Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì
bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tự
tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn tĩnh lự đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, thường vô thường kia cũng
chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được, thường
vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
bốn vô lượng thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc vui hoặc
khổ; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ
sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô sắc
định, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn tĩnh lự đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố
thí Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng
chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được, vui cùng
khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bốn tĩnh
lự thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố thí
như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc ngã hoặc
vô ngã; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc ngã hoặc vô ngã.
Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô
sắc định, tự tánh bốn vô lượng bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn tĩnh lự
đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố
thí Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được, ngã vô
ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bốn vô
lượng thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu bố
thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô
lượng, bốn vô sắc định, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự
tánh bốn tĩnh lự đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô
sắc định đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba
la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng
khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây
hãy không có bốn tĩnh lự thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh
kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên
quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát không; tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định không.
Tự tánh tám giải thoát đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải
tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, tám giải
thoát chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khá được, thường vô thường kia
cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tám giải thoát
thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu bố
thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc
vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát không;
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ không. Tự tánh tám giải đây tức chẳng phải tự
tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, tám thắng xứ chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng
khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mươì biến xứ đều chẳng khá được,
vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
tám giải thoát thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng
tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát
không; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ không. Tự tánh tám giải thoát đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định đây cũng chẳng phải
tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la
mật đa đây, tám giải thoát chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá
được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đều chẳng khá được, ngã
vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tám
giải thoát thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng
tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tám thắng, chín thứ đệ định, mười biến xứ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải
thoát không; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mươì biến xứ không. Tự tánh tám giải thoát đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la
mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, tám giải thoát chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì
sao? Vì trong đây hãy không có tám giải thoát thảy khá được, huống là có
tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba
la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì bốn niệm trụ, tự
tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa
đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá
được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng khá được, thường
vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì bốn
niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, tự tánh bốn chánh đoạn
cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng phải
tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng
chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng khá
được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu
người năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao?
Vì bốn niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn chánh
đoạn cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối
Tịnh giới Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, ngã vô ngã kia
cũng chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng
khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu
người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ
sao? Vì bốn niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn
thần túc cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây
cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa.
Đối Bố thí Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, tịnh bất tịnh
kia cũng chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều
chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong
đây hãy không có bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất
tịnh kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; chẳng
nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường. Vì
cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải thoát môn không; vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Tịnh giới Ba la mật đa
đây, không giải thoát môn chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng
khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều chẳng khá được, thường vô
thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có không
giải thoát môn thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn hoặc
vui hoặc khổ; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vui
hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải thoát môn
không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng phải tự
tánh, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây cũng chẳng phải tự
tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật
đa đây, không giải thoát môn chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng
khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng khá được, vui cùng khổ
kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có không giải
thoát môn thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu
bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn hoặc
ngã hoặc vô ngã; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc
ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải
thoát môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, không giải thoát môn chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều chẳng khá được, ngã
vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có không
giải thoát môn thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người
năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải
thoát môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, không giải thoát môn chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia
cũng chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều chẳng khá
được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có không giải thoát môn thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất
tịnh kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán sáu
thần thông hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì năm nhãn, tự tánh năm
nhãn không; sáu thần thông, tự tánh sáu thần thông không. Tự tánh năm nhãn
đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh sáu thần thông đây cũng chẳng phải tự
tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật
đa đây, năm nhãn chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được;
sáu thần thông chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được.
Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có năm nhãn thảy khá được, huống là có
thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí i
Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán năm nhãn hoặc vui hoặc
khổ; chẳng nên quán sáu thần thông hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì năm
nhãn, tự tánh năm nhãn không; sáu thần thông, tự tánh sáu thần thông
không. Tự tánh năm nhãn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh sáu thần thông
đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật
đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, năm nhãn chẳng khá được, vui cùng khổ kia
cũng chẳng khá được; sáu thần thông chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có năm nhãn thảy khá
được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu
Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán năm nhãn hoặc ngã hoặc vô
ngã; chẳng nên quán sáu thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì năm
nhãn, tự tánh năm nhãn không; sáu thần thông, tự tánh sáu thần thông
không. Tự tánh năm nhãn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh sáu thần thông
đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật
đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, năm nhãn chẳng khá được, ngã vô ngã kia
cũng chẳng khá được; sáu thần thông chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có năm nhãn thảy khá
được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là
tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán năm nhãn hoặc tịnh hoặc
bất tịnh; chẳng nên quán sáu thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ
sao? Vì năm nhãn, tự tánh năm nhãn không; sáu thần thông, tự tánh sáu thần
thông không không. Tự tánh năm nhãn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh
sáu thần thông đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố
thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, năm nhãn chẳng khá được,
tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được; sáu thần thông chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có năm
nhãn thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu
bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên
quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì Phật mười
lực, tự tánh Phật mười lực không; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tự tánh bốn vô sở úy
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Tự tánh Phật mười lực đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la
mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, Phật mười lực chẳng khá được, thường
vô thường kia cũng chẳng khá được; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng đều chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở
vì sao? Vì trong đây hãy không có Phật mười lực thảy khá được, huống là có
thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí
Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán Phật mười lực hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao?
Vì Phật mười lực, tự tánh Phật mười lực không; bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không,
tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Tự tánh
Phật mười lực đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, Phật mười lực
chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được; bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng
khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có Phật mười lực thảy khá
được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu
Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán Phật mười lực hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì
cớ sao? Vì Phật mười lực, tự tánh Phật mười lực không; bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Tự tánh
Phật mười lực đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, Phật mười lực
chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được; bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng
khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có Phật mười lực thảy khá
được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là
tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán Phật mười lực hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Vì cớ sao? Vì Phật mười lực, tự tánh Phật mười lực không; bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng, tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Tự
tánh Phật mười lực đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng
phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, Phật
mười lực chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được; bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh
kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có Phật mười
lực thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu
bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên
quán tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì pháp vô
vong thất, tự tánh pháp vô vong thất không; tánh hằng trụ xả, tự tánh tánh
hằng trụ xả không. Tự tánh pháp vô vong thất đây tức chẳng phải tự tánh,
tự tánh tánh hằng trụ xả đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, pháp vô vong
thất chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; tánh hằng
trụ xả chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì
sao? Vì trong đây hãy không có pháp vô vong thất thảy khá được, huống là
có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố
thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán pháp vô vong thất hoặc
vui hoặc khổ; chẳng nên quán tánh hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ
sao? Vì pháp vô vong thất, tự tánh pháp vô vong thất không; tánh hằng trụ
xả, tự tánh tánh hằng trụ xả không. Tự tánh pháp vô vong thất đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh tánh hằng trụ xả đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa
đây, pháp vô vong thất chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá
được; tánh hằng trụ xả chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá
được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có pháp vô vong thất thảy khá
được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu
Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán pháp vô vong thất hoặc
ngã hoặc vô ngã; chẳng nên quán tánh hằng trụ xả hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì
cớ sao? Vì pháp vô vong thất, tự tánh pháp vô vong thất không; tánh hằng
trụ xả, tự tánh tánh hằng trụ xả không. Tự tánh pháp vô vong thất đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh tánh hằng trụ xả đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa
đây, pháp vô vong thất chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được;
tánh hằng trụ xả chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì
sao? Vì trong đây hãy không có pháp vô vong thất thảy khá được, huống là
có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba
la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán pháp vô vong thất hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Vì cớ sao? Vì pháp vô vong thất, tự tánh pháp vô vong thất không;
tánh hằng trụ xả, tự tánh tánh hằng trụ xả không. Tự tánh pháp vô vong
thất đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tánh hằng trụ xả đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí
Ba la mật đa đây, pháp vô vong thất chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng
chẳng khá được; tánh hằng trụ xả chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có pháp vô vong thất
thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu bố
thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên
quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ
sao? Vì nhất thiết trí, tự tánh nhất thiết trí không; đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí, tự tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không. Tự
tánh nhất thiết trí đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh
tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, nhất thiết trí chẳng
khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí đều chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá
được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nhất thiết trí thảy khá được,
huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là
tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán nhất thiết trí hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc vui hoặc
khổ. Vì cớ sao? Vì nhất thiết trí, tự tánh nhất thiết trí không; đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí, tự tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
không. Tự tánh nhất thiết trí đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng
phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, nhất
thiết trí chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được; đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng
khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có đạo tướng trí thảy khá
được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu
Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán nhất thiết trí hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã
hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì nhất thiết trí, tự tánh nhất thiết trí không;
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, tự tánh đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí không. Tự tánh nhất thiết trí đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây,
nhất thiết trí chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được; đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí đều chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nhất thiết trí thảy
khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu bố thí như
thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán nhất thiết trí hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì nhất thiết trí, tự tánh nhất thiết trí
không; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, tự tánh đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí không. Tự tánh nhất thiết trí đây tức chẳng phải tự tánh,
tự tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa
đây, nhất thiết trí chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được;
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia
cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nhất thiết trí
thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu bố
thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bố thí Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật
đa, chẳng nên quán tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường; chẳng
nên quán tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì
tất cả đà la ni môn, tự tánh tất cả đà la ni môn không; tất cả tam ma địa
môn, tự tánh tất cả tam ma địa môn không. Tự tánh tất cả đà la ni môn đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tất cả tam ma địa môn đây cũng chẳng phải
tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Tịnh giới Ba
la mật đa đây, đà la ni môn chẳng khá được, thường vô thường kia cũng
chẳng khá được; tất cả tam ma địa môn chẳng khá được, thường vô thường kia
cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tất cả đà la ni
môn thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng
tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả đà la ni môn hoặc
vui hoặc khổ; chẳng nên quán tất cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ. Vì
cớ sao? Vì tất cả đà la ni môn, tự tánh tất cả đà la ni môn không; tất cả
tam ma địa môn, tự tánh tất cả tam ma địa môn không. Tự tánh tất cả đà la
ni môn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tất cả tam ma địa môn đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa. Đối Bố
thí Ba la mật đa đây, tất cả đà la ni môn chẳng khá được, vui cùng khổ kia
cũng chẳng khá được; tất cả tam ma địa môn chẳng khá được, vui cùng khổ
kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tất cả đà la
ni môn thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu bố
thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả đà la ni môn hoặc
ngã hoặc vô ngã; chẳng nên quán tất cả tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô
ngã. Vì cớ sao? Vì tất cả đà la ni môn, tự tánh tất cả đà la ni môn không;
tất cả tam ma địa môn, tự tánh tất cả tam ma địa môn không. Tự tánh tất cả
đà la ni môn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tất cả tam ma địa môn đây
cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la mật đa.
Đối Bố thí Ba la mật đa đây, tất cả đà la ni môn chẳng khá được, ngã vô
ngã kia cũng chẳng khá được; tất cả tam ma địa môn chẳng khá được, ngã vô
ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tất cả
đà la ni môn thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người
năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu Bố thí Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả đà la ni môn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tất cả tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Vì cớ sao? Vì tất cả đà la ni môn, tự tánh tất cả đà la ni môn
không; tất cả tam ma địa môn, tự tánh tất cả tam ma địa môn không. Tự tánh
tất cả đà la ni môn đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tất cả tam ma địa
môn đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức Bố thí Ba la
mật đa. Đối Bố thí Ba la mật đa đây, tất cả đà la ni môn chẳng khá được,
tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được; tất cả tam ma địa môn chẳng khá
được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có tất cả đà la ni môn thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh
kia. Nếu người năng tu bố thí như thế là tu Bố thí Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh Bố thí
Ba la mật đa.