứ khởi,
trong thân-xứ nhập trong ý-xứ khởi, trong ý-xứ nhập trong thân-xứ khởi,
trong tự-xứ nhập trong tha-xứ khởi, trong tha-xứ nhập trong tự-xứ khởi,
trong một vi-trần nhập trong vô-số thế-giới vi-trần khởi, trong vô-số
thế-giới vi-trần nhập trong một vi-trần khởi, trong Thanh-Văn mhập trong
Ðộc-Giác khởi, trong Ðộc-Giác nhập trong Thanh-Văn khởi, trong tự-thân
nhập trong Phật-thân khởi, trong Phật-thân nhập trong tự-thân khởi, một
niệm nhập ức kiếp khởi, ức kiếp nhập một niệm khởi, đồng-niệm nhập
biệt-thời khởi, biệt-thời nhập đồng-niệm khởi, tiền-tế nhập hậu-tế khởi,
hậu-tế nhập tiền-tế khởi, tiền-tế nhập trung-tế khởi, trung-tế nhập
tiền-tế khởi, tam-thế nhập sát-na khởi, sát-na nhập tam-thế khởi, chơn-như
nhập ngôn thuyết khởi, ngôn-thuyết nhập chơn-như khởi.
Ví
như có người bị quỷ phá thân họ rung động chẳng tự an được, quỷ chẳng hiện
thân mà làm cho thân người kia như vậy.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy tự-thân nhập định tự-thân khởi.
Ví
như tử-thi do chú-lực mà hay chổi dậy mà đi, cùng làm được các việc.
Tử-thi cùng chú dầu đều khác nhau mà có thể hòa hiệp làm những việc trên.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, đồng cảnh nhập định dị-cảnh
khởi, dị-cảnh nhập định đồng-cảnh khởi.
Ví
như Tỳ-Kheo được tâm tự-tại, hoặc một thân làm nhiều thân, hoặc nhiều thân
làm một thân. Chẳng phải một thân mất mà nhiều thân sanh, cũng chẳng phải
nhiều thân mất mà một thân sanh.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, một thân nhập định nhiều thân
khởi, nhiều thân nhập định một thân khởi.
Ví
như đại-địa đồng một vị mà sanh cỏ cây có nhiều vị khác nhau. Ðất dầu
không khác mà vị có sai khác.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy vẫn vô-phân-biệt, mà có một thứ
nhập định nhiều thứ khởi, nhiều thứ nhập định một thứ khởi.
Chư Phậy-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy được mười pháp xưng-tán chỗ
ngợi khen. Những là : vì nhập chơn-như nên gọi là Như-Lai, vì giác-ngộ tất
cả pháp nên gọi là Phật, vì được tất cả thế-gian ngợi khen nên gọi là
Pháp-Sư, vì biết tất cả pháp nên gọi là nhứt-thiết-trí, vì được tất cả
thế-gian quy-y nên gọi là chỗ sở-y, vì rõ thấu tất cả pháp phương-tiện nên
gọi là đạo sư, vì dẫn tất cả chúng-sanh vào đạo nhứt-thiết-trí nên gọi là
đại-đạo-sư, vì là đèn của tất cả thế-gian nên gọi là quang-minh, vì tâm
chí viên-mãn, nghĩa lợi thành-tựu, chỗ làm đều xong, trụ trí vô-ngại,
phân-biệt biết rõ tất cả pháp nên gọi là thập-lực tự-tại, vì thông-đạt tất
cả pháp-luân nên gọi là bực nhứt-thiết-kiến.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy lại được mười thứ quang-minh
chói sáng. Những là được quang-minh của tất cả Phật, vì cùng Phật
bình-đẳng. Ðược tất cả thế-giới quang-minh, vì có thể khắp nghiêm-tịnh.
Ðược tất cả chúng-sanh quang-minh, vì điều đến điều-phục. Ðược vô-lượng
vô-úy quang-minh vì pháp-giới làm trường thuyết pháp. Ðược vô-sai-biệt
quang-minh, vì biết tất cả pháp không các thứ tánh. Ðược phương-tiện
quang-minh, vì nơi ly-dục-tế của các pháp mà chứng nhập. Ðược chơn-thiệt
quang-minh, vì nơi ly-dục-tế của các pháp tâm bình-đẳng. Ðược thần-biến
quang-minh khắp tất cả thế-gian, vì được Phật gia-hộ hằng chẳng dứt. Ðược
thiện tư-duy quang-minh, vì đến bờ tự-tại của tất cả Phật. Ðược
nhứt-thiết-pháp chơn-như quang-minh vì nơi trong một lỗ chưn lông khéo nói
tất cả.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy được mười thứ vô-sở-tác.
Những là thân-nghiệp vô-sở-tác, ngữ-nghiệp vô-sở-tác, ý-nghiệp vô-sở-tác,
thần thông vô-sở-tác, rõ pháp vô-tánh vô-sở-tác, biết nghiệp chẳng hoại
vô-sở-tác, vô-sai-biệt trí vô-sở-tác, vô-sanh-khởi trí vô-sở-tác, biết
pháp không diệt vô-sở-tác, tùy thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa
vô-sở-tác.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, vô-lượng cảnh giới nhiều
thứ sai khác. Những là một nhập nhiều khởi, nhiều nhập một khởi, đồng nhập
dị khởi, dị nhập đồng khởi, tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi, đại nhập
tiểu khởi, tiểu nhập đại khởi, thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận
khởi, không thân nhập có thân khởi, có thân nhập không thân khởi, vô-tướng
nhập hữu tướng khởi, hữu tướng nhập vô-tướng khởi, trong khởi mà nhập,
trong nhập mà khởi. Ðây đều là cảnh-giới tự-tại của tam-muội nầy.
Ví
nhà huyễn thuật trì chú được thành có thể hiện các thứ hình tướng
sai-biệt. Chú khác với huyễn, mà có thể làm ra huyễn. Chú chỉ là âm-thanh,
mà có thể làm ra các hình sắc cho nhãn-thức biết, các thứ tiếng cho
nhĩ-thức biết, các thứ hương cho tỹ-thức biết, các thứ vị cho thiệt-thức
biết, các thứ xúc cho thân-thức biết, các cảnh giới cho ý-thức biết.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, trong đồng nhập định trong dị
khởi, trong dị nhập định trong đồng khởi.
Ví
như Ðao-Lợi thiên lúc đánh với A-Tu-La. Chư Thiên thắng trận. Vua A-Tu-La
thân cao lớn bảy trăm do-tuần dùng sức huyễn thuật đem binh đội trăm ngàn
người đồng thời chạy vào trong lỗ cộng sen để trốn.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát đã khéo thành-tựu các huyễn trí-địa. Huyễn-trí tức là
Bồ-Tát, Bồ-Tát tức là huyễn-trí. Vì thế nên có thể trong pháp vô-sai-biệt
nhập định trong pháp sai-biệt khởi định. Trong pháp sai-biệt nhập định
trong pháp vô-sai-biệt khởi định.
Ví
như nhà nông gieo giống trong ruộng, hột giống ở dưới còn trái sanh ở
trên.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, trong một nhập định trong nhiều
khởi, trong nhiều nhập định trong một khởi.
Ví
như xích bạch của nam nữ hòa hiệp, hoặc có chúng-sanh thọ sanh trong đó,
bấy giờ gọi là ca-la-lã. Từ đây tuần tự ở thai mẹ đủ mười tháng, do sức
nghiệp lành nên tất cả chi-phần đều được thành-tựu, căn thân chẳng thiếu,
tâm ý sáng suốt. Ca-la-lã kia với sáu căn thể trạng khác nhau, do nghiệp
lực mà có thể làm cho kia thứ đệ thành-tựu, thọ các thứ quả báo đồng dị
loại.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ nhứt-thiết-trí ngôi ca-la-lã, do sức tín giải
nguyện lần lần tăng trưởng, tâm Bồ-Tát quảng đại nhiệm vận tự-tại. Trong
không nhập định trong có khởi, trong có nhập định trong không khởi.
Ví
như long-cung nương đất làm nền mà chẳng nương hư-không. Rồng ở trong cung
chẳng ở hư-không mà có thể nổi mây đầy khắp hư-không. Có người ngước xem
hoặc thấy có cung-điện, phải biết đó là thành càn-thát-bà chẳng phải
long-cung. Dầu rồng ở dưới mà mây nổi trên không.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy nơi vô-tướng nhập nơi hữu-tướng khởi
nơi hữu-tướng nhập nơi vô-tướng khởi.
Ví
như cung của Diệu-Quang Ðại Phạm-Thiên-Vương ở tên là
nhứt-thiết-thế-gian-tối-thắng-thanh-tịnh-tạng. Trong cung lớn nầy thấy
khắp Ðại-thiên thế-giới : những tứ thiên-hạ, cung của Thiên, Long bát-bộ,
chỗ ở của nhơn-gian và ba ác-đạo, các núi Tu-Di-Sơn vân vân, biển cả sông
lạch, bờ đầm, nguồn suối, thành ấp tụ lạc, rừng cây, các thứ bửu. Những
vật như vậy tột đến đại Luân-Vi, nhẫn đến vi-tế du-trần trong hư-không đều
hiển-hiện trong cung của Ðại-Phạm-Vương, như bóng mặt hiện thấy trong
gương sáng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại
tam-muội nầy, biết các thứ cõi nước, thấy các thứ Phật-độ, các thứ quả
chứng, các thứ pháp-thành, các thứ hạnh mãn, các thứ giải nhập, các thứ
tam-muội, khởi các thứ thần-thông, được các thứ trí-huệ, trụ các thứ
sát-na-tế.
Ðại Bồ-Tát nầy đến mười thứ thần-thông bỉ-ngạn. Những là đến chư Phật tận
hư-không biến pháp-giới : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến Bồ-Tát rốt ráo
vô-sai-biệt tự-tại thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay phát khởi bồ-tát quảng đại
hạnh nguyện nhập Như-Lai môn phật-sự : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay
chấn-động tất cả thế-giới tất cả cảnh-giới đều làm cho thanh-tịnh :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay tự-tại biết tất cả chúng-sanh nghiệp quả
bất-tư-nghì đều như huyễn hóa : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay tự-tại biết
các tam-muội thô tế nhập xuất tướng sai biệt : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay
dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai mà ở trong đó phát-sanh đại-nguyện :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay hóa làm Phật, hóa chuyển pháp-luân điều-phục
chúng-sanh, khiến sanh phật chủng, khiến nhập phật-thừa mau được thành-tựu
: thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay rõ biết bất-khả-thuyết tất cả văn cú bí-mật
mà chuyển pháp-luân, khiến trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết pháp-môn đều được thanh-tịnh : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến
chẳng nhờ ngày đêm năm tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị-hiện khắp
tam thế : thần-thông bỉ-ngạn.
Trên đây là trí thiện-xảo nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội
thứ tám của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! thế nào là pháp-giới tự-tại tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Ðại Bồ-Tát nầy nơi tự nhãn-xứ nhẫn đến tự ý-xứ nhập tam-muội, nên gọi là
pháp-giới tự-tại.
Ðại Bồ-Tát nơi mỗi mỗi lỗ chưn lông của tự-thân mà nhập tam-muội nầy, tự
nhiên biết được các thế-gian, biết các pháp thế-gian, biết các thế-giới,
biết ức na-do-tha thế-giới, biết a-tăng-kỳ thế-giới, biết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số thế-giới. Trong tất cả thế-giới thấy có Phật xuất-thế,
Bồ-Tát chúng-hội thảy đều đông đủ, quang-ming thanh-tịnh, thuần thiện
không tạp, trang-nghiêm rộng lớn, các thứ châu báu dùng để ngiêm-sức.
Bồ-Tát trong các thế-giới nầy không ngớt tu hạnh bồ-tát hoặc một kiếp,
trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, vô-số kiếp,
vô-lượng kiếp, vô-biên kiếp, vô-đẳng kiếp, bất-khả-sổ kiếp, bất-khả-xưng
kiếp, bất-khả-tư kiếp, bất-khả-lượng kiếp, bất-khả-thuyết kiếp,
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần số kiếp.
Bồ-Tát lại ở trong vô-lượng kiếp như vậy mà trụ nơi tam-muội nầy : cũng
nhập, cũng khởi, cũng thành-tựu thế-giới, cũng điều phục chúng-sanh, cũng
rõ khắp pháp-giới, cũng biết khắp tam thế, cũng diễn thuyết các pháp, cũng
hiện đại thần-thông các thứ phương-tiện vô-trước vô-ngại, vì nơi pháp-giới
được tự-tại. Khéo phân-biệt nhãn, khéo phân-biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
khéo phân-biệt ý. Các thứ sai biệt chẳng đồng như vậy đều khéo phân-biệt
tột ngằn mé.
Bồ-Tát khéo thấy và biết như vậy rồi, có thể sanh khởi mười ngàn ức
đà-la-ni pháp quang-minh, thành-tựu mười ngàn ức hạnh thanh-tịnh, chứng
được mười ngàn ức thiện-căn, viên-mãn mười ngàn ức thần-thông, hay nhập
mười ngàn ức tam-muội, thành-tựu mười ngàn ức thần-lực, trưởng dưỡng mười
ngàn ức công-lực, viên-mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức
lực-trì, thị-hiện mười ngàn ức thần-biến, đầy đủ mười ngàn ức bồ-tát
vô-ngại, viên-mãn mười ngàn ức bồ-tát trợ-đạo, chức nhóm mười ngàn ức
bồ-tát tạng, chiếu sáng mười ngàn ức bồ-tát phương-tiện, diễn thuyết mười
ngàn ức các nghĩa, thành-tựu mười ngàn ức các nguyện, xuất sanh mười ngàn
ức hồi-hướng, tịnh tu mười ngàn ức bồ-tát chánh-vị, minh liễu mười ngàn ức
pháp-môn, khai-thị mười ngàn ức diễn-thuyết, tu trị mười ngàn ức bồ-tát
thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát lại có vô số công-đức, vô-lượng công-dức, vô-biên
công-đức, vô-đẳng công-đức, bất-khả-sổ công-đức, bất-khả-xưng công-đức,
bất-khả-tư công-đức, bất-bất-khả-lượng công-đức, bất-khả-thuyết công-đức,
vô-tận công-đức.
Chư Phật-tử ! Bồ-Tát nầy nơi công-đức như vậy đều đã làm xong, đều đã chứa
nhóm, đều đã trang-nghiêm, đều đã thanh-tịnh, đều đã suốt thấu, đều đã
nhiếp thọ, đều đã xuất sanh, đều đáng khen ngợi, đều được kiên-cố, đều đã
thành-tựu.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được đông-phương mười ngàn vô-số
phật-sát vi-trần-số danh-hiệu chư Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu Phật
nầy lại có mười ngàn vô-số phật-sát vi-trần-số Phật đều riêng khác. Như
đông phương, chín phương kia cũng như vậy.
Chư Phật đó đều hiện ra trước mặt Bồ-Tát. Vì Bồ-Tát mà hiện cõi thanh-tịnh
của chư Phật, vì nói vô-lượng thân của chư Phật, vì nói nan-tư nhãn của
chư Phật, vì nói vô-lượng nhĩ của chư Phật, vì nói tỹ thanh-tịnh của chư
Phật, vì nói thiệt thanh-tịnh của chư Phật, vì nói tâm vô-trụ của chư
Phật, vì nói thần-thông vô-thượng của chư Phật, khiến tu vô-thượng bồ-đề
của Phật, khiến được âm-thanh thanh-tịnh của Phật, khai-thị pháp-luân
bất-thối của Phật, hiển-thị vô-biên chúng-hội của Phật, khiến nhập vô-biên
bí-mật của Phật, tán thán tất cả thiện-căn của Phật, khiến nhập pháp
bình-đẳng của Phật, tuyên nói tam-thế chủng-tánh của Phật, thị-hiện
vô-lượng sắc-tướng của Phật, xiển dương pháp hộ-niệm của Phật, diễn sướng
pháp âm vi-diệu của Phật, biện minh thế-giới của tất cả chư Phật, tuyên
dương tam-muội của tất cả chư Phật, thị-hiện chúng-hội thứ đệ của chư
Phật, hộ-trì pháp bất-tư-nghì của chư Phật, nói tất cả pháp dường như
huyễn hóa, thuyết minh pháp-tánh không động chuyển, khai-thị tất cả
pháp-luân vô-thượng, khen ngợi vô-lượng công-đức của Phật, khiến vào tất
cả những mây tam-muội, khiến biết tâm đó như huyễn như hóa vô-biên vô-tận.
Chư Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát trụ nơi pháp-giới tự-tại tam-muội nầy, mười
phương kia, mỗi phương đều có mười ngàn vô-số phật-sát vi-trần số
danh-hiệu Như-Lai, trong mỗi mỗi danh-hiệu đều có mười ngàn vô-số phật-sát
vi-trân-số Phật đồng thời hộ-niệm cho Bồ-Tát nầy được vô-biên thân, cho
Bồ-Tát nầy được tâm vô-ngại, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp được không
vong-niệm, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp được huệ quyết-định, cho Bồ-Tát
nầy càng thêm sáng suốt nơi tất cả pháp đều lãnh thọ được, cho Bồ-Tát nầy
nơi tất cả pháp đều có thể hiểu rõ, cho Bồ-Tát nầy các căn mạnh lẹ nơi
pháp thần-thông đều được thiện-xảo, cho Bồ-Tát nầy cảnh-giới vô-ngại đi
khắp pháp-giới hằng chẳng nghỉ, cho Bồ-Tát nầy được trí vô-ngại rốt-ráo
thanh-tịnh, cho Bồ-Tát nầy dùng sức thần-thông trong tất cả thế-giới
thị-hiện thành Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được mười thứ " hải ". Những là
được chư Phật-hải, vì đều xem thấy. Ðược chư pháp-hải, vì hay dùng trí-huệ
trọn biết rõ. Ðược chúng-sanh-hải, vì trọn điều-phục. Ðược chư sát-hải, vì
dùng thần-thông vô-tánh vô-tác đều qua đến. Ðược công-đức-hải, vì tất cả
tu hành trọn viên-mãn. Ðược thần-thông-hải, vì hay rộng thị-hiện khiến
khai-ngộ. Ðược chư căn-hải, vì những căn-tánh chẳng đồng đều khéo biết.
Ðược chư tâm-hải, vì biết vô-lượng tâm chủng loại sai biệt của tất cả
chúng-sanh. Ðược chư hạnh-hải, vì hay dùng nguyện-lực đều viên-mãn. Ðược
chư nguyện-hải, vì đều làm cho thành-tựu trọn thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát được mười thứ " hải " rồi, lại được mười thứ
thù-thắng : một là trong tất cả chúng-sanh rất là đệ nhứt. Hai là trong
tất cả chư thiên rất là thù-đặc. Ba là trong tất cả Phạm-Vương rất tột
tự-tại. Bốn là nơi các thế-gian không chỗ nhiễm-trước. Năm là tất cả
thế-gian không gì che chói được. Sáu là tất cả các ma chẳng mê loạn được.
Bảy là vào khắp các loài không bị chướng ngại. Tám là mọi nơi thọ sanh
biết chẳng kiên-cố. Chín là tất cả phật-pháp đều được tự-tại. Mười là tất
cả thần-thông đều hay thị-hiện.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã được mười thứ thù-thắng, lại được mười thứ "
lực " ở trong chúng-sanh-giới tu tập các hạnh : một là sức dũng-kiện, vì
điều-phục thế-gian. Hai là sức tinh-tấn, vì hằng chẳng thối-chuyển. Ba là
sức vô-trước, vì lìa các cấu nhiễm. Bốn là sức tịch-tịnh, vì không tránh
luận nơi tất cả pháp. Năm là sức nghịch thuận, vì nơi tất cả pháp tâm
tự-tại. Sáu là sức pháp-tánh, vì trong các nghĩa được tự-tại. Bảy là sức
vô-ngại vì trí-huệ quảng-đại. Tám là sức vô-úy vì khéo thuyết-pháp. Chín
là sức biện-tài, vì khéo thọ-trì các pháp. Mười là sức khai-thị, vì
trí-huệ vô-biên.
Chư Phật-tử ! Mười thứ " lực " nầy là sức quảng-đại, sức tối-thắng, sức
không ai xô dẹp được, sức vô-lượng, sức khéo chứa nhóm, sức bất-động, sức
kiên-cố, sức trí-huệ, sức thành-tựu, sức thắng-định, sức thanh-tịnh, sức
rất thanh-tịnh, sức pháp-thân, sức pháp quang-minh, sức pháp-đăng, sức
pháp-môn, sức không bị phá hoại, sức rất dũng-mãnh, sức đại trượng-phu,
sức thiện-tượng-phu tu tập, sức thành chánh-giác, sức quá-khứ chứa nhóm
thiện-căn, sức an-trụ vô-lượng thiện-căn, sức trụ Như-Lai lực, sức tâm
tư-duy, sức tăng-trưởng Bồ-Tát hoan-hỷ, sức xuất sanh Bồ-Tát tịnh-tín, sức
tăng-trưởng Bồ-Tát dũng-mãnh, sức do Bồ-Ðề tâm sanh, sức Bồ-Tát thanh-tịnh
thâm-tâm, sức Bồ-Tát thù-thắng thâm-tâm, sức Bồ-Tát thiện-căn huân-tập,
sức cựu-cánh các pháp, sức thân vô-ngại, sức nhập pháp-môn phương-tiện
thiện-xảo, sức diệu-pháp thanh-tịnh, sức an-trụ thế-lực lớn tất cả
thế-gian chẳng khuynh động được, sức tất cả chúng-sanh không ai che chói
được.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy nơi vô-lượng pháp công-đức như vậy, hay
thành-tựu, hay viên-mãn, hay chiếu minh, hay cụ túc, hay khắp cụ-túc, hay
quảng-đại, hay kiên-cố, hay tăng-trưởng, hay tịnh-trị, hay khắp tịnh-trị.
Về
những công-đức biên-tế, trí-huệ biên-tế, tu hành biên-tế, pháp-môn
biên-tế, tự-tại biên-tế, khổ-hạnh biên-tế, thành-tựu biên-tế, thanh-tịnh
biên-tế, xuất-ly biên-tế, pháp tự-tại biên-tế của đại Bồ-Tát nầy không ai
có thể nói được.
Bồ-Tát nầy chỗ chứng đắc, chỗ thành-tựu, chỗ xu nhập, chỗ hiện tiền, chỗ
có cảnh-giới, chỗ có quan-sát, chỗ có chứng nhập, chỗ có thanh-tịnh, chỗ
có liễu-tri, chỗ có kiến lập tất cả pháp-môn, trong bất-khả-thuyết kiếp
không thể nói hết được.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy có thể rõ biết vô-số
vô-lượng vô-biên vô-đẳng bất-khả-sổ bất-khả-xưng bất-khả-tư bất-khả-lượng
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả tam-muội. Cảnh giới
của mỗi mỗi tam-muội đó quảng-đại vô-lượng. Trong cảnh-giới đó hoặc nhập,
hoặc xuất, hoặc trụ, chỗ có tướng-trạng, chỗ có thị-hiện, chỗ có hành-xứ,
chỗ có đẳng-lưu, chỗ có tự-tánh,chỗ có trừ-diệt, chỗ có xuất-ly, tất cả
như vậy đều thấy rõ cả.
Ví
như cung của đại Long-Vương nơi ao A-Nậu-Ðạt chảy ra thành bốn con sông
lớn, không đục, không tạp, không cấu-uế, màu sắc thanh-tịnh dường như
hư-không. Bốn mặt ao, mỗi phía có một cửa sông, chảy ra thành bốn con
sông. Nơi cửa Tượng-Khẩu chảy ra thành sông Hằng-Già. Nơi cửa Sư-Tử-Khẩu
chảy ra thành sông Tư-Ðà. Nơi
cửa Ngưu-Khẩu chảy ra thành sông Tín-Ðộ. Nơi cửa Mã-Khẩu chảy ra thành
sông Phược-Sô. Nơi cửa sông Hằng-Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư-Ðà chảy
ra cát kim-cương. Cửa sông Tín-Ðộ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược-Sô chảy
ra cát lưu-ly. Cửa sông Hằng-Già màu bạc. Cửa sông Tư-Ðà màu kim-cương.
Cửa sông Tín-Ðộ màu vàng. Cửa sông Phược-Sô màu lưu-ly. Mỗi cửa sông rộng
một do-tuần.
Nước nơi bốn cửa sông chảy quanh ao A-Nậu-Ðạt bảy vòng rồi theo phương vị
mà chảy ra bốn phía, nổi sóng cuồn-cuộn chảy thẳng ra biển.
Nơi dòng nước của bốn sông chảy quanh ao, có thiên-bửu hiệp thành bốn thứ
hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hương thơm lạ lùng ngào-ngạt, diệu-sắc
thanh-tịnh. Những cánh hoa, những đài nhụy đều là các thứ báu tự-nhiên
chói suốt, đều phóng ánh sáng chiếu hiện lẫn nhau.
Ao
A-Nậu-Ðạt chu-vi rộng lớn năm mươi do-tuần, những cát báu trải khắp đáy
ao, nghiêm-sức với những châu ma-ni, bờ ao trang-nghiêm bằng vô-lượng
diệu-bửu, diệu-hương chiên-đàn rải khắp trong đó. Bốn thứ hoa sen và các
hoa báu khác đều có khắp ao. Gió thoảng đưa hương-khí đi xa. Rừng hoa cây
báu bao quanh ao. Lúc
mặt nhựt mọc thảy đều chiếu sáng. Ao và sông cùng tất cả vật chiếu chói
lẫn nhau thành lưới quang-minh. Các vật nầy, hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao,
hoặc thấp, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, nhẫn đến rất nhỏ như
một hột cát, một hột bụi đều là diệu-bửu quang-minh chói sáng. Tất cả vật
đều có hiện bóng mặt nhựt. Các vật nầy cũng hiện bóng lẫn nhau. Các bóng
ấy không thêm không bớt, chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, đều như bổn chất
mà được thấy rõ.
Chư Phật-tử ! Như ao A-Nậu-Ðạt, nơi bốn cửa chảy ra bốn con sông, thẳng
vào biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ tứ biện-tài phát sanh các hạnh rốt ráo vào nơi
biển nhứt-thiết-trí.
Như sông Hằng-Già từ Tượng-Khẩu màu bạc chảy ra cát bạc.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng nghĩa biện-tài thuyết tất cả nghĩa-môn của đức
Như-lai đã nói, xuất sanh tất cả bạch-pháp thanh-tịnh rốt ráo vào nơi biển
trí vô-ngại.
Như sông Tư-Ðà từ Sư-Tử-Khẩu màu kim-cương chảy ra cát kim-cương.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng pháp biện-tài vì tất cả chúng-sanh mà nói câu
kim-cương dẫn ra trí kim-cương rốt ráo vào nơi biển trí vô-ngại.
Như sông Tín-Ðộ từ Ngưu-Khẩu màu vàng chảy ra cát vàng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng huấn-từ biện-tài thuyết duyên-khởi phương-tiện
tùy thuận thế-gian, khai-ngộ chúng-sanh khiến đều hoan-hỉ điều-phục
thành-thục, rốt ráo vào nơi biển duyên-khởi phương-tiện.
Như sông Phược-Sô từ Mả-Khẩu màu lưu-ly chảy ra cát lưu-ly.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng vô-tận biện-tài mưa trăm ngàn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết diệu-pháp, làm cho người nghe đều được gội nhuần rốt ráo
vào nơi biển phật-pháp.
Như bốn con sông chảy quanh ao A-Nậu-Ðạt rồi đều theo phương-vị chảy thẳng
ra biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thành-tựu tùy thuận thân-nghiệp,khẩu-nghiệp,
ý-nghiệp. Thành-tựu trí làm tiền-đạo cho thân-nghiệp, ngữ-nghiệp,
ý-nghiệp. Tuôn khắp bốn phương rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Chư Phật-tử ! Những gì gọi là Bồ-Tát bốn phương ? Những là thấy tất cả
Phật mà được khai ngộ, nghe tất cả pháp thọ-trì chẳng quên, đầy đủ tất cả
hạnh ba-la-mật, đại-bi thuyết pháp làm đầy đủ cho chúng-sanh.
Như bốn con sông chảy quanh ao, trong đó mọc đầy những bốn thứ hoa sen :
xanh, vàng, đỏ, trắng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trong chặng phát tâm bồ-đề chẳng rời bỏ chúng-sanh,
thuyết pháp điều-phục khiến điều viên-mãn vô-lượng tam-muội thấy cõi nước
Phật trang-nghiêm thanh-tịnh.
Như cây báu bao quanh ao A-Nậu-Ðạt.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát hiện cõi nước Phật trang-nghiêm, làm cho chúng-sanh
xu-hướng bồ-đề.
Như ao A-Nậu-Ðạt rộng năm mươi do-tuần, nước ao trong sạch không đục.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát tâm bồ-đề rộng vô-lượng vô-biên, đầy đủ thiện-căn
thanh-tịnh không nhơ.
Như ao A-Nậu-Ðạt dùng vô-lượng bửu trang-nghiêm nơi bờ, hương chiên-đàn
rải đầy khắp trong đó.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng trăm ngàn ức mười thứ trí-bửu trang-nghiêm ờ
đại-nghuyện bồ-đề tâm, khắp rải tất cả những pháp lành diệu-hương.
Như ao A-Nậu-Ðạt, cát vàng trải khắp đáy ao, châu ma-ni xen lẫn
trang-nghiêm.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng trí-huệ vi-diệu quán-sát cùng khắp, bất-tư-nghì
pháp-hữu bồ-tát giải-thóat xen lẫn trang-nghiêm, được vô-ngại quang-minh
nơi tất cả pháp, trụ nơi chỗ trụ của tất cả Phật, nhập nơi tất cả
phương-tiện thậm-thâm.
Như Long-Vương nơi ao A-Nậu-Ðạt khỏi hẳn những nhiệt-não của loài rồng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát khỏi hẳn tất cả ưu não của thế-gian. Dầu hiện thọ
sanh mà không nhiễm trước.
Như bốn sông lớn thấm nhuần khắp mặt đất, rồi chảy vào biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng bốn sông trí-huệ thấm nhuần Trời, Người, Sa-Môn,
Bà-La-Môn, làm cho họ đều vào nơi biển trí-huệ vô-thượng bồ-đề. Dùng bốn
thứ lực để trang-nghiêm :
Một là sông nguyện trí : cứu hộ điều-phục tất cả chúng-sanh thường không
ngớt nghỉ.
Hai là sông trí ba-la-mật tu hạnh bồ-đề lợi ích chúng-sanh, quá-khứ,
vị-lai, hiện-tại nối tiếp vô-tận rốt ráo vào nơi biển trí của chư Phật.
Ba
là sông trí tam-muội của Bồ-Tát vô-số tam-muội dùng làm trang-nghiêm thấy
tất cả Phật vào nơi biển chư Phật.
Bốn là sông trí đại-bi, đại-bi tự-tại cứu khắp chúng-sanh, phương-tiện
nhiếp lấy không thôi nghỉ, tu hành môn công-đức bí-mật rốt ráo vào nơi
biển lớn thập-lực.
Như bốn sông lớn từ ao A-Nậu-Ðạt chảy ra vô-tận thẳng vào đến biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng sức đại nguyện tu hạnh Bồ-Tát, tri-kiến tự-tại
vô-tận, rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Như bốn sông lớn chảy vào biển, không gì có thể ngăn chẳng cho chảy vào
biển được.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền, thành-tựu
tất cả trí-huệ quang-minh, trụ nơi pháp bồ-đề của tất cả Phật, vào
phật-trí không chướng-ngại.
Như bốn sông lớn chảy thẳng vào biển, trải qua nhiều kiếp vẫn không nhàm
mỏi.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng hạnh nguyện Phổ-Hiền tu hạnh bồ-tát tột kiếp
vị-lai vào biển Như-Lai chẳng nhàm mỏi.
Như lúc mặt nhựt mọc, trong ao A-Nậu-Ðạt, cát bạc, cát vàng, các kim
cương, cát lưu-ly và các thứ bửu-vật khác đều có bóng mặt nhựt hiện trong
đó. Những cát bạc, vàng, kim-cương, lưu-ly và tất cả bửu-vật cũng đều xoay
vần hiện bóng nhau không trở ngại.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, trong mỗi mỗi lỗ lông nơi thân đều
thấy bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai,
cũng thấy cõi nước đạo-tràng và chúng-hội của chư Phật đó. Nơi mỗi đức
Phật, Bồ-Tát nầy nghe pháp thọ-trì, tín-giải, cúng-dường, đều trải qua
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết ức na-do-tha-kiếp, mà chẳng tưởng niệm thời
tiết dài vắn. Những chúng-hội đó cũng không bị chật hẹp.
Tại sao vậy ?
Vì
Bồ-Tát nầy dùng tâm vi-diệu nhập vô-biên pháp-giới, vì nhập vô-đẳng nghiệp
quả sai-biệt, vì nhập cảnh giới tam-muội bất-tư-nghì, vì nhập cảnh-giới
tư-duy bất-tư-nghì, vì nhập cảnh-giới tự-tại của chư Phật, vì được tất cả
Phật hộ niệm, vì được tất cả Phật hộ niệm, vì được đại thần-biến của tất
cả Phật, vì được thập-lực khó biết khó được của chư Phật, vì nhập
cảnh-giới hạnh viên-mãn của Phổ-Hiền Bồ-Tát, vì được sức thần-thông không
mỏi nhọc của tất cả Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát dầu có thể ở nơi chánh-định xuất nhập trong một
niệm, nhưng cũng chẳng bỏ thời-gian lâu ở trong định, cũng không chấp
trước. Dầu nơi cảnh-giới không chỗ y-trụ, nhưng cũng chẳng bỏ tất cả cảnh
sở-duyên. Dầu khéo nhập sát-na-tế tam-muội, nhưng vì lợi ích chúng-sanh mà
hiện Phật thần-thông không nhàm đủ. Dầu vào khắp pháp-giới mà chẳng có
ngằn mé. Dầu không sở-trụ không có xứ-sở, nhưng luôn xu-nhập đạo
nhứt-thiết-trí, dùng sức biến-hóa vào khắp trong vô-lượng chúng-sanh,
trang-nghiêm đầy đủ tất cả thế-giới. Dầu rời điên đảo phân-biệt thế-gian,
vượt khỏi tất cả bực phân-biệt, cũng chẳng bỏ tất cả các tướng. Dầu hay
đầy đủ phương-tiện thiện-xảo, mà rốt ráo thanh-tịnh. Dầu chẳng phân-biệt
các bực Bồ-Tát, mà đều đã khéo nhập các bực.
Ví
như hư-không dầu hay dung thọ tất cả các vật, mà chẳng rời có và không.
Cũng vậy, đại bồ-Tát dầu vào khắp tất cả thế-gian mà rời tưởng thế-gian.
Dầu siêng độ tất cả chúng-sanh mà rời tưởng chúng-sanh. Dầu sâu biết tất
cả pháp mà rời tưởng các pháp. Dầu thích thấy chư Phật mà rời tưởng chư
Phật. Dầu khéo nhập các thứ tam-muội mà biết tất cả pháp tự-tánh đều như
không chỗ nhiễm trước. Dầu dùng vô-biên biện-tài diễn vô-tận pháp cú mà
tâm luôn trụ nơi pháp lìa văn-tự. Dầu thích quán-sát pháp không ngôn
thuyết mà luôn thị-hiện âm-thanh thanh-tịnh. Dầu trụ tất cả pháp-tế ly
ngôn mà luôn thị-hiện các thứ sắc tướng. Dầu giáo-hóa chúng-sanh mà biết
tất cả pháp rốt ráo tánh không. Dầu siêng tu đại-bi độ thoát chúng-sanh mà
biết chúng-sanh-giới vô-tận vô-tán. Dầu rõ thấu pháp-giới thường-trụ
bất-biến mà dùng tam luân điều-phục chúng-sanh luôn chẳng thôi nghỉ. Dầu
thường an-trụ chỗ trụ của Như-Lai, mà trí-huệ thanh-tịnh tâm không sợ hãi
phân biệt diễn thuyết các thứ pháp, chuyển pháp-luân thường chẳng thôi
nghỉ.
Trên đây là trí thiện-xảo pháp-giới tự-tại đại tam-muội thứ chín của đại
Bồ-Tát.
(3)
Chư Phật-tử ! Thế nào là vô-ngại-luân tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Lúc đại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy thời trụ nơi thân-nghiệp vô-ngại,
ngữ-nghiệp vô-ngại, ý-nghiệp vô-ngại. Trụ nơi phật-độ vô-ngại. Ðược trí
vô-ngại thành-tựu chúng-sanh. Ðược trí vô-ngại điều-phục chúng-sanh. Phóng
quang-minh vô-ngại. Hiện lưới quang-minh vô-ngại. Bày biến-hóa vô-ngại
quảng-đại. Chuyển pháp-luân vô-ngại thanh-tịnh. Ðược Bồ-Tát vô-ngại
tự-tại. Vào khắp phật-lực, trụ khắp phật-trí. Làm chỗ làm của Phật. Tịnh
chỗ tịnh của Phật. Hiện Phật thần-thông. Làm cho Phật hoan-hỉ. Thật hành
hạnh Như-Lai. Trụ đạo Như-Lai. Thường được gần-gũi vô-lượng Phật. Làm
những phật-sự. Nối thạnh phật-chủng.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã trụ nơi tam-muội nầy rồi, quán-nhứt-thiết-trí,
tổng quán nhứt-thiết trí, biệt quán nhứt-thiết-trí, tùy thuận
nhứt-thiết-trí, hiển-thị nhứt-thiết-trí, phan-duyên nhứt-thiết-trí, kiến
nhứt-thiết-trí, tổng-kiến nhứt-thiết-trí, biệt-kiến nhứt-thiết-trí. Nơi
hạnh nguyện quảng-đại của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nơi tâm quảng-đại, hạnh
quảng-đại, sở-xu quảng-đại, sở-nhập quảng-đại, quang-minh quảng-đại,
xuất-hiện quảng-đại, hộ-niệm quảng-đại, biến-hóa quảng-đại, đạo quảng-đại
của Phổ-Hiền Bồ-Tát, chẳng dứt, chẳng lui, chẳng thối, chẳng đổi, không
mỏi, không bỏ, không tán, không loạn, thường tăng tấn hằng tiếp nối.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát nầy ở trong các pháp thành-tựu đại-nguyện,
phát-hành đại-thừa, vào nơi biển phật-pháp đại-phương-tiện, dùng sức
nguyện thù-thắng nơi chỗ sở-hành của Bồ-Tát, trí-huệ chiếu sáng đều được
thiện-xảo. Ðầy đủ Bồ-Tát thần-thông biến-hóa, khéo hay hộ-niệm tất cả
chúng-sanh như chỗ hộ-niệm của tam-thế chư Phật. Với các chúng-sanh hằng
khởi đại-bi. Thành-tựu pháp chẳng biến-dị của Như-Lai.
Ví
như có người đem châu ma-ni để trong lớp lụa màu, châu ma-ni dầu đồng màu
với lụa nhưng chẳng bỏ bổn-chất.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thành-tựu trí-huệ dùng làm tâm-bửu, quán
nhứt-thiết-trí đều khắp hiện rõ, nhưng chẳng bỏ hạnh Bồ-Tát.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát phát thệ nguyện lớn lợi ích tất cả chúng-sanh,
độ thóat tất cả chúng-sanh, thừa sự tất cả chư Phật, nghiêm tịnh tất cả
thế-giới, an-ủy chúng-sanh thâm nhập biển pháp. Vì tịnh chúng-sanh-giới mà
hiện đại tự-tại. Cấp thí chúng-sanh chiếu khắp thế-gian. Vào nơi vô-biên
pháp-môn huyễn hóa, chẳng lui, chẳng chuyển, không mỏi, không nhàm.
Ví
như hư-không chứa giữ các thế-giới, hoặc thành hoặc trụ, không nhàm không
mỏi, không gầy không hư, không tan không hoại, không biến không khác,
không có sai biệt, chẳng bỏ tự-tánh.
Tại sao vậy ? Vì tự-tánh của hư-không là như vậy.
Cũng thế, đại Bồ-Tát lập vô-lượng đại-nguyện độ tất cả chúng-sanh tâm
không nhàm mỏi.
Ví
như Niết-Bàn, tam-thế vô-lượng chúng-sanh diệt-độ trong đó, trọn không
nhàm mỏi. Tại sao vậy ? Vì tất cả pháp bổn-tánh thanh-tịnh gọi đó là
Niết-Bàn, thời đâu có sự nhàm mỏi ở trong đó.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát vì muốn độ thoát tất cả chúng-sanh đều làm cho xuất
ly mà hiện ra đời nên không bao giờ có tâm nhàm mõi.
Như nhứt-thiết-trí hay làm cho tam-thế tất cả Bồ-Tát đã sẽ và hiện nay
sanh vào nhà chư Phật, nhẫn đến làm cho thành vô-thượng bồ-đề trọn không
nhàm mỏi. Tại sao vậy ? Vì nhứt-thiết-trí cùng pháp-giới không hai, vì nơi
tất cả pháp vô-sở trước.
Cũng vây, đại Bồ-Tát tâm bình-đẳng trụ nhứt-thiết-trí thời đâu có tâm nhàm
mỏi.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy có một liên-hoa. Liên-hoa đó rộng lớn tột
thập-phương-tế, dùng bất-khả-thuyết cánh, bất-khả-thuyết bửu,
bất-khả-thuyết hương để trang-nghiêm. Bất-khả-thuyết bửu đó lại đều
thị-hiện các thứ bửu thanh-tịnh đẹp tốt rất khéo an-trụ. Hoa đó thường
phóng quang-minh nhiều màu, chiếu khắp mười phương tất cả thế-giới không
chỗ chướng-ngại. Chơn-kim làm lưới giăng chùm trên hoa. Linh báu lay nhẹ
vang tiếng hòa dịu. Tiếng linh diễn sướng pháp nhứt-thiết-trí.
Liên-hoa lớn nầy đầy đủ sự trang-nghiêm thanh-tịnh của Như-Lai. Là chỗ
phát-khởi của tất cả thiện-căn, tiêu biểu sự cát-tường, chỗ hiện của
thần-lực, có mười ngàn vô-số công-đức thanh-tịnh diệu-đạo Bồ-Tát làm
thành, tâm nhứt-thiết-trí lưu xuất. Bóng của chư Phật mười phương hiện rõ
trong đó. Thế-gian chiêm-ngưỡng xem như tháp của Phật. Chúng-sanh ngó thấy
đều lễ kính. Từ chỗ hay thấu rõ huyễn chánh-pháp sanh ra. Tất cả thế-gian
chẳng ví dụ được.
Ðại Bồ-Tát ngồi kiết-già trên liên-hoa nầy, thân cân xứng với hoa.
Thần-lực của chư Phật gia hộ làm cho nơi thân của Bồ-Tát, mỗi mỗi lỗ lông
đều phóng ra trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
quang-minh. Mỗi mỗi quang-minh hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số châu ma-ni. Châu ma-ni nầy đều gọi là
phổ-quanh-minh-tạng, trang-nghiêm với nhiều sắc tướng, thành-tựu do
vô-lượng công-đức. Các báu và hoa làm mành lưới giăng che phía trên. Rải
trăm ngàn ức na-do-tha diệu-hương thù-thắng. Trang-nghiêm với vô-lượng sắc
tướng. Lại hiện lọng báu trang-nghiêm bất-tư-nghì dùng cho phía trên.
Mỗi mỗi châu ma-ni đều hiện trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số tòa liên-hoa-tạng sư-tử. Mỗi mỗi tòa sư-tử hiện trăm muôn ức
na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số quang-minh. Mỗi mỗi
quang-minh hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
sắc tướng. Mỗi mỗi sắc tướng hiện trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số quang-minh-luân. Mỗi mỗi quang-minh-luân hiện trăm
muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hoa tỳ-lô-giá-na
ma-ni bửu. Mỗi mỗi hoa hiện trăm muôn ức na-do-tha- bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số đài. Mỗi mỗi đài hiện trăm muôn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đức Phật. Mỗi mỗi đức Phật hiện trăm
muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thần-biến. Mỗi mỗi
thần-biến tịnh trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
chúng-sanh. Trong mỗi loài chúng-sanh hiện trăm muôn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chư Phật tự-tại. Mỗi mỗi tự-tại rưới
trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số phật-pháp. Mỗi
mỗi phật-pháp có trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
tu-đa-la. Mỗi mỗi tu-đa-la thuyết trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số pháp-môn. Mỗi mỗi pháp-môn có trăm muôn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kim-cang trí, chỗ nhập pháp-luân
sai-biệt, ngôn từ riêng khác. Diễn thuyết mỗi mỗi pháp-luân thành-thục
trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chúng-sanh-giới.
Mỗi mỗi chúng-sanh-giới có trăm muôn ức na-do-tha bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số chúng-sanh, ở trong phật-pháp mà được điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thị-hiện cảnh-giới thần-thông
vô-lượng biến-hóa như vậy, đều biết như huyễn trọn không nhiễm trước. An
trụ trong vô-biên bất-khả-thuyết pháp-tự-tánh thanh-tịnh pháp-giới
thiệt-tướng Như-Lai chủng-tánh vô-ngại-tế, không đến không đi, chẳng sau
chẳng trước, rất sâu không đáy, hiện-lượng mà được, dùng trí tự vào chẳng
do người khác khai ngộ, tâm chẳng mê loạn cũng không phân-biệt. Ðược sự
khen ngợi của tam-thế chư Phật, lưu xuất từ phật-lực. Vào cảnh giới của
tất cả Phật, thể tánh như thiệt, tịnh-nhãn hiện chứng, huệ-nhãn thấy-khắp,
thành-tựu phật-nhãn, là đèn sáng của thế-gian. Ði nơi cảnh-giới sở-tri của
trí-nhãn. Hay rộng khai-thị pháp-môn vi-diệu, thành bồ-đề-tâm, đến thắng
trượng-phu. Không chướng ngại với tất cả cảnh-giới. Nhập chủng-tánh trí,
phát sanh các trí. Rời khỏi sanh-pháp thế-gian mà hiện thọ sanh,
thần-thông biến-hóa phương-tiện điều-phục. Tất cả như vậy đều thiện-xảo.
Công-đức, giải, nguyện đều thanh-tịnh, rất tột vi-diệu đầy đủ viên-mãn.
Trí-huệ quảng-đại như hư-không. Hay khéo quán-sát cảnh-giới của chư Thánh,
Tín, hạnh, nguyện, lực kiên-cố bất-động. Công-đức vô-tận được thế-gian
khen ngợi. Nơi tạng sở-quán của tất cả Phật, chỗ đại bồ-đề biển
nhứt-thiết-trí, nhóm các diệu-bửu làm bực-đại-trí. Dường như liên-hoa
tự-tánh thanh-tịnh. Chúng-sanh xem thấy thời đều vui mừng đều được lợi
ích. Trí-quang chiếu khắp thấy vô-lượng Phật. Tịnh tất cả pháp chỗ làm
tịch-tịnh. Nơi pháp chư Phật rốt ráo vô-ngại, hằng dùng phương-tiện trụ
Phật bồ-đề. Trong hạnh công-đức mà được xuất sanh đủ trí Bồ-Tát, làm thủ
Bồ-Tát, được sự chung hộ-niệm của tất cả chư Phật, được Phật oai-thần,
thành Phật pháp-thân, niệm lực khó nghĩ bàn. Nơi cảnh một duyên mà không
sở-duyên. Hạnh rộnh lớn vô-tướng vô-ngại, khắp cả pháp-giới vô-lượng
vô-biên. Bồ-đề được chứng dường như hư-không, chẳng có ngằn mé, không bị
phược-trước. Khắp làm lợi ích cho các thế-gian. Thiện-căn chảy vào biển
nhứt-thiết-trí. Ðều hay thông đạt vô-lượng cảnh-giới. Ðã khéo thành-tựu
pháp bố-thí thanh-tịnh. Trụ tâm Bồ-Tát, tịnh giống bồ-tát. Hay tùy thuận
sanh chư Phật bồ-đề. Nơi pháp chư Phật đều được thiện-xảo. Ðủ hạnh vi-diệu
thành sức kiên-cố. Oai-thần tự-tại của tất cả chư Phật, chúng-sanh khó
được nghe, Bồ-Tát đều biết, nhập môn bất-nhị, trụ-pháp vô-tướng. Dầu đã bỏ
hẳn các tướng mà hay thuyết rộng các pháp, tùy theo tâm chúng-sanh thích
muốn hiểu, đều làm cho họ điều-phục, đều làm cho họ hoan-hỉ. Pháp-giới làm
thân không phân-biệt, cảnh-giới trí-huệ chẳng thể cùng tận. Trí thường
dũng-mãnh, tâm hằng bình-đẳng. Thấy biên-tế công-đức của tất cả chư Phật.
Rõ sự sai biệt thứ đệ của tất cả kiếp. Khai thị tất cả pháp. An-trụ tất cả
cõi. Nghiêm-tịnh tất cả phật-độ. Hiển-hiện quang-minh của tất cả
chánh-pháp. Diễn sướng tam thế tất cả phật-pháp. Bầy chỗ sở-trụ của chư
Bồ-Tát. Là đèn sáng của thế-gian, sanh những thiện-căn, lìa hẳn thế-gian
thường sanh chỗ Phật, được Phật trí sáng suốt đệ-nhứt. Tất cả chư Phật đều
cùng nhiếp thọ, đã vào số chư Phật vị-lai. Từ các thiện-hữu mà được xuất
sanh, bao nhiêu trí cầu đều được quả-toại. Ðủ oai-đức lớn, trụ ý tăng
thượng. Tùy pháp đã nghe đều có thể khéo nói, cũng để khai-thị thiện-căn
nghe pháp, trụ thiệt-tế-luân, tâm không chướng ngại với tất cả pháp. Chẳng
bỏ các hạnh, lìa những phân biệt. Nơi tất cả pháp, tâm không động niệm.
Ðược sáng trí-huệ diệt trừ si tối, đều hay soi sáng tất cả phật-pháp.
Chẳng hoại các pháp mà sanh trong đó, rõ biết tất cả cảnh-giới các cõi, từ
nào đến giờ không có động tác, thân ngữ ý nghiệp thảy đều vô-biên. Dầu tùy
thế-tục diễn thuyết vô-lượng thứ văn tự, mà thường chẳng hư hoại pháp
ly-văn-tự, thâm nhập phật-hải, biết tất cả pháp chỉ có giả-danh, nơi các
cảnh giới không hệ-phược không-nhiễm-trước. Rõ tất cả pháp trống rỗng
không chỗ có. Những hạnh đã tu từ pháp-giới sanh, dường như hư-không chẳng
tướng chẳng hình. Thâm nhập pháp-giới tùy thuận diễn thuyết. Nơi nhứt-cảnh
môn sanh nhứt-thiết-trí. Quán bực thập-lực dùng trí tu học. Trí làm cầu đò
đến nhứt-thiết-trí. Dùng mắt trí-huệ thấy pháp vô-ngại. Khéo nhập các "
địa " biết các thứ nghĩa. Mỗi mỗi pháp-môn đều được minh-liễu, bao nhiêu
đại-nguyện đều được thành-tựu.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát dùng đây để khai-thị tánh vô-sai-biệt của tất cả
Như-Lai. Ðây là môn vô-ngại phương-tiện. Ðây có thể xuất sanh chúng-hội
Bồ-Tát. Pháp nầy chỉ là cảnh-giới tam-muội. Ðây có thể mạnh tiến vào
nhứt-thiết-trí. Ðây có thể khai hiển các môn tam-muội. Ðây có thể vào khắp
các cõi vô-ngại. Ðây có thể điều-phục tất cả chúng-sanh. Ðây có thể trụ
nơi vô-chúng-sanh-tế. Ðây có thể khai-thị tất cả phật-pháp. Ðây nơi
cảnh-giới đều vô-sở-đắc. Dầu tất cả thời diễn thuyết khai-thị mà hằng xa
lìa vọng-tưởng phân-biệt. Dầu biết các pháp đều vô-tác mà có thể thị-hiện
tất cả tác-nghiệp. Dầu biết chư Phật không có hai tướng mà có thể hiển thị
tất cả chư Phật. Dầu biết không sắc mà diễn thuyết các sắc. Dầu biết không
thọ, tưởng, hành, thức, mà diễn thuyết các thọ, tưởng, hành, thức. Hằng
dùng pháp-luân khai-thị tất cả. Dầu biết pháp vô-sanh mà thường chuyển
pháp-luân. Dầu biết pháp vô-sai-biệt mà thuyết các môn sai-biệt. Dầu biết
các pháp không có sanh diệt mà thuyết tất cả tướng sanh diệt. Dầu biết các
pháp không thô không tế mà thuyết tướng thô tế của các pháp. Dầu biết các
pháp không thượng trung hạ mà hay tuyên thuyết pháp tối-thượng. Dầu biết
các pháp không thể ngôn thuyết mà hay diễn thuyết ngôn từ thanh-tịnh. Dầu
biết các pháp không nội không ngoại mà nói tất cả những pháp nội ngoại.
Dầu biết các pháp chẳng thể liễu tri mà nói các thứ tri-huệ quán-sát. Dầu
biết các pháp không có chơn-thiệt mà nói đạo xuất-ly chơn-thiệt. Dầu biết
các pháp rốt ráo vô-tận mà hay diễn thuyết tận diệt hữu-lậu. Dầu biết
vô-vi vô-tránh nhưng cũng chẳng không tự tha sai-biệt. Dầu biết các pháp
rốt ráo vô-sư mà thường tôn kính tất cả sư-trưởng. Dầu biết các pháp chẳng
do nơi khác mà tỏ ngộ nhưng thường tôn kính các thiện-tri-thức. Dầu biết
các pháp không chuyển mà chuyển pháp-luân. Dầu biết các pháp vô-khởi mà
hiển-thị các nhân-duyên. Dầu biết các pháp không tiền-tế mà nói rộng về
vị-lai. Dầu biết các pháp không có trung-tế mà nóí rộng về hiện-tại. Dầu
biết các pháp không có tác-giả mà nói các tác-nghiệp. Dầu biết các pháp
không có nhân-duyên mà nóí những tập-nhơn. Dầu biết các pháp không có
đẳng-tỷ mà nói đạo bình-đẳng bất-bình-đẳng. Dầu biết các pháp không có
ngôn thuyết mà quyết-định nói pháp tam-thế. Dầu biết các pháp không có
sở-y nhưnh nói y-tựa pháp lành mà được xuất ly. Dầu biết pháp không thân
hình mà nói rộng về pháp-thân. Dầu biết tam-thế chư Phật vô-biên mà hay
diễn thuyết chỉ có một đức Phật. Dầu biết pháp vô-sắc mà hiện các thứ sắc.
Dầu biết pháp vô-kiến mà nói rộng các kiến. Dầu biết pháp vô-tướng mà nói
các thứ tướng. Dầu biết pháp không có cảnh-giới mà nói rộng cảnh-giơi
trí-huệ. Dầu biết các pháp không có sai biệt mà nói hành quả các thứ sai
biệt. Dầu biết các pháp không có xuất ly mà nói những hạnh xuất ly
thanh-tịnh. Dầu biết các pháp bổn-lai thường-trụ mà nói tất cả những pháp
lưu chuyển. Dẫu biết các pháp không có chiếu minh mà hằng nói rộng pháp
chiếu minh.
Chư Phật ! Ðại Bồ-Tát nhập đại-oai-đức-tam-muội trí-luân như vậy, thời có
thể chứng được tất cả phật-pháp, thời có thể xu nhập tất cả phật-pháp.
Thời có thể thành-tựu, có thể viên-mãn, có thể tích tập, có thể
thanh-tịnh, có thể an-trụ, có thể liễu-đạt, cùng tất cả pháp tự-tánh
tương-ưng. Mà đại Bồ-Tát nầy chẳng nghĩ rằng có bao nhiêu Bồ-Tát, bao
nhiêu pháp Bồ-Tát, bao nhiêu Bồ-Tát rốt ráo, bao nhiêu huyễn rốt ráo, bao
nhiêu hóa rốt ráo, bao nhiêu thần-thông thành-tựu, bao nhiêu trí thành
tựu, bao nhiêu tư-duy, bao nhiêu chứng nhập, bao nhiêu xu-hướng, nhẫn đến
chẳng nghĩ rằng có bao nhiêu cảnh-giới.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát tam-muội thể tánh như vậy, vô-biên như vậy,
thù-thắng như vậy.
Tam-muội này có các thứ cảnh-giới, các thứ oai-lực, các thứ thâm nhập.
Những là nhập bất-khả-thuyết trí-môn, nhập các trang-nghiêm ly phân-biệt,
nhập vô-biên ba-la-mật thù-thắng, nhập vô-số thiền-định, nhập trăm ngàn ức
na-do-tha bất-khả-thuyết trí quảng đại, nhập thấy vô-biên tạng thắng-diệu
của chư Phật, nhập nơi cảnh-giới tâm vô-ngại, nhập trí-nhãn thấy tất cả
Phật bình-đẳng, nhập chứa nhóm chí hạnh thù-thắng của Phổ-Hiền, nhập trụ
nơi trí-thân vi-diệu na-la-diên, nhập thuyết biển trí-huệ của Như-Lai,
nhập khởi vô-lượng thứ thần-biến tự-tại, nhập sanh trí-môn vô-tận của tất
cả Phật, nhập trụ cảnh-giới hiện-tiền của tất cả chư Phật, nhập tịnh trí
tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nhập khai-thị vô-tỷ trí phổ-môn, nhập khắp
biết tất cả cảnh-giới vi-tế, nhập khắp hiện pháp-giới tất cả cảnh-giới
vi-tế, nhập tất cả trí quang-minh thù thắng, nhập tất cả biên-tế tự-tại,
nhập tất cả biên-tế pháp-môn biện-tài, nhập thân trí-huệ khắp pháp-giới,
nhập thành-tựu đạo đi khắp tất cả chỗ, nhập khéo trụ tất cả tam-muội
sai-biệt, nhập tâm biết tất cả chư Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy trụ hạnh Phổ-Hiền mỗi niệm nhập trăm ức
bất-khả-thuyết tam-muội nhưng chẳng thấy tam-muội của Phổ-hiền Bồ-Tát và
quá-khứ trang-nghiêm của Phật cảnh-giới.
Tại sao vậy ? Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô-tận. Vì biết tất cả phật-độ
vô-biên. Vì biết tất cả chúng-sanh-giới
bất-tư-nghì. Vì biết tiền tế vô-thỉ. Vì biết vị-lai vô-cùng. Vì biết
hiện-tại tận hư-không khắp pháp-giới vô-biên. Vì biết cảnh-giới của tất cả
chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì biết tất cả hạnh Bồ-Tát vô-số. Vì biết
cảnh-giới do biện-tài của tất cả Phật nói ra là bất-khả-thuyết vô-biên. Vì
biết tất cả pháp sở-duyên của huyễn-tâm là vô-lượng.
Chư Phật-tử ! Ví như châu như-ý, theo chỗ cầu tất cả đều được, người cầu
vô-tận ý đều đầy đủ, mà thế-lực thù-thắng của bửu-châu trọng không thôi
không thiếụ
Cũng vậy, đại Bồ-Tát nhập tam-muội nầy biết tâm như huyễn, xuất sanh tất
cả cảnh-giới của các pháp, cùng khắp vô-tận chẳng thôi chẳng thiếu.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát thành-tựu hạnh trí vô-ngại của Phổ-Hiền,
quán-sát vô-lượng huyễn-cảnh quảng-đại, dường như bóng tượng không tăng
giảm.
Chư Phật-tử ! Ví như phàm-phu đều sanh tâm riêng khác, đã sẽ và đương
sanh, không có biên-tế không dứt không hết, tâm họ lưu chuyển tiếp nối
không dứt, chẳng thể nghĩ bàn.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát vào nơi tam-muội phổ-huyễn-môn nầy, không có biên-tế,
chẳng thể đo lường.
Tại sao vậy ? Vì liễu đạt vô-lượng pháp, phổ-huyễn-môn của Phổ-Hiền
Bồ-Tát.
Chư Phật tử ! Ví như chư Long-Vương : Nan-Ðà, Bạt-Nan-Ðà, Ma-Na-Tư và chư
đại Long-Vương lúc làm mưa, giọt nước mưa lớn như trục bánh xe không có
biên-tế. Dầu làm mưa như vậy mà mây chọn chẳng hết. Ðây là cảnh-giới
vô-tác của Long-Vương.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội nầy, nhập các môn tam-muội của
Phổ-Hiền Bồ-Tát và các trí-môn, pháp-môn, môn thấy chư Phật, môn qua các
phương, môn tâm tự-tại, môn da-trì, môn thần-biến, môn thần-thông, môn
huyễn-hóa, môn các pháp như huyễn, môn bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư
Bồ-Tát đầy khắp, môn thân cận bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số Như-Lai chánh-giác, môn nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết lưới
huyễn quảng-đại, môn biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh tưởng,
môn biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thời kiếp sai biệt, môn biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới thành hoại, môn biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết các phật-sát ở úp ở ngửa. Trong khoảng một niệm đều biết
như thật.
Lúc nhập như vậy, không biên tế không cùng tận chẳng nhọc chẳng nhàm,
chẳng nghỉ chẳng dứt, không hư không mất. Ở trong các pháp chẳng trụ
phi-xứ, hằng chánh tư-duy, chẳng trầm chẳng cử. Cầu nhứt-thiết-trí thường
chẳng thôi bỏ. Làm đèn soi sáng thế-gian cho tất cả cõi Phật. Chuyển
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết pháp-luân. Dùng diệu biện-tài han hỏi
Như-Lai không lúc nào cùng tận. Thị-hiện thành phật-đạo không có biên-tế.
Ðiều-phục chúng-sanh hằng không phế bỏ. Thường siêng tu tập hạnh nguyện
Phổ-Hiền chưa từng thôi nghỉ. Thị hiện vô-lượng bất-khả-thuyết
bất-kả-thuyết thân sắc tướng không có đoạn dứt.
Ví
như đốt lửa, theo duyên đã có, trong thời gian đó lửa cháy không tắt.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát quán-sát chúng-sanh-giới, pháp-giới, thế-giới dường
như hư-không chẳng có biên-tế. Nhẫn đến có thể trong khoảng một niệm qua
đến bất khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chỗ của Phật. Mỗi
mỗi chỗ của Phật, nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết nhứt-thiết-trí các
loại pháp sai-biệt, khiến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh-giới
xuất-gia làm đạo siêng tu thiện-căn rốt-ráo thanh-tịnh. Khiến
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết Bồ-Tát nơi hạnh nguyện Phổ-Hiền, người chưa
quyết định thời được quyết-định. An-trụ nơi môn trí-huệ của Phổ-Hiền. Dùng
vô-lượng phương-tiện nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tam-thế kiếp
quảng-đại : thành-trụ và hoại. Nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết cảnh-giới
thành , trụ, hoại sai-biệt của thế-gian, sanh ngần ấy đại-bi đại-nguyện
điều-phục vô-lượng chúng-sanh không để sót.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát nầy muốn độ thoát tất cả chúng-sanh mà tu hạnh
Phổ-Hiền, sanh trí Phổ-Hiền, đầy đủ hạnh nguyện của Phổ-Hiền.
Vì
thế nên Bồ-Tát phải ở nơi chủng loại như vậy, cảng-giới như vậy, oai-đức
như vậy, quảng-đại như vậy, vô-lượng như vậy, bất-tư-nghì như vậy, môn
phổ-chiếu như vậy, trụ ở trước tất cả chư Phật như vậy, được tất cả
Như-Lai hộ niệm như vậy, thành-tựu thiện-căn thuở trước như vậy, tâm
vô-ngại bất động như vậy.
Trong tam-muội siêng-năng tu tập, rời các nhiệt-não, không nhàm mỏi, tâm
chẳng thối chuyển, lập chí nguyện sâu, dũng mãnh chẳng khiếp, thuận
cảnh-giới tam-muội, nhập trí-địa nan-tư, chẳng y văn-tự, chẳng nhiễm
thế-gian, chẳng lấy các pháp, chẳng khởi phân-biệt, chẳng nhiễm trước
thế-sự, chẳng phân-biệt cảnh-giới. Nơi các pháp trí chỉ nên an trụ mà
chẳng nên so lường. Nghĩa là gần-gũi nhứt-thiết-trí, ngộ hiểu Phật bồ-đề,
thành tựu pháp quang-minh, ban bố thiện-căn cho tất cả chúng-sanh, ở trong
ma-giới cứu vớt chúng-sanh cho họ được vào cảnh-giới phật-pháp, khiến
chẳng bỏ đại-nguyện, siêng quán-sát đạo xuất-ly, thêm rộng cảnh
thanh-tịnh, thành-tựu các độ. Với tất cả Phật sanh tín giải sâu, thường
phải quán-sát tất cả pháp-tánh không lúc nào tạm bỏ. Phải biết tự thân
cùng các pháp-tánh đều khắp bình-đẳng. Phải nên hiểu rõ chỗ làm của
thế-gian, chỉ bày trí-huệ phương-tiện đúng pháp. Phải thường tinh-tấn
không thôi nghỉ. Phải quán tự-thân thiện-căn kém ít. Phải siêng làm thêm
lớn căn lành cho người. Phải tự tu hành đạo nhứt-thiết-trí. Phải siêng
tăng trưởng cảnh-giới Bồ-Tát.Phải thích gần-gũi các thiện-tri-thức. Phải
đồng hành mà nương ở với thiện-tri-thức. Phải chẳng phân-biệt Phật. Phải
chẳng rời bỏ chánh-niệm. Phải thường an-trụ pháp-giới bình-đẳng. Phải biết
tất cả tâm thức như huyễn. Phải biết các hạnh thế-gian như mộng. Phải biết
chư Phật nguyện-lực xuất hiện như bóng tượng. Phải biết tất cả những
nghiệp rộng lớn dường như biến hóa. Phải biết ngôn ngữ đều như vang. Phải
quán tất cả pháp như huyễn. Phải biết tất cả pháp sanh-diệt đều như
âm-thanh. Phải biết tất cả cõi Phật đã trải qua đều không thể tánh. Phải
vì chúng-sanh thỉnh hỏi chánh-pháp nơi Như-Lai không biết mỏi mệt. Phải vì
khai ngộ tất cả thế-gian nên siêng năng giáo hối chẳng rời bỏ. Phải vì
điều-phục tất cả chúng-sanh biết thời nghi thuyết pháp mà chẳng thôi nghỉ.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát tu hành hạnh Phổ-Hiền như vậy, viên-mãn cảnh-giới
Bồ-Tát như vậy, đạo thần-thông xuất ly như vậy, thọ trì tam thế phật-pháp
như vậy, quán sát tất cả trí-môn như vậy, tư duy pháp chẳng biến đổi như
vậy, sáng sạch trí nguyện tăng thượng như vậy, tín giải tất cả Như-Lai như
vậy, rõ biết thần-lực rộng lớn của Phật như vậy, quyết định tâm vô-ngại
như vậy, nhiếp thọ tất cả chúng sanh như vậy.
Chư Phậy-tử ! Ðại Bồ-Tát lúc nhập đại trí-huệ tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát
an-trụ như vậy, mười phương đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết cõi nước,
mỗi mỗi cõi nước đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
danh hiệu Như-Lai. Mỗi mỗi danh-hiệu đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số chư Phật hiện ra trước Bồ-Tát nầy ban cho niệm-lực
Như-lai, khiến chẳng quên mất cảmh-giới Như-Lai. Ban cho huệ tất cả pháp
rốt ráo khiến nhập nhứt-thiết-trí. Ban cho huệ biết tất cả pháp các thứ
nghĩa quyết định khiến thọ trì tất cả phật-pháp xu nhập vô-ngại. Ban cho
Phật bồ-đề vô-thượng khiến nhập nhứt-thiết-trí khai ngộ pháp-giới. Ban cho
Bồ-Tát cứu cánh huệ khiến được quang-minh của nhứt-thiết pháp, không còn
tối tăm. Ban cho Bồ-Tát bất-thối-trí khiến biết thời phi-thời, phương-tiện
thiện-xảo điều-phục chúng-sanh. Ban cho Bồ-tát biện-tài vô-ngại khiến tỏ
ngộ vô-biên pháp diễn thuyết vô-tận. Ban cho sức thần-thông biến-hóa khiến
hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thân sai biệt, vô-biên sắc-tướng chủng
loại chẳng đồng, khai ngộ chúng-sanh. Ban cho ngôn âm viên-mãn khiến hiện
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết âm-thanh sai biệt các thứ ngôn từ khai ngộ
chúng-sanh. Ban cho sức chẳng luống bỏ, khiến tất cả chúng-sanh nếu được
thấy hình, hoặc được nghe pháp, đều được thành-tựu không luống bỏ qua.
Chư Phật-tử ! Vì đại Bồ-Tát đầy đủ hạnh Phổ-Hiền như vậy nên được
phật-lực, thanh-tịnh đạo xuất ly, đủ nhứt-thiết-trí. Dùng biện-tài vô-ngại
thần-thông biến-hóa rốt ráo điều-phục tất cả chúng-sanh, đủ oai đức của
Phật, tịnh hạnh Phổ-Hiền, trụ đạo Phổ-Hiền tột vị-lai-tế. Vì muốn
điều-phục tất cả chúng-sanh nên chuyển tất cả pháp-luân vi-diệu của Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy thành-tựu đại nguyện thù-thắng các hạnh
Bồ-Tát như vậy, thời là pháp-sư của tất cả thế-gian, thời là pháp-nhựt của
tất cả thế-gian, thời là núi Tu-Di của tất cả thế-gian vòi vọi cao lớn
kiên cố bất-động, thời là biển trí không bờ của tất cả thế-gian, thời là
đèn sáng chánh-pháp của tất cả thế-gian chiếu khắp vô-biên tiếp nối không
dứt, vì tất cả chúng-sanh khai thị vô-biên công-đức thanh-tịnh, đề khiến
an trụ công-đức thiện-căn, thuận nhứt-thiết-trí đại-nguyện bình-đẳng, tu
tập hạnh rộng lớn của Phổ-Hiền, thường hay khuyến phát vô-lượng chúng-sanh
trụ bất-khả-thuyết bất-khả-thiuyết tam-muội quảng-đại hạnh, hiện đại
tự-tại.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy được trí như vậy, chứng pháp như vậy. Nơi
pháp như vậy suy gẫm an trụ thấy rõ. Ðược thần-lực như vậy, trụ cảnh-giới
như vậy, hiện thần-biến như vậy, khởi thần-thông như vậy. Thường an trụ
đại bi thường lợi ích chúng-sanh, khai thị chánh-đạo an ổn cho chúng-sanh.
Kiến lập tràng đại quang-minh phước trí. Chứng bất-tư-nghì giải-thóat. Trụ
nhứt-thiết-trí giải-thoát. Ðến bỉ ngạn giải-thoát của Phật. Học xong môn
phương-tiện giải-thoát bất-tư-nghì, được thành-tựu môn nhập pháp-giới
sai-biệt không có lầm loạn. Du-hí tự-tại nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
tam-muội của Phổ-Hiền. Trụ trí sư-tử phấn-tấn tâm ý vô-ngại.
Tâm Bồ-Tát nầy hằng trụ mười pháp-tạng lớn. Những là trụ ghi nhớ tất cả
Phật. Trụ ghi nhớ tất cả phật-pháp. Trụ đại bi điều-phục tất cả
chúng-sanh. Trụ trí thị-hiện bất-tư-nghì cõi nước thanh-tịnh. Trụ trí
quyết định thâm nhập cảnh-giới của chư Phật. Trụ bồ-đề tướng bìng-đẳng của
tam-thế chư Phật. Trụ biên tế vô-trước vô-ngại. Trụ tất cả pháp không
tướng tánh. Trụ thiện căn bình đẳng của tam-thế tất cả chư Phật. Trụ trí
tiên-đạo thân ngữ ý pháp-giới vô-sai-biệt của tam-thế tất cả chư Phật :
thọ sanh, xuất gia, đến đạo-tràng, thành chánh giác, chuyển pháp-luân,
nhập niết-bàn, đều vào sát-na-tế.
Chư Phật-tử ! Mười đại-pháp-tạng nầy rộng lớn vô-lượng, bất-khả-sổ,
bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Tất
cả thế-trí không xưng thuật hết được.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy đã đến bỉ ngạn Phổ-Hiền hạnh, chứng pháp
thanh-tịnh, chí lực quảng-đại, khai-thị vô-lượng thiện-căn cho chúng-sanh,
tăng trưởng tất cả thế-lực của Bồ-Tát. Nơi khoảng mỗi niệm đầy đủ tất cả
công đức của Bồ-Tát. Thành-tựu tất cả hạnh Bồ-Tát. Ðược pháp đà-la-ni của
tất cả Phật. Thọ trì tất cả sở-thuyết của chư Phật. Dầu thường an-trụ
chơn-như thiệt-tế, mà tuỳ tất cả ngôn thuyết thế-tục, thị hiện điều-phục
tất cả chúng-sanh.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thời theo pháp là như vậy.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát dùng tam-muội nầy được trí quảng-đại của tất cả
chư Phật. được biện-tài tự-tại khéo nói tất cả pháp quảng-đại. Ðược pháp
vô-úy thanh-tịnh rất là thù-thắng trong tất cả thế-gian. Ðược trí nhập tất
cả tam-muội. Ðược phương-tiện thiện-xảo của tất cả Bồ-Tát. Ðược tất cả
pháp quang-minh môn. Ðến bỉ-ngạn pháp an-ủy tất cả thế-gian. Biết tất cả
chúng-sanh thời, phi-thời. Chiếu tất cả chỗ mười phương thế-giới. Khiến
tất cả chúng-sanh được thắng-trí. Làm bực thầy vô-thượng của tất cả
thế-gian. An-trụ tất cả các công-đức. Khai thị tam-muội thanh-tịnh cho tất
cả chúng-sanh, khiến nhập trí vô-thượng.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát tu hành như vậy thời lợi ích chúng-sanh, thời
thêm lớn đại-bi, thời thân cận thiện-tri-thức, thời thấy tất cả Phật, thời
rõ tất cả pháp, thời đến tất cả cõi, thời nhập tất cả phương, thời nhập
tất cả thế, thời ngộ tánh bình-đẳng của tất cả Phật, thời biết tánh
bình-đẳng của tất cả Phật, thời trụ tánh bình-đẳng nhứt-thiết-trí. Ở trong
pháp nầy làm công-hạnh như vậy, chẳng làm công-hạnh khác. Trụ nơi tâm chưa
đủ, trụ nơi tâm chẳng tán loạn, trụ nơi tâm chuyển nhứt, trụ nơi tâm
siêng tu, trụ nơi tâm quyết định, trụ nơi tâm chẳng đổi khác, tư duy như
vậy, tác nghiệp như vậy, cứu cánh như vậy.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ-Tát không dị-ngữ dị-tác, có như-ngữ như-tác.
Ví
như kim-cang, do không bị hư-hoại nên được tên là kim-cang, trọn không lúc
nào rời lìa bất-hoại.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do những hành pháp mà được tên là Bồ-Tát, trọn không
lúc nào rời các hành-pháp.
Ví
như chơn-kim, bởi có diệu-sắc mà được tên, trọn không lúc nào rời những
thiện-nghiệp.
Ví
như mặt nhựt, do vầng sáng chói mà được tên, trọn không lúc nào rời sáng
chói.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do trí-huệ quang mà được tên, trọn không lúc nào rời
trí-huệ-quang.
Như núi Tu-Di do bốn ngọn núi báu ở nơi đại-hải cao vọi đồ sộ mà được tên,
trọn không lúc nào rời lìa bốn ngọn núi báu.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do các thiện-căn ở tại thế-gian vượt cao hơn cả mà
được tên, trọn không lúc nào bỏ rời thiện-căn.
Ví
như đại-địa do giữ lấy tất cả mà được tên, trọn không lúc nào bỏ rời
công-năng giữ lấy.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do độ tất cả mà được tên, trọn không lúc nào bỏ rời
đại-bi.
Ví
như đại-hải do chứa các dòng nước mà được tên , trọn không lúc nào bỏ rời
nước.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do những đại-nguyện mà được tên, trọn không tạm bỏ
nguyện độ chúng-sanh.
Như tướng-quân do giỏi quen tập phương-pháp chiến đấu mà được tên, trọn
không lúc nào bỏ rời công-năng nầy.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát do hay quen tập tam-muội như vậy mà được tên, nhẫn
đến thành-tựu nhứt-thiết-trí, trọn không lúc nào bỏ rời hạnh nầy.
Như vua chuyển-luân ngự trị tứ thiên-hạ, thường siêng săn sóc muôn dân
không cho hoạnh tử, hằng được sung sướng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát nhập những đại tam-muội nầy thường siêng hóa độ tất
cả chúng-sanh, nhẫn đến khiến họ rốt ráo thanh-tịnh.
Ví
như gieo hột giống xuống đất, nhẫn đến tăng trưởng cành lá.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát tu hạnh Phổ-Hiền, nhẫn đến có thể làm cho tất cả
chúng-sanh thêm lớn pháp lành.
Ví
như mây lớn, trong mùa hạ nóng nực,tuôn mưa lớn, nhẫn đến tăng trưởng tất
cả hột giống.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát vào những đại tam-muội như vậy tu hạnh Bồ-Tát tuôn
pháp-vũ lớn, nhẫn đến làm cho chúng-sanh rốt ráo thanh-tịnh, rốt-ráo
niết-bàn, rốt-ráo an-ổn, rốt-ráo bỉ-ngạn, rốt-ráo hoan-hỉ, rốt-ráo dứt
nghỉ. Làm phước-điền rốt-ráo cho chúng-sanh, khiến công-hạnh bố-thí của họ
đều được thanh-tịnh. Khiến họ đều an-trụ đạo bất-thối-chuyển. Khiến họ
đồng được nhứt-thiết-trí. Khiến họ đều được xuất ly tam-giới. Khiến họ đều
được trí rốt ráo. Khiến họ đều được pháp rốt ráo của chư Phật. Ðặt để
chúng-sanh nơi nhứt-thiết-trí.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ-Tát thành-tựu pháp nầy trí-huệ sáng suốt nhập
pháp-giới-môn, hay tịnh tu vô-lượng hạnh bất-tư-nghì của Bồ-tát.
Những là hay các trí, vì cầu nhứt-thiết-trí. Hay tịnh chúng-sanh, vì khiến
họ điều-phục. Hay tịnh cõi nước, vì thường hồi-hướng. Hay tịnh các pháp vì
khắp rõ biết. Hay tịnh đức vô-úy, vì không khiếp nhược. Hay tịnh tứ
vô-ngại-biện, vì khéo diễn thuyết. Hay tịnh đà-la-ni, vì được tự-tại với
tất cả pháp. Hay tịnh hạnh thân-cận, vì thường thấy tất cả Phật xuất-thế.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy, được trăm ngàn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công-đức thanh-tịnh như vậy.
Vì
nơi của các cảnh-giới của các tam-muội như vậy được tự-tại. Vì được tất cả
Phật gia-hộ. Vì sức thiện-căn của mình lưu xuất. Vì nhập oai-đức lớn của
bực đại-trí-huệ. Vì sức dẫn đạo của các thiện-tri-thức. Vì tồi phục tất cả
các ma lực. Vì sức đồng phận thiện-căn thuần thanh-tịnh. Vì sức thệ nguyện
rộng lớn. Vì sức trồng thiện-căn thành-tựu. Vì sức vô-đối của phước vô-tận
siêu thế-gian.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy thời được mười pháp đồng tam-thế
chư Phật.
Những là được các tướng hảo trang-nghiêm đồng với chư Phật. Hay phóng đại
quang-minh thanh-tịnh đồng với chư Phật. Thần-thông biến-hóa điều-phục
chúng-sanh đồng với chư Phật. Sắc thân vô-biên, thanh-âm thanh-tịnh đồng
với chư Phật. Tùy chúng-sanh nghiệp mà hiện tịnh cõi Phật đồng với chư
Phật. Bao ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh đều có thể nhiếp-trì chẳng quên
chẳng mất đồng với chư Phật. Biện-tài vô-tận tùy tâm chúng-sanh mà chuyển
pháp-luân cho họ sanh trí-huệ đồng với chư Phật. Ðại sư-tử hống không
khiếp sợ, dùng vô-lượng pháp khai ngộ chúng-sanh đồng với chư Phật. Trong
khoảng một niệm dùng đại thần-thông vào khắp tam-thế đồng với chư Phật.
Hay khắp khai thị cho tất cả chúng-sanh : chư Phật trang-nghiêm, chư Phật
oai-lực, chư Phật cảnh-giới đồng với chư Phật.
Bấy giờ Phổ-Nhãn Bồ-Tát bạch Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng: "Thưa Phật-tử ! Ðại
Bồ-Tát nầy được pháp như vậy đồng với chư Phật, sao lại chẳng gọi là Phật
? ". Cớ sao chẳng gọi là thập-lực ? Cớ sao chẳng gọi là mhứt-thiết-trí Cớ
sao chẳng gọi là bực chứng bồ-đề trong tất cả pháp. Cớ sao chẳng được gọi
là phổ-nhãn ? Cớ sao chẳng gọi là bực thấy vô-ngại trong tất cả cảnh ? Cớ
sao chẳng gọi là giác tất cả pháp ? Cớ sao chẳng gọi là bực cùng tam-thế
chư Phật ở một chỗ ? Cớ sao chẳng gọi là bực trụ thiệt-tế? Cớ sao tu hạnh
nguyện Phổ-Hiền vẫn chưa thôi nghỉ ? Cớ sao chẳng có thể rốt ráo pháp-giới
bỏ đạo Bồ-Tát ? "
Phổ-Hiền Bồ-Tát nói : " Lành thay Phật-tử ! Ðúng như lời ngài nói : Nếu
đại Bồ-Tát nầy đồng với chư Phật, thời do nghĩa gì mà chẳng gọi là Phật,
nhẫn đến chẳng bỏ đạo Bồ-Tát ?
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy đã có thể tu tập các hạnh-nguyện của tam-thế
chư Bồ-Tát nhập trí-cảnh-giới thời gọi là Phật. Ở chỗ Như-Lai tu hạnh
Bồ-Tát chẳng thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Các trí-lực của Như-Lai đều đã
nhập thời gọi là bực Thập-Lực. Dầu thành thập-lực mà hành Phổ-Hiền hạnh
không thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Biết tất cả pháp mà hay diễn thuyết
thời gọi là nhứt-thiết-trí. Dầu có thể diễn nói tất cả pháp, nơi mỗi mỗi
pháp thiện xảo tư-duy chưa từng thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Biết tất cả
pháp không có hai tướng thời gọi là ngộ tất cả pháp. Nơi đạo sai biệt nhị
bất-nhị của tất cả pháp thiện-xảo quán-sát, lần lượt tăng thắng không có
thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Ðã hay thấy cảnh-giới Phổ-Nhãn thời gọi là
Phổ-Nhãn. Dầu hay chứng được cảnh-giới Phổ-Nhãn niệm niệm tăng trưởng chưa
từng thôi nghỉ thời gọi là Bồ-Tát. Nơi các pháp đều hay soi sáng rời
chướng-ngại thời gọi là vô-ngại-kiến. Thường siêng ghi nhớ vô-ngại-kiến
thời gọi là Bồ-Tát. Ðã được mắt trí-huệ của chư Phật thời gọi là giác ngộ
tất cả pháp. Quán trí-nhãn chánh-giác của Như-Lai mà chẳng buông lung thời
gọi là Bồ-Tát. Trụ chỗ của Phật trụ cùng Phật không hai thời gọi là cùng
Phật không trụ hai chỗ. Ðược Phật nhiếp thọ tu các trí-huệ thời gọi là
Bồ-Tát. Thường quán thiệt-tế của tất cả thế-gian thời gọi là bực trụ
thiệt-tế. Dầu thường quán sát thiệt-tế của các pháp mà chẳng chứng nhập
cũng chẳng bỏ rời thời gọi là Bồ-Tát. Chẳng đến chẳng đi, không đồng không
dị, những phân biệt nầy thảy đều dứt hẳn thời gọi là bực hưu-tức-nguyện.
Tu tập quảng-đại viên-mãn bất-thối thời gọi là bực chưa hưu-tức Phổ-Hiền
nguyện. Biết rõ pháp-giới không có biên-tế, tất cả các pháp nhứt tướng vô
tướng thời gọi là bực rốt ráo pháp giới rời bỏ đạo Bồ-Tát. Dầu biết pháp
giới không biên-tế mà biết các thứ dị-tướng khởi tâm đại-bi độ các chúng
sanh tột thuở vị lai không nhàm mỏi thời gọi là Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Ví như Y-La-Bát-Na tượng-vương ở núi Kim-Hiếp trong hang
thất-bửu. Chư vị hang đó đều dùng thất-bửu làm lan-can. Cây đa-la báu
thành hàng ngay thẳng. Mành lưới chơn-kim giăng che trên đó. Thân voi
trắng sạch dường như ngọc kha-tuyết. Trên dựng tràng vàng, anh-lạc bằng
vàng, lưới báu tùm vòi, linh báu thòng xuống, bảy chi thành-tựu, đủ sáu
ngà, đoan chánh toàn vẹn, ai thấy cũng mến thích, tâm tánh đều thiện không
hề hung trái.
Nếu Thiên-Ðế muốn du hành, tượng-vương liền biết ý, ẩn hình nơi hang báu
mà hiện ra nơi trời Ðao-Lợi trước Thiên-Ðế. Tượng-Vương dùng thần-thông
biến hóa ra ba mươi ba đầu. Nơi mỗi đầu hóa ra bảy ngà. Nơi mỗi ngà hóa
làm bảy ao. Trong mỗi ao có bảy hoa sen. Trên mỗi hoa sen có bảy thiên-nữ
đồng thời hòa tấu trăm ngàn thiên-nhạc.
Bây giờ Thiên-Ðế ngự trên tượng-vương từ điện Nan-Thắng qua đến hoa viên
đầy bông sen.
Khi đã đến hoa-viên, Thiên-Ðế xuống voi vào điện Nhứt-Thiết-Bửu
Trang-Nghiêm, Vô-lượng Thiên-nữ theo hầu ca ngâm đàn múa, hưởng thọ khoái
lạc.
Bấy giờ tượng-vương lại dùng thần-thông ẩn hình voi, hiện thân thiên-tử
cùng tam-thập-tam thiên và các thiên-nữ ở trong vườn bạch liên-hoa vui
chơi. Thân hình hiện ra cũng sáng chói xinh đẹp y-phục trang-nghiêm đồng
như các thiên-tử khác. Không ai phân-biệt được là voi, là thiên-tử. Voi và
thiên-tử giống hệt nhau.
Tượng-Vương Y-La-Bát-Na nơi hang thất-bửu trong núi Kim-Hiếp không có
biến-hóa. Khi đến trên trời Ðao-Lợi, vì cúng-dường Thiên-Ðế mà hóa ra
những sự trang nghiêm và hưởng sự khoái lạc như chư thiên-tử.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát tu tập hạnh nguyện Phổ-Hiền và các môn tam-muội dùng
làm những đồ báu trang-nghiêm. Bảy phần bồ-đề là thân của Bồ-Tát.
Quang-minh phóng ra dùng làm lưới báu. Dựng tràng đại-pháp. Gióng chung
đại-pháp. Ðại-bi làm hang. Ðại nguyện kiên-cố dùng làm ngà. Trí-huệ vô-úy
dường như sư-tử. Lụa pháp bịt trán. Khai-thị bí-mật đến bỉ-ngạn những
hạnh-nguyện Bồ-Tát. Vì muốn ngồi an nơi tòa bồ-đề thành nhứt-thiết-trí
được vô-thượng chánh-giác, tăng trưởng Phổ-Hiền hạnh nguyện quảng đại,
chẳng thối chẳng nghỉ chẳng dứt chẳng bỏ. Ðại-bi tinh-tấn tột thuở vị-lai,
độ thoát tất cả chúng-sanh khổ-não, chẳng bỏ đạo Phổ-Hiền, hiện thành
chánh-giác. Hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết môn thành chánh-giác. Hiện
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết môn chuyển pháp-luân. Hiện bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết môn trụ thâm-tâm. Nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quốc-độ
quảng-đại hiện môn niết-bàn biến-hóa. Nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
thế-giới sai-biệt mà hiện thọ sanh, tu hạnh Phổ-Hiền. Hiện bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết Như-Lai, nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quốc-độ
quảng-đại dưới cội Bồ-Ðề thành vô-thượng chánh-giác. Bất-khả-thuyết.
Bất-khả-thuyết chúng Bồ-Tát gần-gũi vây quanh. Hoặc trong khoảng một niệm
tu hạnh Phổ-Hiền mà thành chánh-giác. Hoặc trong giây lát, hoặc một giờ,
một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc một năm hoặc vô-số năm, hoặc một
kiếp. nhẫn đến hoặc bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp, tu hạnh Phổ-Hiền
mà thành chánh-giác. Lại nơi trong tất cả cõi Phật mà làm thượng-thủ, gần
gũi chư Phật đảnh lễ cúng-dường, thỉnh hỏi quán-sát cảnh-giới như huyễn,
tịnh tu vô-lượng hạnh Bồ-Tát, vô-lượng trí Bồ-Tát, các thứ thần-biến, các
thứ oai-đức, các thứ trí-huệ, các thứ cảnh-giớ, các thứ thần-thông, các
thứ tự-tại, các thứ giải-thoát, các thứ pháp-minh, các thứ pháp giáo-hóa
điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát bổn-thân bất-diệt, do sức hạnh-nguyện mà
biến-hiện như vậy khắp các nơi.
Tại sao vậy ? Vì muốn dùng thần-lực tự-tại Phổ-Hiền điều-phục tất cả
chúng-sanh. Và làm cho bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chúng-sanh được
thanh-tịnh. Vì làm cho họ dứt hẳn vòng sanh tử. Vì nghiêm tịnh các
thế-giới rộng lớn. Vì thường thấy tất cả Phật. Vì thâm nhập tất cả
phật-pháp. Vì ghi nhớ tam-thế phật-chủng. Vì ghi nhớ chánh-pháp và
pháp-thân của tất cả Phật mười phương. Vì tu khắp tất cả bồ-tát hạnh khiến
viên-mãn. Vì nhập hàng Phổ-Hiền tự-tại có thể chứng nhứt-thiết-trí.
Chư Phật-tử ! Các ngài nên quán-sát đại Bồ-Tát nầy chẳng bỏ hạnh Phổ-Hiền,
chẳng dứt đạo Phổ-Hiền, thấy tất cả Phật, chứng nhứt-thiết-trí, tự-tại thọ
dụng pháp nhứt-thiết-trí.
Như Tượng-Vương Y-La-Bát-Na chẳng bỏ thân voi đến trời Ðao-Lợi, được chư
thiên cỡi, hầu hạ Thiên-Ðế, cùng chư thiên-nữ vui chơi khoái lạc đồng như
chư thiên không khác.
Cũnh vậy, đại Bồ-Tát chẳng bỏ những hạnh đại-thừa Phổ-Hiền, chẳng thối các
nguyện, được Phật tự-tại, đủ nhứt-thiết-trí, chứng Phật giải-thoát, không
chướng không ngại, thành-tựu thanh-tịnh, nơi các quốc-độ không nhiễm
trước, trong các phật-pháp không phân-biệt. Dầu biết các pháp đều khắp
bình-đẳng không có hai tướng mà hằng thấy rõ tất cả cõi Phật. Dầu đã ngang
đồng với tam-thế chư Phật mà tu hạnh Bồ-Tát tương-tục chẳng dứt.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát an trụ pháp hạnh nguyện quảng-đại của Phổ-Hiền
như vậy, phải biết người nầy tâm được thanh-tịnh.
Trên đây là trí quảng-đại tâm thù-thắng vô-ngại-luân đại-tam-muội thứ mười
của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Ðây là đại Bồ-Tát trụ mười môn đại tam-muội trong Phổ-Hiền
hạnh.
(1) Hán bộ quyển thứ bốn mươi mốt
(2) Hán bộ quyển thứ bốn mươi mốt
(3) Hán bộ quyển thứ bốn mươi mốt