Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ nội không; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ chơn như; chẳng dùng hai nên
nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn niệm trụ; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng
giác chi, tám thánh đạo chi.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ khổ thánh đế; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ tập diệt đạo thánh đế.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn tĩnh lự; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ tám giải thoát; chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ tam ma địa môn, chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ đà la ni môn.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ không giải thoát môn; chẳng
dùng hai nên nhiếp thọ vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ năm nhãn, chẳng dùng hai nên
nhiếp thọ sáu thần thông.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ Phật mười lực; chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất
cộng.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ đại từ; chẳng dùng hai nên
nhiếp thọ đại bi, đại hỷ, đại xả.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ pháp vô vong thất, chẳng
dùng hai nên nhiếp thọ tánh hằng trụ xả.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ nhất thiết trí; chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, chẳng dùng hai nên vượt các Thanh văn và bậc Độc giác,
chẳng dùng hai nên tới vào Bồ tát Chánh tánh ly sánh, chẳng dùng hai nên
tu hành chánh hạnh Bồ tát thập địa, chẳng dùng hai nên chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, chẳng
dùng hai nên nhiếp thọ bố thí Ba la mật đa; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa. Chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ nội không; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô
vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn
tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất
khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Chẳng
dùng hai nên nhiếp thọ chơn như; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng
Tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.
Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn niệm trụ; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ khổ thánh đế; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ tập diệt đạo thánh đế. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn tĩnh
lự; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ tám giải thoát; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ tam ma
địa môn; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ đà la ni môn. Chẳng dùng hai nên
nhiếp thọ không giải thoát môn; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ năm nhãn, chẳng dùng
hai nên nhiếp thọ sáu thần thông. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ Phật mười
lực; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ đại từ; chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ đại bi, đại hỷ, đại xả. Chẳng dùng hai nên nhiếp thọ pháp vô
vong thất, chẳng dùng hai nên nhiếp thọ tánh hằng trụ xả. Chẳng dùng hai
nên nhiếp thọ nhất thiết trí; chẳng dùng hai nên nhiếp thọ đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí. Chẳng dùng hai nên vượt các Thanh văn và bậc Độc
giác. Chẳng dùng hai nên tới vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Chẳng dùng hai
nên tu hành chánh hạnh Bồ tát thập địa. Chẳng dùng hai nên chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề ấy. Bồ tát Ma ha tát làm sao từ sơ phát tâm cho
đến khởi tâm tối hậu, đối tất cả thời pháp tánh tăng trưởng?
Phật nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
dùng hai nên hành, thời các pháp lành chẳng được tăng trưởng. Vì cớ sao?
Thiện Hiện! Tất cả ngu phu dị sánh đều nương hai, nên khởi ra các thứ pháp
lành chẳng được tăng trưởng. Bồ tát Ma ha tát hành chẳng hai nên từ sự
phát tâm cho đến khởi tâm tối hậu, đối tất cả thời pháp lành tăng trưởng.
Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát căn lành bền chắc chẳng thể chế
phục, thế gian trời, người, a tố lạc thảy chẳng năng phá hoại khiến đọa
Thanh văn hoặc bậc Độc giác. Các thứ ác pháp bất thiện thế gian chẳng năng
chế phục, khiến khi hành bố thí Ba la mật đa khởi ra pháp lành chẳng được
tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, khởi ra pháp lành chẳng được tăng
trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi trụ nội
không, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không. vô tánh không, tự tánh không, vô tánh
tự tánh không, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi trụ chơn
như, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sánh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới, khởi ra pháp tánh chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu bốn niệm
trụ, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi trụ khổ
thánh đế khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục
khiến khi trụ tập diệt đạo thánh đế, khởi ra pháp lành chẳng được tăng
trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu bốn tĩnh
lự, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định, khởi ra pháp lành chẳng được tăng
trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu tám giải
thoát, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, khởi ra pháp lành
chẳng được tăng trưởng.
Chắng năng chế phục khiến khi tu tam ma
địa môn, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục
khiến khi tu đà la ni môn khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu không
giải thoát môn, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế
phục khiến khi tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn khởi ra pháp lành
chẳng được tăng trưởng.
Chắng năng chế phục khiến khi tu năm nhãn,
khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến khi tu
sáu thần thông, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu Phật mười
lực, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến
khi tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, khởi
ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu đại từ,
khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục khiến khi tu
đại bi, đại hỷ, đại xả, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu pháp vô
vong thất, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục
khiến khi tu tánh hằng trụ xả, khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng.
Chẳng năng chế phục khiến khi tu nhất
thiết trí khởi ra pháp lành chẳng được tăng trưởng; chẳng năng chế phục
khiến khi tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, khởi ra pháp lành chẳng
được tăng trưởng.
Vậy nên. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát nên
hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát vì căn lành nên hành Bát nhã Ba la mật đa
thẳm sâu ư?
Phật nói: Chẳng vì. Thiện Hiện! Bồ tát Ma
ha tát chẳng vì căn lành nên hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, cũng
chẳng vì chẳng căn lành nên hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì cớ sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát lẽ pháp như vậy, nếu chưa cung kính cúng
dường các Phật, nếu chưa viên mãn căn lành thù thắng, nếu chưa được nhiều
bạn chơn thiện nhiếp thọ trọn chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch
Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát cung kính cúng dường các Phật, viên mãn căn lành
thù tháng, được nhiều bạn chơn thiện nhiếp thọ mới năng được Nhất thiết
trí trí là thế nào?
Phật nói: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm cung kính cúng dường vô lượng. Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác.
theo chỗ các Phật nghe thuyết: Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Già đà, Tự
thuyết, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Luận nghị. Nghe
rồi tổng trì, trì rồi thân ngữ cung kính cúng dường, chuyển tụng, ôn tập,
khiến giỏi thông lanh. Đã thông lanh rồi, tâm khéo quan sát. Khéo quan sát
rồi, sâu thấy ý thú. Thấy ý thú rồi, lại khéo thông đạt. Khéo thông đạt
rồi, được đà la ni. Được đà la ni rồi, khởi vô ngại giải. Khởi vô ngại
giải rồi, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí. Tùy sanh chỗ nào, đối đã
nghe trì giáo nghĩa chánh pháp trọn chẳng quên mất. Ở chỗ các Phật vun
trồng vô lượng căn lành rộng lớn. Do được các căn lành nhiếp thọ, nên
quyết chẳng uổng sanh ác thú nạn xứ. Lại do được căn lành nhiếp thọ, nên ở
tất cả thời ý vui thanh tịnh. Ý vui thanh tịnh, nên thường năng nghiêm
tịnh cõi Phật sở cầu, cũng thường thành thục sở hóa hữu tình. Lại do được
căn lành nhiếp thọ, nên thường chẳng xa lìa chơn thiện tri thức, nghĩa là
các Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác và chúng các Bồ tát Ma ha tát Độc giác, Thanh văn, cùng
những kẻ năng ngợi khen Phật Pháp Tăng. thường được gần gũi cúng dường
cung kính. Như vậy, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát cung kính cúng dường các
Phật, viên mãn căn lành thù thắng, được nhiều bạn chơn thiện nhiếp thọ,
mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Vậy nên, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha
tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, muốn mau chứng được Nhất thiết trí
trí, nên siêng năng cung kính cúng dường các Phật, nhiếp thọ viên mãn căn
lành thù thắng, thường cầu gần gũi chơn thiện tri thức hằng không nhàm
mỏi.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng cung kính cúng dường các Phật,
chẳng viên mãn căn lành thù thắng, chẳng được nhiều bạn chơn thiện nhiếp
thọ. Bồ tát Ma ha tát này chắc chắn chẳng năng được Nhất thiết trí trí?
Phật nói: Thiện Hiện! nếu kẻ chẳng cung
kính cúng dường các Phật, chẳng năng viên mãn căn lành thù thắng, chẳng
được nhiều bạn chơn thiện nhiếp thọ, hãy chẳng nên được mang danh Bồ tát
Ma ha tát, huống là năng chứng được Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Hoặc kẻ có cung kính cúng dường các Phật, vun trồng viên mãn căn
lành thù thắng, được nhiều bạn chơn thiện nhiếp thọ, hãy chẳng năng được
Nhất thiết trí trí. Huống chẳng cung kính cúng dường các Phật, chẳng năng
viên mãn căn lành thù thắng, chẳng được nhiều bạn chơn thiện nhiếp thọ, mà
năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu kia năng được Nhất thiết trí trí,
không có lẽ ấy. Vậy nên. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được danh
Bồ tát Ma ha tát, muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí, phải siêng cung
kính cúng dường các Phật, vun trồng căn lành viên mãn thù thắng, gần gũi
cúng dường chơn thiện tri thức chớ sanh nhàm mỏi.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Vì nhân duyên nào có Bồ tát Ma ha tát, dù đã cung kính cúng dường các
Phật, vun trồng căn lành viên mãn thù thắng, được nhiều bạn chơn thiện
nhiếp thọ, mà chẳng năng được Nhất thiết trí trí?
Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát xa
lìa phương tiện khéo léo, nên chẳng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát kia chẳng theo các Phật nghe thuyết phương tiện
khéo léo như vậy, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, vun trồng căn
lành viên mãn thù thắng, gần gũi cúng dường chơn thiện tri thức, nên chẳng
được Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là phương tiện khéo léo, Bồ tát Ma ha tát trọn
nên phương tiện khéo léo như vậy, tu những điều gì quyết định năng chứng
được Nhất thiết trí trí?
Phật nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành bố thí Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí hoặc thí Như Lai
Ứng
Chánh Đẳng Giác, hoặc thí Độc giác, hoặc thí Thanh văn, hoặc thí Bồ tát Ma
ha tát, hoặc thí các kẻ Sa môn, Bà la môn, hoặc thí kẻ ngoại đạo tu phạm
hạnh, hoặc thí kẻ bần cùng, kẻ đi đường khổ hạnh và kẻ đến cầu xin, hoặc
thí tất cả người phi người thảy. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên tác ý tương
ưng Nhất thiết trí trí như thế, dù là hành bố thí mà không tưởng thí,
không tưởng kẻ thọ, không tưởng kẻ thí, cũng không tưởng tất cả ngã, ngã
sở.
Vì cớ sao Thiện Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát
này quán tự tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô
diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các
hành. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như vậy, hằng
thời tăng trưởng căn lành thù thắng. Dó thắng căn lành thường tăng trưởng,
nên năng hành bố thí Ba la mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi
Phật. Dù hành bố thí mà chẳng vui cầu sở đắc thí quả nghĩa là chẳng tham
lấy các cảnh khả ái do thí sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sanh tử do
thí sở đắc; chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và giải thoát kẻ chưa giải
thoát tu hành bố thí Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm khi tu hành tịnh giới Ba la mật đa, dùng tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí thọ trì tịnh giới, nơi tâm chẳng bị tham dục chê, cũng
lại chẳng bị giận dữ chê, cũng lại chẳng bị ngu si chê, cũng lại chẳng bị
ngủ nghỉ các trói và bao nhiêu những pháp ác bất thiện khác ngăn che khuất
lấp tâm Bồ đề. Nghĩa là bỏn sẻn, ác hoặc, giận hờn, biếng nhác, liệt tâm,
loạn tâm, ác huệ, các mạn: quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn,
tự ty mạn, tà mạn; cũng thường chẳng khởi tác ý tương ưng Thanh văn. Độc
giác. Vì cớ sao Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự tướng tất cả pháp
đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết
tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ tát Ma ha tát này trọn
nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng trưởng căn lành thù
thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng. nên năng hành tịnh giới Ba la
mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù hành tịnh giới mà
chẳng vui cầu quả do giới sở đắc. Nghĩa là chẳng tham lấy các cảnh khả ái
do giới sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sanh tử do giới sở đắc, chỉ
vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát kẻ chưa giải thoát, tu
hành tịnh giới Ba la mật đa.
Lại nữa. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành an nhẫn Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí tu học an nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này cho đến nhân duyên vì
hộ từ mạng cũng chẳng phát khởi một niệm tâm giận dữ, ác ngôn, gia báo oán
hận. Bồ tát Ma ha tát này giả sử có kẻ đến muốn hại thân mạng, cướp đoạt
của cải, xâm lấn vợ hầu, dối trá giả gạt, chia lìa bạn thân, thô lời mắng
nhục, tạp uế trêu ghẹo, hoặc đánh hoặc đập, hoặc cắt hoặc dứt, hoặc làm
nhiều việc chẳng lợi ích. Đối hữu tình kia đều không tức giận, duy muốn
làm an vui lợi ích cho kia. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này
quán tự tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt,
vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành.
Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng
trưởng căn lành thù thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng, nên năng
hành an nhẫn Ba la mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù
hành an nhẫn mà chẳng vui cầu quả do nhẫn sở đắc. Nghĩa là chẳng tham lấy
các cảnh khả ái do nhẫn sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sánh tử do
nhẫn sở đắc, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát kẻ chưa
giải thoát, tu hành an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành tinh tiến Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, phát khởi chính siêng, mặc giáp kiên cố, mạnh mẽ không
khiếp nhược, xa lìa tâm biếng lười nhác trễ. Bồ tát Ma ha tát này vì cầu
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mạnh mẽ chính siêng, chẳng sợ các khổ, cũng
năng phương tiện ngăn cản chế phục. Nghĩa là với khổ người, khổ a tố lạc,
khổ quỷ giới, khổ bàng sanh, khổ địa ngục và bao những khổ khác đều chẳng
khiếp sợ, cũng năng phương tiện ngăn cản chế phục, siêng tu pháp lành
thường không biếng bỏ. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự
tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào
tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ
tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng
trưởng căn lành thù thắng. Dó thắng căn lành thường tăng trưởng, nên năng
hành tinh tiến Ba la mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù
hành tinh tiến mà chẳng vui cầu quả do cần sở đắc. nghĩa là chẳng tham lấy
các cảnh khả ái do cần sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sanh tử do cần
sở đắc, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và giải thoát kẻ chưa giải thoát,
tu hành tinh tiến Ba la mật đa.
Lại nữa. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí tu học các định. Bồ tát Ma ha tát này mắt thấy sắc rồi,
chẳng thấy các tướng, chẳng lấy tùy hảo; tức đối chỗ này phòng hộ nhãn căn
chẳng trụ buông lung, chở cho tâm khởi tham ái thế gian, pháp ác bất
thiện, các lậu phiền não, chuyên tu nhớ định giữ hộ nhãn căn. Bồ tát Ma ha
tát này tai nghe tiếng rồi, chẳng lấy các tướng, chẳng lấy tùy hảo; tức
đối chỗ này phòng hộ nhĩ căn, chẳng trụ buông lung, chớ cho khởi tâm tham
ái thế gian, pháp ác bất thiện, các lậu phiền não, chuyên tu nhớ định,
giữ hộ nhĩ căn. Bồ tát Ma ha tát này mũi ngửi hương rồi, chẳng lấy các
tướng, chẳng lấy tùy hảo; tức đối chỗ này phòng hộ tỷ căn, chẳng trụ buông
lung, chớ cho tâm khởi tham ái thế gian, pháp ác bất thiện, các lậu phiền
não, chuyên tu nhớ định, giữ hộ tỷ căn. Bồ tát Ma ha tát này lưỡi nếm vị
rồi, chẳng lấy các tướng, chẳng lấy tùy hảo; tức đối chỗ này phòng hộ
thiệt căn, chẳng trụ buông lung, chớ cho tâm khởi tham ái thế gian, pháp
ác bất thiện, các lậu phiền não, chuyên tu nhớ định, giữ hộ thiệt căn. Bồ
tát Ma ha tát này mình cảm xúc rồi, chẳng lấy các tướng, chẳng lấy tùy
hảo; tức đối chỗ này phòng hộ thân căn, chẳng trụ buông lung. chớ cho tâm
khởi tham ái thế gian, pháp ác bất thiện, các lậu phiền não, chuyên tu nhớ
định, giữ hộ thân căn. Bồ tát Ma ha tát này ý hiểu pháp rồi, chẳng lấy các
tướng, chẳng lấy tùy hảo; tức đối chỗ này phòng hộ ý căn, chẳng trụ buông
lung, chớ cho tâm khởi tham ái thế gian, pháp ác bất thiện, các lậu phiền
não, chuyên tu nhờ định, giữ hộ ý căn. Bồ tát Ma ha tát này hoặc đi hoặc
đứng, hoặc ngồi hoặc nằm, hoặc nói hoặc im, thường chẳng bỏ rời địa vị
Tam-ma-hê- đa-xa-ma. Bồ tát Ma ha tát này hoặc tay hoặc chân đều chẳng
hung ác; lời nói chẳng cứng cỏi, nói chẳng ồn tạp. Nhãn và các căn đều
chẳng bối rối, chẳng lay chẳng động, cũng chẳng ngông ngạo; thân chẳng tán
loạn, ngữ chẳng tán loạn, tâm chẳng tán loạn; thân vắng lặng, ngữ vắng
lặng, tâm vắng lặng, hoặc ẩn hoặc lộ oai nghi không khác. Đối các ăn uống.
áo mặc đồ nằm, bệnh duyên chữa thuốc và các vật tư sản đều sanh vui đủ, dễ
mãn dễ dưỡng, dễ dàng cung cấp, khuôn phép sở hành không chẳng điều thiện.
Dù ở ồn tạp mà hạnh xa lìa; với lợi với suy, vui vui với khổ, với khen với
hủy, với xưng với chê, với sanh với sát bình đẳng không biến, chẳng cao
chẳng thấp; với oán với thân, với thiện với ác, tâm không ghét ưa, không
mừng không buồn. Đối các Thánh ngôn, với phi Thánh ngôn; với xa lìa, với
ồn ào nơi tâm bình đẳng không có thay đổi. Với sắc khả ái, sắc chẳng khả
ái; với trong các việc tùy thuận trái nghịch đều chẳng phân biệt. tâm
thường yên trong định. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự
tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào
tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ
tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng
trưởng căn lành thù thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng, nên năng
hành tĩnh lự Ba la mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù
hành tĩnh lự mà chẳng vui cầu quả do định sở đắc. Nghĩa là chẳng tham lấy
các cảnh khả ái do định sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sanh tử do
định sở đắc, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát kẻ chưa
giải thoát, tu hành tĩnh lự Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí tu học bát nhã. Bồ tát Ma ha tát này không có các ác huệ, kẻ
khác chẳng năng dẫn được; xa lìa tất cả chấp ngã, ngã sở; xa lìa tất cả
ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh giả kiến, dường giả kiến, sĩ
phu kiến, bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, nho đồng kiến, tác giả kiến,
thọ giả kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến; xa lìa tất cả có không có kiến,
các ác kiến thú; xa lìa kiêu mạn, không phân biệt, không biến khác mà tu
diệu huệ. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự tướng tất cả
pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp;
biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ tát Ma ha tát này
trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng trưởng căn lành thù
thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng, nên năng tu hành bát nhã Ba
la mật đa thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù hành bát nhã mà
chẳng vui cầu quả do huệ sở đắc. Nghĩa là chẳng tham lấy các cảnh khả ái
do huệ sở đắc, cũng chẳng đắm cầu thắng báo sanh tử do huệ sở đắc, chỉ vì
cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát kẻ chưa giải thoát, tu hành
bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
từ sơ phát tâm, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí vào sơ tĩnh lự vào đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự; vào từ vô
lượng, vào bi hỷ xả vô lượng; vào Định không vô biên xứ; vào Định thức vô
biên xứ. Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bồ tát Ma ha tát này dù
đối tĩnh lự, vô lượng, vô sắc vào ra tự tại, mà chẳng tham ái quả dị thục
kia. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thành thạo phương tiện
khéo léo tối thắng. Do sức phương tiện khéo léo đây, nên quan tự tướng các
tĩnh lự, vô lượng, vô sắc đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt,
vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành.
Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng
trưởng căn lành thù thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng nên năng
hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc. Do hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc mới năng
tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Do hành tĩnh lự vô
lượng, vô sắc mà chẳng vui cầu quả do kia sở đắc. Nghĩa là chẳng tham lấy
các quả dị thục sanh tử do tĩnh lự, vô lượng và định vô sắc sở đắc, chỉ vì
cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và vì muốn giải thoát kẻ chưa giải thoát, tu các
tĩnh lự, vô lượng, vô sắc không chỗ chứng nhận.
Lại nữa. Thiện Hiện! Nếu Bố tát Ma ha tát từ
sơ phát tâm, khi hành
Bát nhã Ba la mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tu học tất cả
Bồ đề phần pháp, trọn nên phương tiện khéo léo như thế, dù hành đạo pháp
kiến, tu sở đoạn mà chẳng lấy quả Dự lưu cũng lại chẳng lấy quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha
tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển
vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng
các hành. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng
thời tăng trưởng căn lành thù thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng,
nên hành ba mươi bảy Bồ đề phần pháp. Dù hành Bồ đề phần pháp như thế, mà
vượt Thanh văn và bậc Độc giác chứng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Thiện
Hiện! Đấy tên Bồ tát Ma ha tát Vô sanh pháp nhẫn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, dù được tự tại thuận
nghịch vào ra tám định giải thoát, cũng được tự tại thuận nghịch vào ra
tám định thắng xứ, cũng được tự tại thuận nghịch vào ra chín định thứ lớp,
cũng được tự tại thuận nghịch vào ra mười định biến xứ, cũng năng tu tập
quán bốn thánh đế. Tự tại vào ra tam ma địa môn, đà la ni môn, ba giải
thoát môn, mà năng trọn nên phương tiện khéo léo chẳng lấy quả Dự lưu,
cũng chẳng lấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì cớ
sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không,
vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp
vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương
tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng trưởng căn lành thù thắng. Do thắng
căn lành thường tăng trưởng nên năng hành tám định giải thoát, tám định
thắng xứ, chín định thứ lớp, mười định biến xứ; quán bốn thánh đế, tam ma
địa môn, đà la ni môn, ba giải thoát môn. Dù năng hành tám định giải thoát
cho đến ba giải thoát môn mà vượt Thanh văn và bậc Độc giác chứng vào ngôi
Bồ tát Bất thối chuyển. Thiện Hiện! Đấy tên Bồ tát Ma ha tát Vô sanh pháp
thọ ký nhẫn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí học Phật mười lực, bốn vô
sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả , nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí, năm nhãn, sáu thần thông cho đến chưa đủ
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, vả chưa chứng được Nhất thiết
trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này quán tự tướng tất cả
pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp;
biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Bồ tát Ma ha tát này
trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng trưởng căn lành thù
thắng. Do thắng căn lành thường tăng trưởng nên năng hành Phật mười lực
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, nhất thiết trí,
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, năm nhãn, sáu thần thông. Do năng
hành Phật mười lực cho đến sáu thần thông, nên mới năng viên mãn thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, lần lữa chứng được Nhất thiết trí
trí. Thiện Hiện! Như vậy gọi là phương tiện khéo léo. Nếu Bồ tát Ma ha tát
trọn nên phương tiện khéo léo như thế, làm những điều gì quyết định năng
chứng được Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Phương tiện khéo léo như thế,
đều do Bát nhã Ba la mật đa mà được trọn nên. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát nên hành Bát nhã Ba la mật đa, làm những điều gì chẳng cầu
quả báo.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma
ha tát năng đối những gì tự tánh vô động? Phật nói: Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát năng đối vô tánh tự tánh vô động.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát năng đối những các pháp nào vô
tánh tự tánh vô động? Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát năng đối sắc vô
tánh tự tánh vô động, năng đối thọ tưởng hành thức vô tánh tự tánh vô
động. Nãng đối nhãn xứ vô tánh tự tánh vô động, năng đối nhĩ tỷ thiệt thân
ý xứ vô tánh tự tánh vô động. Năng đối sắc xứ vô tánh tự tánh vô động,
năng đối thanh hương vị xúc pháp xứ vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối nhãn giới vô tánh tự tánh vô động, năng đối nhĩ tỷ thiệt
thân ý giới vô tánh tự tánh vô động. Năng đối sắc giới vô tánh tự tánh vô
động, năng đối thanh hương vị xúc pháp giới vô tánh tự tánh vô động. Năng
đối nhãn thức giới vô tánh tự tánh vô động, năng đối âm tỷ thiệt thân ý
thức giới vô tánh tự tánh vô động. Năng đối nhãn xúc vô tánh tự tánh vô
động, năng đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vô tánh tự tánh vô động. Năng đối
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô tánh tự tánh vô động, năng đối nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối địa giới vô tánh tự tánh vô động, năng đối thủy hỏa phong
không thức giới vô tánh tự tánh vô động. Năng đối vô minh vô tánh tự tánh
vô động; năng đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh lão tử sầu thán khổ ưu não vô tánh tự tánh vô động. Năng đối bố thí
Ba la mật đa vô tánh tự tánh vô động; năng đối tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến. tĩnh tự, bát nhã Ba la mật đa vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối nội không vô tánh tự tánh vô động; năng đối ngoại không,
nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không,
vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn
tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất
khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, vô
tánh tự tánh vô động.
Năng đối bốn tĩnh lự vô tánh tự tánh vô động; năng đối bốn vô
lượng, bốn vô sắc định vô tánh tự tánh vô động. Năng đối bốn niệm trụ vô
tánh tự tánh vô động; năng đối bốn chánh đoạn, bốn thần túc năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vô tánh tự tánh vô động. Năng
đối không giải thoát môn vô tánh tự tánh vô động; năng đối vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn vô tánh tự tánh vô động.
Nãng đối khổ thánh đế vô tánh tự tánh vô động, năng đối tập diệt
đạo thánh đế vô tánh tự tánh vô động. Năng đối tám giải thoát vô tánh tự
tánh vô động; năng đối tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô
tánh tự tánh vô động.
Nãng đối tất cả tam ma địa môn vô tánh tự tánh vô động, năng đối
tất cả đà la ni môn vô tánh tự tánh vô động. Năng đối Bồ tát thập địa vô
tánh tự tánh vô động. Năng đối năm nhãn vô tánh tự tánh vô động, năng đối
sáu thần thông vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối Phật mười lực vô tánh tự tánh vô động; năng đối bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối đại từ vô tánh tự tánh vô động; năng đối đại bi, đại hỷ, đại xả
vô tánh tự tánh vô động. Năng đối pháp vô vong thất vô tánh tự tánh vô
động, năng đối tánh hằng trụ xả vô tánh tự tánh vô động. Năng đối nhất
thiết trí vô tánh tự tánh vô động; năng đối đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí vô tánh tự tánh vô động.
Năng đối quả Dự lưu vô tánh tự tánh vô động; năng đối quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán vô tánh tự tánh vô động. Năng đối Độc giác Bồ đề vô
tánh tự tánh vô động. Năng đôi tất cả hạnh Bồ tát ha ha tát vô tánh tự
tánh vô động. Năng đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vô tánh tự tánh
vô động.
Vì cớ sao? Thiện Hiện! Tự tánh các pháp tức là vô tánh, vô tánh
chẳng năng hiện chứng vô tánh.
Nguồn: www.quangduc.com