Lại nữa, Thiện nam tử! Ví như
các thứ hình tướng nơi bóng sáng, hiện có lay động chuyển biến sai khác.
Thiện nam tử! Nơi ý hiểu sao? Bóng sáng như thế là từ đâu đến, đi tới chỗ
nào? Thường Khóc đáp rằng: Bóng sáng chẳng thật, làm sao nói được có chỗ
đến đi. Pháp Dũng Bồ tát bảo Thường Khóc rằng: Như vậy, như vậy. Như lời
ngươi nói. Nếu kẻ chấp bóng sáng có đến đi, phải biết người kia ngu si vô
trí. Nếu bảo rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có đến có đi cũng lại như
vậy, phải biết người này ngu si vô trí. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể lấy sắc thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai
tức là pháp thân. Thiện nam tử! Pháp thân Như Lai tức là chơn như pháp
giới các pháp. Chơn như pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, pháp thân
Như Lai cũng lại như thế, không đến không đi. Lại nữa, Thiện nam tử! Ví như
thành tầm hương hiện có vật loại, vật loại như thế tạm có hoàn không.
Thiện nam tử! Nơi ý hiểu sao? Thành tầm hương này có bao vật loại vì từ
đâu đến, đi tới chỗ nào? Thường Khóc đáp rằng: Thành tầm hương này có bao
vật loại vì từ đâu đến, đi tới chỗ nào? Thường Khóc rằng: Như vậy, như
vậy. Như lời ngươi nói. Nếu kẻ chấp các vật loại thành tầm hương có đến
đi, phải biết người kia ngu si vô trí. Nếu bảo rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác có đến có đi cũng lại như thế, phải biết người này ngu si vô trí. Vì
cớ sao? Thiện nam tử!Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể lấy sắc
thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai ấy tức là pháp thân. Thiện nam tử! Pháp thân
Như Lai tức là chơn như pháp giới các pháp. Chơn như pháp giới đã chẳng
thể nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, không đến không
đi. Lại nữa, Thiện nam tử! Như các
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa ra việc, tạm có hoàn không. Thiện nam
tử! Nơi ý hiểu sao? Các việc biến hóa ra việc, tạm có hoàn không. Thiện
nam tử! Nơi ý hiểu sao? Các việc biến hóa vì từ đâu đến, đi tới chỗ nào?
Thường Khóc đáp rằng: Các việc biến hóa đều chẳng thật có, làm sao nói
được có chỗ từ đến, đi có chỗ tới. Pháp Dũng Bồ tát bảo Thường Khóc rằng:
Như vậy, như vậy. Như lời ngươi nói. Nếu kẻ chấp việc biến hóa có đến đi,
phải biết người kia ngu si vô trí. Nếu bảo rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác có đến có đi cũng lại như thế, phải biết người này ngu si vô trí. Vì
cớ sao? Thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể lấy sắc
thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai ấy tức là pháp thân. Thiện nam tử! Pháp thân
Như Lai tức là chơn như pháp giới các pháp. Chơn như pháp giới đã chẳng
thể nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, khônng đến không
đi. Lại nữa, Thiện nam tử! Như
người trong mộng thấy có chư Phật, hoặc mười, hoặc trăm hoặc ngàn cho đến
vô số, kia mộng thức rồi, được thấy đều không. Thiện nam tử! Nơi ý hiểu
sao? Mộng thấy Phật từ đâu đến, đi tới chỗ nào? Thường khóc đáp rằng: Như
vậy, như vậy. Như lời ngươi nói. Nếu kẻ chấp mộng được thấy có đến có đi,
phải biết người kia ngu si vô trí. Nếu bảo rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác có đến có đi cũng lại như thế, phải biết người này ngu si vô trí. Vì
cớ sao? Thiện nam tử! Tất cả Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể lấy sắc
thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai ấy tức pháp thân. Thiện nam tử! Pháp thân Như
Lai tức là chơn như pháp giới các pháp. Chơn như pháp giới đã chẳng thể
nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, không đến không đi. Lại nữa, Thiện nam tử! Tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết tất cả pháp như mộng được thấy, như
việc biến hóa, như thành tầm hương, như bóng sáng, vang, tượng, việc
huyễn, ánh nắng, đều chẳng phải thật có. Nếu đối pháp nghĩa sâu thẳm chư
Phật đã thuyết như thế chẳng như thật biết, chấp thân Như Lai là danh là
sắc, có đến có đi, phải biết người kia vì mê pháp tánh nên ngu si vô trí,
trôi lăn các thú chịu khổ sanh tử, xa lìa Bát nhã Ba la mật đa cũng lại xa
lìa tất cả Phật pháp. Nếu đối pháp nghĩa sâu thẳm chư Phật đã thuyết như
thế năng như thật biết, chẳng chấp Phật thân là danh là sắc, cũng chẳng
bảo rằng Phật có đến có đi, phải biết người kia đối pháp nghĩa sâu thẳm mà
Phật thuyết như thật hiểu rõ, chẳng chấp các pháp có đến có đi, có sanh có
diệt, có nhiễm có tịnh. Do chẳng chấp nên năng hành Bát nhã Ba la mật đa,
cũng năng siêng tu tất cả Phật pháp, thời là gần kề sở cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, cũng gọi là đệ tử chơn tịnh của Như Lai, trọn chẳng uổng thọ
quốc nhân tín thí, năng cùng tất cả làm ruộng phước tốt, đáng nhận thế
gian, người, trời cúng dường. Lại nữa, thiện nam tử! Như
trong biển cả có các ngọc báu, ngọc báu như thế chẳng phải mười phương
đến, cũng chẳng phải hữu tình trong đó tạo tác, cũng chẳng phải ngọc này
không nhân duyên mà sanh, nhưng vì sức căn lành các hữu tình nên khiến
trong biển cả có các ngọc sanh. Khi các ngọc này sanh, nương sức nhân
duyên hòa hợp nên có, không chỗ từ đến. Khi ngọc này diệt ở mười phương
diện cũng không chỗ đi, chỉ bởi hữu tình hết sức căn lành khiến kia diệt
mất. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp hữu vi duyên hiệp nên sanh, duyên lìa nên
diệt, ở trong đều không có kẻ sanh kẻ diệt. Vậy nên, các pháp không đến
không đi. Thân các Như Lai cũng lại như thế, ở mười phương diện không chỗ
từ đến, cũng chẳng phải ở trong có kẻ tạo tác, cũng chẳng thể nói không có
nhân duyên mà sanh. Nhưng vì nương gốc tu tịnh hạnh viên mãn làm nhân
duyên vậy và nương hữu tình đời trước tu nghiệp thấy Phật thành thục vậy,
nên có thân Như Lai xuất hiện giữa đời. Khi mà thân Phật diệt, ở mười
phương diện cũng không chỗ đi, chỉ bởi sức nhân duyên hòa hợp hết tức bèn
diệt lặn. Vậy nên, chư Phật không đến không đi. Lại nữa, Thiện nam tử! Ví như
đàn không hầu nương dựa các thứ nhân duyên hòa hợp mà có tiếng sanh. Nhân
duyên tiếng này chỗ gọi cái cần, cái ống, cái ngựa, cây trục, sợi dây
thẳng thảy và tác ý của nhạc sĩ. Như vậy, riêng một chẳng sanh được tiếng,
cần khi hòa hợp tiếng đàn mới sanh khởi. Sanh vị tiếng này không chỗ từ
đâu đến, với khi diệt dứt tiếng không đi tới đâu. Thiện nam tử! Thân các
Như Lai cũng lại như thế, nương dựa cácthứ nhân duyên mà sanh, chỗ gọi vô
lượng phước đức trí huệ và các hữu tình đã tu căn lành thấy Phật thành
thục. Như vậy, riêng một chẳng sanh thân Phật được , cần khi hòa hợp thân
kia mới sanh khởi. Sanh vị thân này không chỗ từ đâu đến , với khi lặn
diệt không chỗ tới đi. Thiện nam tử! Ngươi đối tướng Như Lai Ứng chánh
Đẳng Giác không đến đi, nên biết theo đạo lý đây như thế tướng đối tất cả
pháp không đến đi cũng biết như thế. Thiện nam tử! Nếu đối Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác và tất cả pháp năng như thật biết không đến không đi,
không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh quyết định năng tu hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phương tiện khéo léo tất được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Khi Bồ tát Ma ha tát Pháp Dũng
vì Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc thuyết tướng các Đức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác thuyết rộng cho đến Phật Thế Tôn không đến không đi, làm cho cõi
Tam thiên đại thiên thế giới kia tất cả đại địa các núi biển cả và các
thiên cung sáu thứ biến động. Các cung điện ma đều oai ánh sáng, ma và
hình ma thảy đều kinh khiếp. Khi ấy cõi Tam thiên đại thiên thế giới kia,
tất cả bao nhiêu cỏ cây lùm rừng sinh hoa phi thời thảy đều hướng đầu về
chỗ Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát, không trung cũng mưa nhiều thứ hương hoa.
Khi đó Thiên Đế Thích, bốn Đại thiên vương và các thiên chúng ở giữa hư
không, liền đem các thứ diệu hương hoa trời phụng rải cúng dường Pháp Dũng
Bồ tát Ma ha tát, rồi lại đem các thứ diệu hương hoa trời phụng rải cúng
dường Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát, rồi lại đem các thứ diệu hương hoa trời
phụng rải cúng dường Thường Khóc Bồ tát, mà xướng lời này: Chúng tôi nhờ
Đại sĩ được nghe giáo pháp thắng nghĩa như thế. Tất cả thế gian kẻ trụ
thân kiến nghe pháp này rồi bỏ được chấp trước, thảy đều trụ nơi bậc nan
phục. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát
Thường Khóc thưa Bồ tát Ma ha tát Pháp Dũng rằng: Nhân gì duyên chi làm
cho thế giới đây tất cả đất liền, các núi, biển lớn, sáu thứ biến động và
hiện các thứ tướng hiếm có? Pháp Dũng Bồ tát bảo Thường Khóc rằng: Do tôi
đáp ngươi đã hỏi tướng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không đến đi. Ở trong
hội này tám ngàn chúng sanh thảy đều chứng được vô sanh pháp nhẫn. Lại có
tám mươi muôn ức chúng sanh đều phát tâm VÔ thượng Chánh đẳng giác. Lại có
tám vạn bốn ngàn chúng sanh xa trần lìa cấu, đối trong các pháp sanh tịnh
pháp nhãn. Do nhân duyên này khiến thế giới đây tất cả đất liền, các núi
biển lớn sáu thứ biến động và hiện các thứ tướng hiếm có. Bồ tát Thường Khóc nghe lời này
rồi vui mừng nhảy nhót, khởi nghĩ này rằng: Ta nay đã làm được lợi lành
lớn. Nghĩa là nhờ ta hỏi Pháp Dũng Bồ tát khiến các hữu tình được nghe Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, thuyết các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác tướng không đến đi, khiến ngần ấy chúng được nhiêu ích lớn. Ta do căn
lành thù thắng như thế, đủ năng thành xong sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Ta đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ta đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
khônng còn nghi lo. Ta ở đời sau quyết định thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, lợi ích an vui vô lượng hữu tình. Khởi nghĩ ấy rồi nhảy nhót vui
mừng, bay lên hư không cao bảy cây đa la. Lại khởi nghĩ nữa: Ta phải đem
vật gì cúng dường Đại sư Pháp Dũng Bồ tát để dùng đền ơn vì ta thuyết
pháp? Khi ấy, Thiên Đế Thích biết chỗ kia nghĩ hóa làm vô lượng hương hoa
vi diệu, muốn đem thí cho Bồ tát Thường Khóc mà nói lời này: Đại sĩ ngày
nay vì thương xót tôi nên nhận hoa này để đem cúng dường Pháp Dũng Bồ tát.
Đại sĩ nên nhận chúng tôi cúng dường, tôi nay giúp thành công đức Đại sĩ.
Sở dĩ vì sao? Vì nhờ Đại sĩ nên chúng tôi vô lượng trăm ngàn hữu tình được
lợi ích lớn, nghĩa là quyết sẽ chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Đại sĩ biết cho, có các kẻ năng vì tất cả hữu tình trải qua vô lượng vô số
đại kiếp chịu đựng các cần khổ, kẻ như Đại sĩ rất là khó được. Vậy nên,
nay nên nhận sở thí của tôi. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát
Thường Khóc nhận hương hoa vi diệu của Thiên Đế Thích, phụng rải cúng
dường Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát rồi, từ hư không xuống đảnh lễ hai chân,
chấp tay cũng bất khả đắc kính thưa Đại sư rằng: Tôi từ ngày nay nguyện
đem thân mệnh phụnng thuộc Đại sư để sung làm kẻ hầu sai. Nói lời này rồi
chấp tay mà đứng trước Pháp Dũng Bồ tát Ma ha tát. Khi ấy, nàng trưởng giả và các
quyến thuộc chấp tay cũng bất khả đắc kính thưa Thường Khóc rằng: Chúng
tôi từ nay cũng đem thân mệnh phụng thuộc cấp hầu, xin thương nạp thọ, đem
căn lành đây nguyện sẽ được thù thắng pháp như thế, đồng Tôn sư đã chứng
nguyện, qua đời sau hằng gần gũi Tôn sư, thườnng theo hầu Tôn sư, cúng
dường chư Phật và các Bồ tát, đồng tu phạm hạnh. Bồ tát Thường Khóc liền bảo kia
rằng: các ngươi kẻ chí thành tùy thuộc nơi ta phải theo lời ta dạy, ta sẽ
thọ ngươi. Nàng trưởng giả thảy thưa Thường Khóc rằng: Thành tâm thuộc Tôn
sư, sẽ theo lời dạy Tôn sư. Khi ấy, Thường Khóc Bồ tát tức
bảo nàng trưởng giả và các quyến thuộc đều lấy các thứ đồ đẹp trang nghiêm
mà tự nghiêm sức và đem năm trăm cỗ xe đẹp bảy báu cùnng các đồ cúng đồng
thời phụng lên Pháp Dũng Bồ tát, thưa Đại sư rằng: " Tôi đem nàng trưởnng
giả thảy như đây phụng thí Đại sư, cúi xin từ bi vì tôi nạp thọ". Khi AṬ Thiên Đế Thích khen
Thường Khóc rằng: Hay thay! Đại sĩ mới năng xả thí như thế được. Các Bồ
tát Ma ha tát pháp nên xả thí tất cả sở hữu. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng học
xả thí tất cả như thế mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu đối Pháp
sư năng khởi làm cunng kính cúng dường như thế khônng chút lẫn tiếc, quyết
định được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo. Các Đức
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ khi tinh siêng tu học đạo Bồ tát, cũng
vì thỉnh hỏi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, xả các sỡ
hữu. Do đây đã chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi đó Pháp Dũng Bồ tát muốn
cho Bồ tát thường Khóc chỗ trồng căn lành được viên mãn nên nhận nàng
trưởng giả cùng các bà con, năm trăm xe báu và các của cúng dường, nhận
rồi hoàn thí lại Bồ tát thường Khóc. Pháp Dũng Bồ tát thuyết pháp đã lâu,
ngày sắp muốn tối, biết chúng mỏi mệt, xuống tòa Sư tử trở vào trong cung Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát
Thường Khóc đã thấy Bồ tát Ma ha tát Pháp Dũng trở vào trong cung liền
khởi nghĩ này: Ta vì pháp nên đến nơi đây nhưng chưa nghe chánh pháp,
chẳng nên ngồi nằm, ta nên duy đứng, đi đứng uy nghi để đợi Đại sư Pháp
Dũng Bồ tát đãvào cung rồi, qua thời gian bảy năm nhất tâm chẳng loạn, du
hý Bồ tát Vô lượng vô số tam ma địa môn,
an trụ Bồ tát vô lượng vô số Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện
khéo léo. Bồ tát Thường Khóc với trong bảy năm chẳng ngồi chẳng nằm, duy
đứng duy đi, chẳng từ mỏi mệt, chẳng nghĩ ăn uống, chẳng sợ lạnh nónng,
chẳng duyên trong ngoài, từng chẳng phát khởi muốn giận hại thảy và tất cả
các phiền não buộc bẩn. Chí khởi nghĩ này: " Chừng nào Pháp Dũng Bồ tát sẽ
từ tam ma địa khởi, bà con chúng ta nên trải pháp tòa, rảy suốt nơi đất,
rải các hương hoa. Pháp Dũng Bồ tát sẽ lên tòa này tuyên nói Bát nhã Ba la
mật đa phương tiện khéo léo và các pháp yếu khác?" Khi ấy nàng trưởng giả
và các bà con cũng trong bảy năm duy đi duy đứng, chẳng bỏ sở niệm, đều
học Thường Khóc tiến chỉ theo nhau từng không chút bỏ. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát
Thường Khóc tinh tiến như thế hơn bảy năm rồi, bỗng nhiên nghe không trung
có tiếnng bảo rằng: Chao! Thiện nam tử! Sau bảy ngày kui, Pháp Dũng Bồ tát
sẽ từ định khởi ở trong thành này tuyên nói chánh pháp. Bồ tát Thường Khóc
nghe tiếng không trung rồi vui mừng nhảy nhót, khởi nghĩ này rằng: Ta nay
phải vì Pháp Dũng Bồ tát trải bày sửa sang tòa sư tử, rảy suốt nơi đất,
rải diệu hươnng hoa để Đại sư ta sẽ thăng tòa này, vì chúng tuyên nói Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu phươnng tiện khéo léo và các pháp yếu. Bồ tát
Thường Khóc khởi nghĩ này rồi cùng nàng trưởng giả và các bà con trải bày
tòa sư tử bằng bảy báu. Liền đó nàng trưởng giả và các bà con mỗi người
cởi một chiếc áo tinh diệu nơi thân, vì Sư thuyết pháp trải lên tòa lớp
nữa. Bồ tát Thường Khóc đã trải tòa
xong, tìm nước rảy đất, trọn chảng thể được. Sở dĩ vì sao? Vì bị ác ma che
giấu, nước trong ngoài thành đều khiến chẳng hiện. Ma khởi nghĩ này: Bồ
tát Thường Khóc tìm nước chẳng được, sầu ưu khổ não, mỏi mệt đúi đừ, tâm
mê biến khác, bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề căn lành chẳng tăng, trí
huệ chẳng soi, đối nhất thiết trí mà có lưu lại, thời chẳng thể làm trống
cảnh giới ta được. Thường Khóc Bồ tát cần các thứ
phương tiện để tìm nước chẳng được, khởi nghĩ này rằng: Ta nên đâm thân
máu chảy ra rươi đất chớ cho bụi dậy bẩn Đại sư ta. Ta này thân này quyết
sẽ bại hoại, dùng làm chi thân hư ngụy như thế! Ta từ vô thỉ đến nay trôi
lăn sanh tử hằng bị năm món dục làm tan mất thân mạng biết bao, mà chưa
từng vì chánh pháp xả thân! Vậy nên, nay phải đâm thân máu chảy. Khởi nghĩ
này rồi, liền cầm dao nhọn đâm khắp thân mình, máu chảy rươi đất. Đồng
thời nàng trưởng giả và các bà con cũng học Thườnng Khóc đâm máu rưới đất.
Bồ tát Thường Khóc, nàng trưởng giả thảy đều vì pháp nên đâm mình máu chảy
cho đến chẳngkhởi một tâm niệm gì khác. Khi đó các ác ma chẳng năng làm gì
được, cũng chẳng năng trở ngại sở tu thiện phẩm, vì tâm Thường Khóc thảy
dũng mãnh quả quyết vậy. Khi ấy, Thiên Đế Thích thấy
việc này rồi, khởi nghĩ này rằng: Bồ tát Thường Khóc, nàng trưởng giả thảy
rất là hiếm có. Vì do nhân duyên mến pháp trọng p[háp cho đến khắp cả thân
thể đều đâm máu chảy, vì Sư thuyết pháp rưới khắp nơi đất, từng chẳng phát
khởi một tâm niệm gì khác, khiến các ác ma chẳng làm chi được, cũng chẳng
năng trở ngại chỗ tu thiện phẩm được! Đại sĩ lạ thay! Mới năng mặc áo giáp
kiên cố hoằng thệ như thế, vì muốn lợi vui tất cả hữu tình, đem thuần tịnh
chẳng đoái thân mạng, cầu nơi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, hằng phát thề
rằng: " Ta vì cứu vớt tất cả hữu tình chìm đắm sanh tử vô lượng vô biên
thân tâm đại khổ mà cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, việc nếu chưa thành
quyết không lui bỏ". Khi Thiên Đế Thích khởi nghĩ này rồi, biến Thường
Khóc thảy máu thân đã cháy, tất cả đều thành nước hương chiên đàn, khiến
chỗ đất rưới, quanh bốn bên tòa đều có hương khí chiên đàn lạ quí bất khả
tư nghì của trên trời. Khi Thiên Đế Thích làm việc này rồi khen Thường
Khóc rằng: Hay thay, hay thay! Chí nguyện Đại sĩ be72nương thế tục nên thi
thiết có chắc khó lay, tinh tiến dũng mãnh chẳng khá nghĩ bàn, mến trọng
cầu pháp rất là vô thượng. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ cũng do chí
nguyện bềnn chắc tinh tiến dũng mãnh mến trọnng cầu pháp cũng quyết định
sẽ chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bấy giờ, Thường Khóc lại khởi
nghĩ này: Ta nay đã vì Pháp Dũng tát bày sư tử bảy báu, quét rưới đất sạch
sẽ khiến cho sạch thơm, làm sao phải được các thứ diệu hương hoa tranng
nghiêm nơi đất bốn phía quannh tòa, khi Đại sư thăng tòa sắp thuyết pháp,
chúng ta cũng nên đem rải cúng dường. Khi ấy, Thiên Đế Thích biết chỗ nghĩ
của kia, tức tốc biến làm hương hoa vi diệu, lượng như ngàn hộc của nước
Ma Kiệt Đà, cung kính phụng thí Thường Khóc Bồ tát khiến cùng quyến thuộc
đem dùng cúng dường. Khi ấy, Thường Khóc nhận hoa của Thiên Đế Thích dã
thí rồi phân làm hai phần: Trước đem một phần cùng các quyến thuộc rải
khắp nơi đất bốn phía quanh tòa, còn một phần nữa để đợi khi Đại sư thăng
lên pháp tòa sẽ đem phụng rải. Bấy giờ, Pháp Dũng Bồ tát Ma ha
tát qua bảy ngày rồi, từ định tam ma địa môn đã du hý ung dung mà khởi, vì
thuyết Bát nhã Ba la mật đa, vô lượng trăm ngàn quyến thuộc vây quanh. Từ
nội cung ra thăng lên tòa sư tử, ở giữa đại chúng nghiễm nhiên mà ngồi. Bồ
tát Thường Khóc khi đó lại một lần nữa được chiêm ngưỡnng Pháp Dũng Bồ tát
Ma ha tát, vui mừng nhảy nhót, thân tâm khoái thích. Ví như Bí sô buộc
niệm một cảnh, bỗng nhiên được vào tĩnh lự thứ ba, bèn cùng quyến thuộc
đem hương hoa vi diệu trước kia còn để lại phụng tán cúng dường. Đã cúnng
dường xong đảnh lễ hai chân quanh hữu ba vòng lui ngồi một phía. Bấy giờ, Pháp Dũng Bồ tát Ma ha
tát bảo Bồ tát Ma ha tát Thường Khóc rằng: Thiện nam tử! Lónng nghe, nghe
kỹ, khéo suy nghĩ nhớ, ta sẽ vì ngươi tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa.
Thường Khóc thưa rằng: Dạ xin nói cho, chúng tôi muốn nghe. Pháp Dũng Bồ tát Thường Khóc
rằng Thiện nam tử! Tất cả pháp bình đẳng nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng xa lìa. Tất cả pháp chẳng động nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng chẳng dộng. Tất cả pháp không niệm nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng không niệm. Tất cả pháp vô úy nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô úy. Tất cả pháp không sợ nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng khônng
sợ. Tất cả pháp nhất vị nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng nhất vị.
Tất cả pháp vô tế nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tế. Tất cả
pháp vô sanh nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũnng vô sanh. Tất cả pháp
vô diệt nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Thái hư không vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nước biển cả vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Núi Diệu Cao vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Núi Diệu Cao nghiêm dẹp nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng nghiêm đẹp. Như thái hư không vô phân
biệt nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô phân biệt. Thiện nam tử! Sắc vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, thọ tưởng hành thức vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nhãn xứ vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Sắc xứ vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, thanh hương vị xúc pháp xứ vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nhãn giới vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Sắc giới vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, thanh hương vị xúc pháp giới vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũnng vô biên. Nhãn thức giới vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên> Nhãn xúc vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên,
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Địa giới vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, thủy hỏa phong không thức giới vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nhân duyên vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; đẳng vô gián duyên, sở duyên
duyên, tăng thượng duyên vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô biên. Các pháp theo duyên sanh ra vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô biên. Vô minh vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô biên; hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Thiện nam tử! Bố thí Ba la mật
đa vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, phương tiện khéo léo, diệu nguyện, lực, trí Ba
la mật đa vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nội không vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; ngoại khônng, nội ngoại không, khôngn
không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi khônng, vô vi không, tất cánh
không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tánh không, tiự tướng
không, cộnng tướnng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô
tánh khônng, tự tánh không, vô tánh tự tánh không vô biến nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Chơn như vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô biên. Bốn niệm trụ vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Khổ thánh đế vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, tập diệt đạo thánh đế vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Mười thiện nghiệp đạo vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Thí giới tu vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Bốn tĩnh lự vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Tám giải thoát vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; tám thắng xứ , chín
thứ đệ định, mười biến xứ vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô biên. Không giải thoát môn vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Đà la ni môn vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, tam ma địa môn vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Bồ tát thập địa vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên . Thiện nam tử! Năm nhãn vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, sáu thần thông vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Phật mười lực vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Pháp vô vong thất vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, tánh hằng trụ xả vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Nhất thiết trí vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Bát nhã
Ba la mật đa mươi hai tướng đại sĩ vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô biên, tám mươi tùy hảo vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô biên. Quả Dự lưu vô biên nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
Độc giác Bồ Đề vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên.
Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô biên. Chư Phật Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô biên nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Tất cả pháp hữu lậu vô biên nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, tất cả pháp vô lậu vô biên
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Tất cả pháp hữu vi vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên, tất cả pháp vô vi vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô biên. Kim cương dụ bình đẳng nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bình đẳng. Tất cả pháp vô hoại nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô hoại. Tất cả pháp vô tạp nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tạp. Tất cả pháp không sai biệt nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng khônng sai biệt. Tự tánh các pháp bất khả đắc
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa tự tánh cũng bất khả đắc. Các pháp vô
sở hữu bình đẳng nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa vô sở hữu cũnng bình
đẳng. Các pháp vô sở tác nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở
tác. Các pháp bất khả tư nghì nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất
khả tư nghì. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát
Thường Khóc nghe thuyết các nghĩa sai khác Bát nhã Ba la mật đa tức ở
trước tòa được sáu mươi ức tam ma địa môn. Chỗ gọi các pháp bình đẳng tam
ma địa. Các pháp xa lìa tam ma dịa. Các pháp chẳng động tam ma địa. Các
pháp vô niệm tam ma địa. Các pháp vô úy tam ma địa. Các pháp vô cụ tam ma
địa. Các pháp nhất vị tam ma địa. Các pháp vô tế tam ma địa. Các pháp vô
snah tam ma địa. Các pháp vô diệt tam ma địa. Hư không vô biên tam ma địa.
Đại hãi vô biên tam ma địa. Núi Diệu Cao vô biên tam ma địa. Núi Diệu Cao
nghiêm hảo tam ma địa. Như hư không vô phân biệt tam ma địa. Sắc thảy các
uẩn vô biên tam ma địa. Nhãn thảy các giới vô biên tam ma địa. Nhãn xúc
thảy vô biên tam ma địa. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy vô biên
tam ma địa. Địa giới thảy vô biên tam ma
địa. Nhân duyên thảy vô biên tam ma địa. Các pháp theo duyên thảy vô biên
tam ma địa. Các pháp theo duyên sanh ra vô biên tam ma địa. Các nhánh
duyên khởi vô biên tam ma địa. Cá Ba la mật đa vô biên tam ma địa. Tất cả
không vô biên tam ma địa. Các pháp chơn như thảy vô biên tam ma địa. Bồ đề
phần pháp vô biên tam ma địa. Các thánh đế vô biên tam ma địa. Các thiện
nghiệp đạo vô biên tam ma địa. Thí giới tu vô biên tam ma địa. Tĩnh lự vô
lượng vô sắc vô biên tam ma địa. Giải thoát thắng xứ thảy đến biến xứ vô
biên tam ma địa. Không, vô tướng, vô nghuyện giải thoát môn vô biên tam ma
địa. Tổng trì, đẳng trì môn vô biên tam ma địa. Các địa Bồ tát vô biên tam
ma địa. Các lực, vô úy, vô ngại giải, đại từ bi hỷ xả, pháp Phật bất cộng
vô biên tam ma địa. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả vô biên tam ma
địa. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô biên tam ma
địa. Các tướng tùy hảo vô biên tam ma địa. Thanh văn thừa vô biên tam ma
địa. Độc giác thừa vô biên tam ma địa. Vô thượng thừa vô biên tam ma địa.
Pháp hữu lậu vô biên tam ma địa. Pháp hữu vi vô vi vô biên tam ma địa. Kim
cương dụ bình đẳng tam ma địa. Các pháp không hoại tam ma địa. Các pháp
không tạp tam ma địa. Các pháp không sai khác tam ma địa. Các pháp tự tánh
bất khả dắc tam ma địa. Các pháp vô sở hữu bình đẳng tam ma địa. Các pháp
vô sở tác tam ma địa. Các pháp bất khả tư nghì tam ma địa. Được như vậy
thảy sáu mươi trăm ngàn tam ma địa. Bồ tát Thường Khóc đã được sáu
mươi trăm ngàn tam ma địa môn như thế tức thì hiện thấy các Đức Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại Đông Tây Nam Bắc bốn góc trên dươí đều như số
cát Căng già Tam ma địa. Thiên đại thiên thế giới, Thanh
văn, Bồ tát, đại chúng vây quanh, đem danh như thế, cú như thế, chữ như
thế, lý thú như thế, vì các chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la
mật đa. Cũng như ta ngày nay ở thế giới Tam ma địa. Thiên Đại thiên này, Thanh
vănn, Bồ tát, đại chúng vâ quanh, đem danh như thế, cú như thế, chữ như
thế, lý thú như thế, vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la
mật đa thảy không sai khác. Bồ tát Thường Khóc từ đây về
sau đa văn trí huệ bất khả tư nghì, in như đại hải, tùy sanh chỗ nào hằng
thấy chư Phật, thường sanh cõi nước tịnh diệu chư Phật, thường sanh cõi
nước tịnh diệu chư Phật. Cho đến trong mộng cũng thườnng thấy Phật vì
thuyết Bát nhã Ba la mật đa, gần gũi cúng dường từng không tạm bỏ, lìa
pháp không rảnh, đầy đủ có rảnh. Thiện Hiện phải biết: Do lý thú
này Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu oai đức thù thắng khiến các Bồ tát mau
năng dẫn được Nhất thiết trí trí. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát muốn học sáu món Ba la mật đa cho mau viên mãn, muốn đủ thông đạt cảnh
giới chư Phật, muốn được thần thông tự tại chư Phật, muốn mau chứng được
Nhất thiết trí trí, muốn năng rốt ráo an vui lợi ích tất cả hữu tình, thời
nên học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, nên đối Bát nhã Ba la mật
đa thẳm sâu như thế cung kính lónng nghe, thọ trì đọc tụng, rốt ráo thông
lợi, như nói tu hành, như lý suy nghĩ nghĩa thú thẳm sâu, biên chép lưu
bố, vì người giải nói. Nên đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa
rải thảy, áo mặc, anh lạc, bảo tràng, phan lọng, kỹ nhạc, đèn sáng và bao
nhiêu các thứ ngọc quý tạp vật cúnng dường, cung kính tôn trọng ngợi khen.
Sở dĩ vì sao? Do sở thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây là mẹ chơn
sinh dưỡng các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, là thầy chơn khuôn phép chúng
các Bồ tát Ma ha tát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chung tôn
trọng cung kính ngợi khen, tất cả chúng Bồ tát Ma ha tát không ai chẳng
cúng dường tinh siêng tu học. Đây là nơi dạy bảo chơn thật của Như Lai. Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà
rằng: Ngươi đối Như Lai có mến kính chăng? A Nan Đà thưa: Bạch Thế Tôn! Có
mến kính! Bạch Thiện Thệ! Có mến kính! Như Lai tự biết tôi đối chỗ Phật
thật có mến kính. Phật bảo: Khánh Hỷ! Như vậy,
như vậy. Ngươi đối chỗ Ta thật có mến kính. Ngươi từ xưa nay thường đem
nghiệp từ thiện thân ngữ ý cung kính cúng dường, theo hầu nơi ta chưa từng
trái lỗi. Khánh Hỷ! Ngươi nên như Tất cả pháp hiện tại đem thật mến kính
cúng dường thân Ta, sau Ta Niết bàn ngươi cũng phải dùng mến kính cúng
dường tôn trọng Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế! Lần thứ hai, lần
thứ ba, Phật đem Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế dạy bảo Khánh Hỷ
khiến cho thâm mến kính cúng dường tôn trọng hơn thân Như Lai. Lạ bảo: Khánh Hỷ! Ta đem Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế nay đối đại chúng phó chúc cho ngươi.
Ngươi nên thọ trì, sau Ta Niết bàn cho đến một chữ chớ cho quên mất. Bát
nhã Ba la mật đa như thế tùy ngần ấy thời gian lưu bố nơi đời, phải biết
tức có chư Phật Thế Tôn hiện trụ thế gian, vì chúng thuyết pháp. Khánh Hỷ
phải biết: Nếu có người đối Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây cung kính
lóng nghe, thọ trì đọc tụng thẳm sâu đây cung kính lóng nghe, thọ trì đọc
tụng rốt ráo thông lợi, như nói tu hành, như lý suy nghĩ nghĩa thú thẳm
sâu, biên chép lưu bố, vì người giải nói. Lại đem các thứ thượng diệu
tràng hoa, hương xoa rải thảy, y phục, anh lạc, bảo tràng, phan lọng, kỹ
nhạc, đèn sáng và bao nhiêu các thứ ngọc quý tạp vật khác cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen, phải biết người này thường thấy chư Phật, lóng
nghe chánh pháp, tu các phạm hạnh. Khi Đức Bạc Già Phạm thuyết
kinh này rồi, vô lượng chúng Bồ tát Ma ha tát, Từ Thị Bồ tát mà làm thượng
chúng Bồ tát Ma ha tát, Từ Thị Bồ tát mà làm thượng thủ, Đại Ca Diếp Ba và
Xá Lợi Tử, A Nan Đà thảy các Đại Thanh văn và những trời, rồng, người phi
người thảy, tất cả đại chúng nghe Phật đã thuyết đều rất vui mừng tín thọ
phụng hành.