.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông
Tập III
---o0o---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
1.
Những
nhận thức sai lầm thuộc phạm vi Hành ấm
2.
Những nhận
thức sai lầm thuộc phạm vi Thức ấm
3.
Phần
lưu thông
I - NHỮNG NHẬN THỨC SAI
LẦM THUỘC PHẠM VI HÀNH ẤM [^]
A
Nan ! Thiền giả tu tập tam ma đề khi
tưởng ấm đã hết thì những tư
tưởng bình nhật của người đó đã
diệt hết; lúc ngủ, khi thức luôn luôn
được giác chiếu rỗng lặng như hư
không trong sạch. Những mộng tưởng thô
trọng không còn; Nhìn xem cảnh vật, núi,
sông, đất liền như một tấm gương trong
sáng, đến đi không vướng mắc, qua lại
bặt dấu chân, chỉ còn một tánh tinh
chân tịch tĩnh. Căn nguyên của mọi hiện
tượng sanh diệt từ đây phô bày
trước mắt. Bấy giờ thiền giả thấy
rõ 12 loại chúng sanh trong thế giới
mười phương; dù chưa thấu suốt manh
mối của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy
được cơ sở sanh diệt của các chủng
loại như bóng dã mã nhấp nhóng hiện ra
như mờ như tỏ, chưa xác định rõ ràng.
Đó là phạm vi hành ấm.
Chừng
nào những hình bóng lăng xăng như bóng
dã mã kia được đứng lặng hoàn toàn
như mặt nước ao thì đó là biểu hiện
hành ấm đã vượt qua rồi, thiền giả
lúc bấy giờ từ bỏ hết chúng sanh
được.
A
Nan ! Ông nên biết, thiền giả có
được sự hiểu biết đúng đắn, chánh
tâm tỉnh trụ trong xa ma tha tam ma bát đề
thì mười loại thiên ma thuộc thức ấm
kia không còn có cơ hội khuấy phá
được nữa. Nhưng trong lúc tư duy nghiên
cứu nguồn gốc sinh loại, nghiên cứu
đến tột cùng, bấy giờ đầu mối sanh
diệt chuyển động lăng xăng u ẩn của
sự vật hiện tượng kia, rồi móng tâm
cân nhắc so đo và cuối cùng chấp cho
đó tánh bản nguyên của vạn pháp. Do
đó, họ sa vào chỗ nhận thức sai lầm,
chủ trương: "Vô nhân luận" với
hai luận cứ sau.
Một
là, theo sự thấy biết của họ thì tất
cả chúng sanh không có nguyên nhân, tự
nó sanh ra kể từ tám muôn kiếp trở
lại đây mà thôi. Tùy theo dòng nghiệp
báo, có thể chết đây sanh kia xoay dần
trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì vạn
vật "vô nhân".
Hai
là, họ cho rằng tất cả chúng sanh không
có nguyên nhân cuối cùng. Theo chỗ thấy
biết của họ thì người sanh người, chim
sanh chim, quạ thì đen, hạc thì trắng,
loài người đứng thẳng sống, loài
thú lưng nằm ngang, màu trắng của hạc
không do tẩy, màu đen của quạ không do
nhuộm; suốt tám muôn kiếp vẫn không
hề dời đổi; đời nầy đời khác
vẫn như vậy, xưa nay cứ theo qui luật cũ
mà lập đi lập lại. Do đó, họ cho rằng
họ không hề thấy có gì là Bồ đề,
thì làm sao có vấn đề thành đạo Bồ
đề, có chứng có ngộ. Quả là mọi
sự vật "Vô nhân".
Do
những kiến chấp như thế bỏ mất tánh
chánh biến tri, lạc vào tà giáo ngoại
đạo, đốt cháy hạt giống Bồ đề. Đó
là bọn ngoại đạo thứ nhất, chủ
trương "VÔ NHÂN LUẬN".
A
Nan ! Lại có hạng thiền giả trụ trong tam
ma đề, tâm đứng lặng rỗng rang, chuyên
chú tìm xét nguồn gốc các loại chúng
sanh, họ thấy cái tánh chuyển động
luôn luôn không ngừng, bèn khởi sanh
ý niệm chấp "thường", họ chủ
trương cái thuyết vạn vật "vĩnh
viễn thường" của bốn luận cứ:
Một
là: Tâm và cảnh vốn không có nguồn
gốc. Tuy nhiên tất cả thập phương chúng
sanh, sanh ra và diệt đi, sanh diệt diệt
sanh trong vòng hai muôn kiếp thì không hề
tan mất. Do đó họ cho sinh loại là
"thường".
Hai
là: Họ thấy tứ đại là thường còn,
thập phương chúng sanh dù có sinh có
diệt, tuy nhiên trong phạm vi thời gian
bốn muôn kiếp xoay dần sanh diệt nhưng
bản thể không hề tan mất. Vì vậy, họ
chủ trương trong sinh loại là
"thường".
Ba
là: Họ cho tứ đại thường còn, trong
phạm vi bốn muôn kiếp, thập phương
chúng sanh dù có sinh diệt, nhưng bản
thể thường còn không hề tan mất. Do
vậy, họ chủ trương vạn vật là
"thường".
Bốn
là: Họ xét tội bản lai của sáu căn,
của sự chấp thọ, của ý thức của
mạt na thức, A lại da thức tánh vẫn
thường. Vì vậy, trong phạm vi tám muôn
kiếp, tất cả chúng sanh trong thập phương
dù có sanh có diệt, nhưng bản thể vẫn
thường. Vì vậy, họ chủ trương vạn
vật là "thường".
Do
những chấp mắc sai lầm hạn hẹp trong
phạm vi thấy biết của họ, mà bỏ chánh
biến tri, lạc vào ngoại đạo, mai một
tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo
thứ hai chủ trương "Viên thường
luận".
Lại
có thiền giả trụ trong tam ma đề, chánh
tâm đứng lặng, tìm xét nguồn cội các
loại chúng sanh và cái tánh chuyển
động kín nhiệm liên tục của sự vật,
họ cân nhắc so đo và sanh kiến chấp
giữa mình và cái khác. Do kiến chấp sai
lầm điên đảo, họ chủ trương:
"một phần thường, một phần vô
thường" qua bốn luận cứ!
Một
là: Họ quán cái tâm của họ là tâm
nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng
khắp mười phương thế giới; họ cho
đó là cái thần ngã là cái
"ta" cứu kính. Do đó họ chấp
có cái ta nhiệm mầu sáng suốt đứng
lặng cùng khắp mười phương không lay
động. Còn tất cả chúng sanh thì ở
trong tâm ta tự sanh tự chết. Vậy tâm
tánh của "ta" là thường còn
những bọn chúng sanh kia thì là vô
thường.
Hai
là: Hạng thiền giả không quán xét cái
tâm mà chỉ quán xét cõi nước trong
hằng sa quốc độ. Họ thấy có chỗ bị
thiên tai địa chấn hủy hoại, họ kết
luận đó là tánh rốt ráo vô thường;
còn những chỗ không bị kiếp tai phá
hoại thì họ bảo đó rốt ráo thường.
Ba
là: Hạng quán xét cái tâm, cho rằng
tâm mình tinh vi nhỏ nhiệm giống như vi
trần lưu chuyển trong mười phương mà
không bị biến chất, lại có thể gá
hợp với thân, sanh rồi diệt, diệt lại
sanh mà vẫn thường còn. Đó là tánh
thường; còn sự sống chết diệt sanh
từ cái tánh ấy sanh ra thì gọi là vô
thường.
Bốn
là: Hạng thiền giả họ biết được
cái lúc tưởng ấm của họ hết và
đồng thời họ cũng biết họ còn đang
ở trong phạm vi của hành ấm. Do đó họ
chấp cho hành ấm là tánh thường, còn
sắc, thọ, tưởng ấm đã hết, họ cho
đó vô thường.
Chủ
trương "một phần thường, một phần
vô thường: như thế phát xuất từ
hiểu biết hạn hẹp đối với chân lý,
cho nên sai lầm, vì cái nhận thức chân
lý của họ chỉ ngang tầm cỡ đó chưa
vượt lên được nữa, họ lầm mất
tánh Bồ đề. Đó là hạng người đạo
thứ ba, lập luận: "một phần
thường, một phần vô thường".
Lại
có hạng thiền giả trong tam ma đề nghiền
ngẫm cội nguồn hiện tượng vạn hữu,
bỗng sanh tâm chấp mắc về phạm vi. Bằng
vào sự hiểu biết của mình họ dựng
lên thuyết: Hữu biên vô biên luận, qua
bốn luận cứ như sau:
Một
là, Họ cho là cội gốc sanh tử thì lưu
chuyển tương tục không ngừng, rồi chấp
quá khứ và vị lai là hữu biên. Còn
cái tâm chịu sự sanh tử tương tục là
vô biên.
Hai
là: Theo họ, trong tám muôn kiếp trở
lại, thấy có chúng sanh, còn trước
tám muôn kiếp thì bằng bặc không nghe
thấy gì. Họ cho rằng chỗ không nghe thấy
là vô biên; còn chỗ có chúng sanh là
hữu biên.
Ba
là: Họ cho rằng họ có cái biết cùng
khắp, họ được tánh vô biên; các
người khác sanh ra trong cái biết của
họ nên chỉ có tánh hữu biên.
Bốn
là: Hạng thiền giả đã diệt hết hành
ấm, theo tri kiến của họ, thì thân của
chúng sanh có một nửa sanh, một nửa
diệt, còn các hiện tượng sự vật
của thế gian có một nửa hữu biên,
một nửa vô biên.
Do
sự chấp, mắc sai lầm như thế rơi vào
ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó
là loại ngoại đạo thứ tư chủ trương:
Hữu biên vô biên luận.
Lại
có thiền giả trụ tam ma đề trong lúc
nghiền ngẫm cội gốc sanh diệt của hiện
tượng vạn hữu, bỗng sanh kiến giải sai
lầm chấp mắc điên đảo. Họ dựng
luận thuyết "Bất tử càn loạn"
với bốn luận cứ:
Một
là: Hạng thiền giả trong lúc quan sát
về cội nguồn biến hóa, họ thấy: cái
có dời đổi thì gọi là biến; cái gì
tương tục thì gọi là thường; chỗ
thấy được thì gọi là sanh; chỗ không
thấy được gọi là diệt; chỗ tương
tục gọi là thêm; chỗ có tiếp giáp
của sự tương tục gọi là bớt; chỉ
sự vật sanh ra gọi là có; chỗ tương
đối không có gọi là không. Do kiến
chấp như vậy, cho nên có ai cầu pháp
hỏi nghĩa lý về đạo, họ đáp: Ta nay
cũng sanh, cũng diệt; cũng có mà cũng
không; cũng thêm và cũng bớt. Lúc
nào cũng nói lộn quanh khiến cho người
nghe không sao hiểu được. Rồi lầm
tưởng là mình thấp thỏi còn vị ấy
thuyết pháp quá "cao siêu" !
Hai
là: Hạng thiền giả chuyên chú xa ma tha
tam ma bát đề, nhưng chưa rõ thấu chân
lý "không"; Họ cho rằng nhân
cái không mà được chứng đạo, họ
chỉ đáp bằng một chữ "không".
Ngoài tiếng không, họ chẳng biết gì
nữa.
Ba
là: Hạng thiền giả sai lầm về chân lý
"có". Họ cho tất cả đều có
và do nhận biết vạn pháp là có mà
được chứng đạo. Vì vậy, nếu có ai
hỏi đến đạo, họ chỉ đáp một chữ
"có". Ngoài chữ có, không còn
nói được gì nữa.
Bốn
là: Hạng thiền giả chấp ngoại cảnh
vừa có vừa không. Vì hoang mang trước
cảnh, nên tâm cũng rối loạn. Nếu có
ai đến hỏi về đạo lý, họ đáp rằng:
vạn vật "cũng có tức là cũng
không; trong cái cũng không, không phải
là cũng có". Chúng nói một cách
rối loạn càn bậy không sao đúc kết
được vấn đề. Do những thứ chấp
mắc rối loạn càn bậy như thế mà lạc
vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề.
Đó là loại ngoại đạo thứ năm, chủ
trương lập ra bốn thứ lý luận "Xà
quần" gọi là: "Càn loạn bất
tử luận".
Lại
có hạng thiền giả chuyên chú Xa ma tha
tam ma bát đề, chánh tâm đứng lặng
trong lúc tư duy tìm xét nguồn gốc các
sinh loại, bỗng tâm chấp mắc khởi lên,
chủ trương cho rằng có dòng sanh diệt
vô tận cho nên sau khi con người chết
còn có cái tướng diệt sanh vô tận.
Họ mê chấp kiến giải sai lầm của mình:
Sắc là ta; ta là sắc; Sắc thuộc về ta;
ta ở trong sắc. Đối với thọ, tưởng,
hành cũng theo lối lý luận như vậy
thành ra 16 tướng. Dó chấp mắc như
vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh
Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ
sáu chủ trương "Ngũ ấm sau khi chết
còn có tướng".
Lại
có hạng thiền giả an trú trong tam ma
đề, đứng lặng vọng tưởng, tìm xét
nguồn gốc sinh loại, bỗng sa vào điên
đảo khởi chấp: Sau khi chết không có
tướng. Họ cho rằng sau khi chết sắc
chẳng còn tồn tại, thọ, tưởng không
còn chỗ để tác động gá nương. Vì
vậy, sau khi chết không còn có tướng
cho đến nhân quả cũng không, Niết bàn
cũng không, chỉ có danh tự, kiến chấp
như vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất
tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo
thứ bảy lập luận: Sau khi chết không
còn tướng.
Lại
có hạng thiền giả sai lạc vào tà
chấp: cho rằng cái có và cái không
tự nó đánh đổ nhau. Do vậy, họ lập
luận: Sau khi chết không phải có, không
phải không. Kiến chấp sai lầm đó khiến
cho người tu thiền mờ tịt đường, sau
rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ
đề. Ấy gọi là loại ngoại đạo thứ
tám lập luận: Sau khi chết không phải
có, không phải không.
Lại
có hạng thiền giả tu tập tam ma đề
bỗng khởi sanh kiến chấp đoạn diệt.
Họ cho rằng: hết thân nầy là diệt;
ngũ dục là diệt, hết khổ là diệt;
tột vui là diệt, xả hết là diệt; chấp
xoay dần bảy cách đoạn diệt. Do kiến
chấp sai lầm, lạc vào ngoại đạo, lầm
mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại
đạo thứ chín, lập luận: Sau khi chết
là dứt hẳn.
Lại
có hạng thiền giả trong tam ma đề chánh
tâm đứng lặng, trong lúc tìm xét nguồn
gốc sinh loại đến chỗ u ẩn, bỗng sanh
tâm chấp: "Sau nầy còn có".
Dựa vào kiến giải đó, họ chủ
trương: Niết bàn luận có năm thứ:
Một,
Dục giới là Niết bàn, vì qua sự thấy
biết của họ Dục giới vẫn có những
sự trong sáng đáng yêu và Dục giới
là cơ sở chuyển sanh tử ra Niết bàn.
Hai,
Sơ thiền là Niết bàn, vì cõi Sơ thiền
không còn ưu thọ.
Ba, Nhị thiền là Niết bàn, vì cõi
Nhị thiền không còn khổ thọ.
Bốn, Tam thiền là Niết bàn, vì cõi
Tam thiền rất vui đẹp.
Năm, Tứ thiền là Niết bàn, vì Tứ
thiền đã dứt hết khổ và vui. Họ cho
rằng đạt đến cõi Tứ thiền không
còn sinh tử luân hồi.
Những
cõi trời đó được quả báo an lạc
có mức độ, là phước báo hữu lậu,
chưa phải là cảnh giới thù thắng thanh
tịnh của bậc Thánh hiền. Vì lầm chấp
năm thứ Niết bàn phi chân lý nên sa
vào ngoại đạo, sai mất tánh Bồ đề.
Đó là loại ngoại đạo thứ mười,
lập luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm
có năm thứ Niết bàn.
A
Nan ! Mười thứ hiểu biết điên rồ
trong Thiền na như vậy là do hành ấm và
dụng công chuyển hóa giữa vọng và
chân giao tranh nhau mà sanh ra; chúng sanh
mê muội không biết, gặp những cảnh
như vậy cho rằng mình được chứng đắc
Thánh quả sanh tâm ngạo mạn, khoác lác,
khoe khoan với ý đồ mê hoặc, bịp bợm
người mộ đạo để hổng tom góp lợi
dưỡng thỏa mãn hư danh. Hạng ngu si như
thế chỉ gạt được những người có
tâm mộ đạo mà thiếu học đạo thôi.
Với nhãn quang của người trí tuệ tham
cứu tinh thường tam tạng giáo điển,
nghe qua đã biết cửa địa ngục mở
rộng để chờ đón bọn vô minh hắc ám
chỉ biết có lợi dưỡng nầy.
Sau
Như Lai diệt độ, A Nan ! các ông là
những trưởng tử Như Lai phải truyền
bá chánh pháp, khiến cho những người
ham mộ Bồ đề, Niết bàn hiểu rõ
những sai trái nói trên. Có như vậy
mới thẳng tiến trên đường Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác mà
không sợ lạc lầm.
II
- NHỮNG NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI
THỨC ẤM [^]
Phật
bảo ! Nầy A Nan ! Người chuyên tu xa ma tha
tam ma bát đề, đến khi Hành ấm hết
rồi thì những nguyên nhân luân hồi
từ nghiệp thô đến tế gần như bặc
hẳn; với quả giải thoát giác ngộ
người nầy bước đến chẳng còn xa, ví
như gà gáy canh năm, nhìn về phương
đông đã có hừng sáng ở chân
trời. Ở giai đoạn nầy, thiền giả sáu
căn rỗng lặng không còn rong ruỗi trần
cảnh, nội tâm ngoại thân đều trong
sáng, thể nhập tánh vô sở nhập. Thấu
suốt nguồn gốc của sinh loại. Thấy biết
được tánh tổng quát của thế giới,
chỉ còn phần tinh vi u uẩn chưa tận
tường. Đó là trạng thái của thiền
giả đang còn ở trong phạm vi của thức
ấm.
Cho
đến khi sáu căn viên dung, hổ dụng,
bấy giờ thân tâm và mười phương
thế giới trong sáng như ngọc lưu ly. Đó
là hiện tượng biểu hiện của thiền
giả đã hết thức ấm và vượt qua
mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại
nguồn gốc của mọi mê lầm thì tất cả
chỉ là vọng tưởng điên đảo như
huyễn hóa chẳng có gì.
A
Nan ! Thiền giả hết thức ấm vượt qua
mạng trược, đã diệt được cái quan
niệm sanh diệt nhưng chưa đạt đến cái
vui tịch diệt, lục căn của người nầy
thông suốt, cái hiểu biết của họ dung
lặng rỗng thông cùng 10 loài chúng sanh
trong mười phương. Dựa trên sự hiểu
biết rộng rãi bao quát đó, họ lập ra
cái luận thuyết gọi là "nhân chân
thường" và chấp mắc nơi đó nên
trở thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp
có Minh đế, mê muội Bồ đề Phật, bỏ
mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại
đạo thứ nhất chủ trương: có tâm
năng đắc và có cái sở qui.
Lại
có thiền giả ở trong tam ma đề, tâm
tánh sáng suốt rỗng rang gần đến chỗ
viên mãn, bỗng cảm thấy cảnh đối
tượng sở qui mà mình cần phải nương
tựa. Rồi tự nghĩ rằng: thân tâm mình
từ chỗ kia sanh ra, thập phương hư không
và thế giới đều từ nơi thân của
mình mà sanh ra, do vậy sa vào cái chấp
"năng phi năng", thành bạn bè
với bọn Ma hê thủ la, hiện ra thân vô
biên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất
chánh tri kiến, đó là loại ngoại đạo
thứ hai, lập cái "tâm năng vi"
thành cái quả "năng sự" trái
ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống
Đại mạn thiên, chấp có "cái
ta" khắp cùng pháp giới.
Lại
có thiền giả, trong tam ma bát đề chuyên
chú bỗng thấy có chỗ "sở qui",
rồi nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh
ra và cả thập phương hư không cũng từ
chỗ kia sanh ra; rồi nhận "cái chỗ
kia" ấy là cái thể chân thường
không sanh diệt lại chấp cho là thường
trú, chẳng những lầm tánh bất sanh mà
cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị
rơi vào cái chấp "thường phi
thường", thành bè bạn những kẻ
chấp có Tự tại thiên, mê muội Bồ
đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó
là loại ngoại đạo thứ ba, lập cái
tâm nhân y thành cái quả vọng kế,
trái với cái nhân Bồ đề Niết bàn
sanh ra giống điên đảo.
Lại
có thiền giả, định tâm trong sáng, an
trú tam ma đề bỗng nảy sinh sự hiểu
biết khắp cùng và cho rằng: cỏ cây
trong vũ trụ cũng vẫn là hữu tình,
giống như con người không khác. Rằng
cỏ cây làm người, người làm cỏ
cây; thế là bị rơi vào cái chấp
"tri vô tri" thành bè bạn với
bọn Ba tra tiển ni chấp tất cả đều có
hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là
bọn ngoại đạo thứ tư, chấp cái tâm
"viên tri", thành cái quả thố
mậu, trái tánh Niết bàn sanh ra giống
Đảo tri.
Lại
có thiền giả chuyên chú tam ma đề,
thân tâm thanh tịnh các căn có thể
dùng thay thế cho nhau (lục căn hỗ dụng)
bỗng dưng phát sanh cái ánh sáng của
hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh
cái tánh sáng của hỏa đại, ưa thích
cái tánh thanh tịnh của thủy đại, yêu
quí cái chu lưu của phong đại, nghiền
ngẫm cái thành tựu của địa đại rồi
sùng phụng mỗi thứ, nhận tứ đại kia
là bản thân và cho đó là tánh
thường trụ, rơi vào cái chấp "sinh
vô sinh", thành bè bạn của bọn Ca
diếp ba và bọn Bà la môn đem hết thân
tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra
khỏi sanh tử. Đó là hàng thiền giả
mê muội chánh tri kiến, lầm lạc
đường Bồ đề, thuộc hàng ngoại đạo
thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu
cái quả giả huyễn, đi ngược dòng
Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên
đảo cái lý sinh hóa của hiện tượng
vạn pháp).
Lại
có thiền giả tự trụ tam ma đề tâm
thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi cái tâm
chấp "trống rỗng" phủ nhận sự
biến hóa của vạn vật, lấy cái tánh
đoạn diệt làm chỗ nương tựa của
mình; thế là sa vào cái chấp "Quy
vô quy", thành bè bạn với bọn
chấp không trong vô tưởng thiên, mê
muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri
kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ
sáu, chìm đắm trong tâm hư vô, lập ra
cái quả trống rỗng đi ngược dòng
Niết bàn, sinh giống đoạn diệt.
Lại
có thiền giả trụ trong tam ma đề tâm
được đứng lặng sáng suốt, bỗng
khởi lên ý niệm muốn củng cố cái
thân, làm cho cái thân trở thành chân
tường bất hoại, ý niệm phi chơn lý,
khiến cho thiền giả rơi vào cái chấp
"tham phi tham", thành bè bạn của A
tư đà, một vị Tiên tham vọng trường
sanh, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất
chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo
thứ bảy tham chấp cái mạng căn, lập
cái nhân củng cố vọng thân để cầu
cái quả kéo dài lao khổ, trái tánh
viên thông đi ngược đường Niết bàn,
sinh ra giống vọng điên.
Lại
có hàng thiền giả trong tam ma đề nghiền
ngẫm tánh không của các hành pháp,
bỗng khởi tâm muốn giữ trần lao vì
sợ trần lao tiêu hết. Bấy giờ thiền
giả vận dụng đạo lực hóa hiện tự
thân ở Liên hoa cung, thất bảo huy
hoàng, cực kỳ tráng lệ; tai hóa hiện
ra nhiều gái đẹp xinh để cùng vui
hưởng thụ thỏa mãn tâm buông lung.
Sự đam mê đó khiến cho hành giả sa
vào cái chấp "chân vô chân",
thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê
muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri
kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ
tám, lập cái nhân tà tu thành cái quả
xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại
có thiền giả an trú trong xa ma tha tam ma
thiền na tham cứu xét tột tánh không
của các hành pháp nhưng chưa đạt đến
chỗ tịch diệt viên mãn, ở nơi thể
viên minh nguồn gốc của sinh mạng sanh ra
ý niệm phân biệt cái thô, cái phần
chân, phần ngụy nghĩa là nhận rõ về
khổ đế, đoạn trừ tập đế, cầu
chứng diệt đế, thực hành đạo đế.
Khi chứng diệt đế rồi, không cầu tiến
thêm và bằng lòng cho đó là cái đích
cứu cánh sở đắc của mình. Người
khởi chấp như vậy gọi là định tánh
Thanh Văn, thành bè bạn của Vô văn
tăng, vướng phải bệnh tăng thượng
mạn, mê muội Bồ đề Phật, mất hết
chánh tri kiến; đó là bọn thứ chín
mong cầu cái tâm ứng nghiệm viên mãn
thành cái quả thú tịch diệt, trái với
tánh viên thông, ngược lại đường
Niết bàn sinh ra hạng người triền
không.
Lại
có thiền giả ở trong xa ma tha tam ma bát
đề, rõ suốt được tánh không của
các hành pháp, bấy giờ ở trong tánh
giác minh thanh tịnh, phát minh tánh thâm
diệu rồi nhận đó là Niết bàn, không
có tâm cầu tiến, thế là sa vào hàng
định tánh Bích chi, thành bè bạn của
hàng Duyên giác, Độc giác. Nếu trụ
ở đây, không phát tâm hướng
thượng đại thừa thì mất đi chánh tri
kiến, mê muội Bồ đề Phật, trở thành
bọn thứ mười họ thành tựu được
giác tâm vắng lặng lập ra cái quả
trạm nhiên, trái với tánh viên thông,
đi ngược đường Niết bàn vô thượng
sinh ra một hạng giác ngộ viên minh nhưng
không tiêu hóa được cái tánh viên
minh sở qui.
A
Nan ! Mười thứ thiền na như vậy,
người tu hành giữa lúc đang tinh tấn
say mê bỗng có thể hóa điên cuồng
đãng trí, vì đam mê theo cái vọng kiến
trong lúc dụng công. Những cảnh giới,
những cái thấy biết trong thiền na chưa
phải là cảnh giới tối hậu cần đạt
đến. Thiền giả nhận thức sai lầm chỗ
chưa đủ cho là đủ, khởi tâm năng
đắc, được cảnh sở chứng, tưởng
đó là cảnh giới Vô thượng Bồ đề,
tự cao tự mãn cho rằng mình đã chứng
Thánh quả, mắc tội đại vọng ngữ. Khi
nghiệp báo hết rồi phải sa vào địa
ngục; còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì
không tiến lên được nữa.
A
Nan ! Sau Như Lai diệt độ, các ông hãy
trân trọng ghi nhớ lời dạy của Phật,
đem những pháp môn Như Lai dạy truyền
bá, khiến cho chúng sanh đời sau những
người phát tâm tu Thiền na biết rõ
những cảnh giới hư vọng hiện ra trong
lúc tu thiền và những tư duy lệch lạc,
những chấp mắc sai lầm cho ngũ ấm ma
vọng khởi. Người tu tập thiền na phải
luôn luôn đề cao cảnh giác mới tránh
khỏi các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại
mà hoang phí một đời tu. Các ông phải
sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ
chánh tri kiến của Phật, từ lúc ban
đầu cho đến khi thành tựu, không dễ
đi lạc vào các con đường tẻ của
ngoại đạo, do lầm chấp và đam mê theo
vọng cảnh tà kiến bởi sự "che
phủ" của các ma ngũ ấm.
Các
Như Lai trong mười phương đã vận dụng
trí tuệ ba la mật, khéo léo vượt qua
mà thẳng tiến đến Vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Chừng nào thức ấm
hết rồi thì hiện tiền sáu căn sẽ
trở thành hỗ dụng, có thể thay thế cho
nhau, bấy giờ hành giả sẽ lên bậc kim
cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái tâm trong
sáng tròn đầy được tỏ rõ như mặt
trăng dằn dặc ảnh hiện trong viên ngọc
lưu ly toàn bích. Rồi cứ thế mà vượt
lên thứ bậc: thập tín, thập trụ, thập
hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và
thập địa kim cang đạo. Bấy giờ tánh
đẳng giác được tròn đầy vào bể
Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên mãn
đạo Bồ đề, về đến chỗ "VÔ SỞ
ĐẮC".
Phật
bảo ! Nầy A Nan ! Người chuyên tu xa ma tha
tam ma bát đề, đến khi Hành ấm hết
rồi thì những nguyên nhân luân hồi
từ nghiệp thô đến tế gần như bặc
hẳn; với quả giải thoát giác ngộ
người nầy bước đến chẳng còn xa, ví
như gà gáy canh năm, nhìn về phương
đông đã có hừng sáng ở chân
trời. Ở giai đoạn nầy, thiền giả sáu
căn rỗng lặng không còn rong ruỗi trần
cảnh, nội tâm ngoại thân đều trong
sáng, thể nhập tánh vô sở nhập. Thấu
suốt nguồn gốc của sinh loại. Thấy biết
được tánh tổng quát của thế giới,
chỉ còn phần tinh vi u uẩn chưa tận
tường. Đó là trạng thái của thiền
giả đang còn ở trong phạm vi của thức
ấm.
Cho
đến khi sáu căn viên dung, hổ dụng,
bấy giờ thân tâm và mười phương
thế giới trong sáng như ngọc lưu ly. Đó
là hiện tượng biểu hiện của thiền
giả đã hết thức ấm và vượt qua
mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại
nguồn gốc của mọi mê lầm thì tất cả
chỉ là vọng tưởng điên đảo như
huyễn hóa chẳng có gì.
A
Nan ! Thiền giả hết thức ấm vượt qua
mạng trược, đã diệt được cái quan
niệm sanh diệt nhưng chưa đạt đến cái
vui tịch diệt, lục căn của người nầy
thông suốt, cái hiểu biết của họ dung
lặng rỗng thông cùng 10 loài chúng sanh
trong mười phương. Dựa trên sự hiểu
biết rộng rãi bao quát đó, họ lập ra
cái luận thuyết gọi là "nhân chân
thường" và chấp mắc nơi đó nên
trở thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp
có Minh đế, mê muội Bồ đề Phật, bỏ
mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại
đạo thứ nhất chủ trương: có tâm
năng đắc và có cái sở qui.
Lại
có thiền giả ở trong tam ma đề, tâm
tánh sáng suốt rỗng rang gần đến chỗ
viên mãn, bỗng cảm thấy cảnh đối
tượng sở qui mà mình cần phải nương
tựa. Rồi tự nghĩ rằng: thân tâm mình
từ chỗ kia sanh ra, thập phương hư không
và thế giới đều từ nơi thân của
mình mà sanh ra, do vậy sa vào cái chấp
"năng phi năng", thành bạn bè
với bọn Ma hê thủ la, hiện ra thân vô
biên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất
chánh tri kiến, đó là loại ngoại đạo
thứ hai, lập cái "tâm năng vi"
thành cái quả "năng sự" trái
ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống
Đại mạn thiên, chấp có "cái
ta" khắp cùng pháp giới.
Lại
có thiền giả, trong tam ma bát đề chuyên
chú bỗng thấy có chỗ "sở qui",
rồi nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh
ra và cả thập phương hư không cũng từ
chỗ kia sanh ra; rồi nhận "cái chỗ
kia" ấy là cái thể chân thường
không sanh diệt lại chấp cho là thường
trú, chẳng những lầm tánh bất sanh mà
cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị
rơi vào cái chấp "thường phi
thường", thành bè bạn những kẻ
chấp có Tự tại thiên, mê muội Bồ
đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó
là loại ngoại đạo thứ ba, lập cái
tâm nhân y thành cái quả vọng kế,
trái với cái nhân Bồ đề Niết bàn
sanh ra giống điên đảo.
Lại
có thiền giả, định tâm trong sáng, an
trú tam ma đề bỗng nảy sinh sự hiểu
biết khắp cùng và cho rằng: cỏ cây
trong vũ trụ cũng vẫn là hữu tình,
giống như con người không khác. Rằng
cỏ cây làm người, người làm cỏ
cây; thế là bị rơi vào cái chấp
"tri vô tri" thành bè bạn với
bọn Ba tra tiển ni chấp tất cả đều có
hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là
bọn ngoại đạo thứ tư, chấp cái tâm
"viên tri", thành cái quả thố
mậu, trái tánh Niết bàn sanh ra giống
Đảo tri.
Lại
có thiền giả chuyên chú tam ma đề,
thân tâm thanh tịnh các căn có thể
dùng thay thế cho nhau (lục căn hỗ dụng)
bỗng dưng phát sanh cái ánh sáng của
hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh
cái tánh sáng của hỏa đại, ưa thích
cái tánh thanh tịnh của thủy đại, yêu
quí cái chu lưu của phong đại, nghiền
ngẫm cái thành tựu của địa đại rồi
sùng phụng mỗi thứ, nhận tứ đại kia
là bản thân và cho đó là tánh
thường trụ, rơi vào cái chấp "sinh
vô sinh", thành bè bạn của bọn Ca
diếp ba và bọn Bà la môn đem hết thân
tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra
khỏi sanh tử. Đó là hàng thiền giả
mê muội chánh tri kiến, lầm lạc
đường Bồ đề, thuộc hàng ngoại đạo
thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu
cái quả giả huyễn, đi ngược dòng
Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên
đảo cái lý sinh hóa của hiện tượng
vạn pháp).
Lại
có thiền giả tự trụ tam ma đề tâm
thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi cái tâm
chấp "trống rỗng" phủ nhận sự
biến hóa của vạn vật, lấy cái tánh
đoạn diệt làm chỗ nương tựa của
mình; thế là sa vào cái chấp "Quy
vô quy", thành bè bạn với bọn
chấp không trong vô tưởng thiên, mê
muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri
kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ
sáu, chìm đắm trong tâm hư vô, lập ra
cái quả trống rỗng đi ngược dòng
Niết bàn, sinh giống đoạn diệt.
Lại
có thiền giả trụ trong tam ma đề tâm
được đứng lặng sáng suốt, bỗng
khởi lên ý niệm muốn củng cố cái
thân, làm cho cái thân trở thành chân
tường bất hoại, ý niệm phi chơn lý,
khiến cho thiền giả rơi vào cái chấp
"tham phi tham", thành bè bạn của A
tư đà, một vị Tiên tham vọng trường
sanh, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất
chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo
thứ bảy tham chấp cái mạng căn, lập
cái nhân củng cố vọng thân để cầu
cái quả kéo dài lao khổ, trái tánh
viên thông đi ngược đường Niết bàn,
sinh ra giống vọng điên.
Lại
có hàng thiền giả trong tam ma đề nghiền
ngẫm tánh không của các hành pháp,
bỗng khởi tâm muốn giữ trần lao vì
sợ trần lao tiêu hết. Bấy giờ thiền
giả vận dụng đạo lực hóa hiện tự
thân ở Liên hoa cung, thất bảo huy
hoàng, cực kỳ tráng lệ; tai hóa hiện
ra nhiều gái đẹp xinh để cùng vui
hưởng thụ thỏa mãn tâm buông lung.
Sự đam mê đó khiến cho hành giả sa
vào cái chấp "chân vô chân",
thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê
muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri
kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ
tám, lập cái nhân tà tu thành cái quả
xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại
có thiền giả an trú trong xa ma tha tam ma
thiền na tham cứu xét tột tánh không
của các hành pháp nhưng chưa đạt đến
chỗ tịch diệt viên mãn, ở nơi thể
viên minh nguồn gốc của sinh mạng sanh ra
ý niệm phân biệt cái thô, cái phần
chân, phần ngụy nghĩa là nhận rõ về
khổ đế, đoạn trừ tập đế, cầu
chứng diệt đế, thực hành đạo đế.
Khi chứng diệt đế rồi, không cầu tiến
thêm và bằng lòng cho đó là cái đích
cứu cánh sở đắc của mình. Người
khởi chấp như vậy gọi là định tánh
Thanh Văn, thành bè bạn của Vô văn
tăng, vướng phải bệnh tăng thượng
mạn, mê muội Bồ đề Phật, mất hết
chánh tri kiến; đó là bọn thứ chín
mong cầu cái tâm ứng nghiệm viên mãn
thành cái quả thú tịch diệt, trái với
tánh viên thông, ngược lại đường
Niết bàn sinh ra hạng người triền
không.
Lại
có thiền giả ở trong xa ma tha tam ma bát
đề, rõ suốt được tánh không của
các hành pháp, bấy giờ ở trong tánh
giác minh thanh tịnh, phát minh tánh thâm
diệu rồi nhận đó là Niết bàn, không
có tâm cầu tiến, thế là sa vào hàng
định tánh Bích chi, thành bè bạn của
hàng Duyên giác, Độc giác. Nếu trụ
ở đây, không phát tâm hướng
thượng đại thừa thì mất đi chánh tri
kiến, mê muội Bồ đề Phật, trở thành
bọn thứ mười họ thành tựu được
giác tâm vắng lặng lập ra cái quả
trạm nhiên, trái với tánh viên thông,
đi ngược đường Niết bàn vô thượng
sinh ra một hạng giác ngộ viên minh nhưng
không tiêu hóa được cái tánh viên
minh sở qui.
A
Nan ! Mười thứ thiền na như vậy,
người tu hành giữa lúc đang tinh tấn
say mê bỗng có thể hóa điên cuồng
đãng trí, vì đam mê theo cái vọng kiến
trong lúc dụng công. Những cảnh giới,
những cái thấy biết trong thiền na chưa
phải là cảnh giới tối hậu cần đạt
đến. Thiền giả nhận thức sai lầm chỗ
chưa đủ cho là đủ, khởi tâm năng
đắc, được cảnh sở chứng, tưởng
đó là cảnh giới Vô thượng Bồ đề,
tự cao tự mãn cho rằng mình đã chứng
Thánh quả, mắc tội đại vọng ngữ. Khi
nghiệp báo hết rồi phải sa vào địa
ngục; còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì
không tiến lên được nữa.
A
Nan ! Sau Như Lai diệt độ, các ông hãy
trân trọng ghi nhớ lời dạy của Phật,
đem những pháp môn Như Lai dạy truyền
bá, khiến cho chúng sanh đời sau những
người phát tâm tu Thiền na biết rõ
những cảnh giới hư vọng hiện ra trong
lúc tu thiền và những tư duy lệch lạc,
những chấp mắc sai lầm cho ngũ ấm ma
vọng khởi. Người tu tập thiền na phải
luôn luôn đề cao cảnh giác mới tránh
khỏi các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại
mà hoang phí một đời tu. Các ông phải
sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ
chánh tri kiến của Phật, từ lúc ban
đầu cho đến khi thành tựu, không dễ
đi lạc vào các con đường tẻ của
ngoại đạo, do lầm chấp và đam mê theo
vọng cảnh tà kiến bởi sự "che
phủ" của các ma ngũ ấm.
Các
Như Lai trong mười phương đã vận dụng
trí tuệ ba la mật, khéo léo vượt qua
mà thẳng tiến đến Vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Chừng nào thức ấm
hết rồi thì hiện tiền sáu căn sẽ
trở thành hỗ dụng, có thể thay thế cho
nhau, bấy giờ hành giả sẽ lên bậc kim
cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái tâm trong
sáng tròn đầy được tỏ rõ như mặt
trăng dằn dặc ảnh hiện trong viên ngọc
lưu ly toàn bích. Rồi cứ thế mà vượt
lên thứ bậc: thập tín, thập trụ, thập
hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và
thập địa kim cang đạo. Bấy giờ tánh
đẳng giác được tròn đầy vào bể
Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên mãn
đạo Bồ đề, về đến chỗ "VÔ SỞ
ĐẮC".
*
* *
A
Nan ! Những cảnh tướng hiện ra trong lúc
tu thiền na, những ý nghĩ rồi sanh khởi
sự chấp mắc theo kiến giả của mình
lập ra những luận cứ chủ trương: Thần
ngã, Minh đế, đoạn, thường, có, không
v.v
Tất cả đều gọi chung là "ma
sự", vì có tánh chướng ngại,
khuấy phá, cản trở bước tiến của
người tu thiền. Chẳng những vậy, nó
còn có thể chận đứng lại để rồi
bằng lòng với cái tri kiến hạn hẹp,
phi chân lý, thành người ngoại đạo hư
cháy hạt giống Bồ đề.
Chư
Phật Thế Tôn trong quá khứ đã nghiệm
xét, phân biệt và đã giác ngộ, chiến
thắng với các ma sự mà thẳng tiến
trên đường Bồ đề.
Sau
Như Lai diệt độ. A Nan ! Các ông phải
hướng dẫn cho những người tu tập
thiền na học hỏi Phật pháp, nhận rõ
các ma sự trong lúc tu chỉ quán thì ấm
ma tự tiêu, thiên ma tự biến, đại
lực quỷ hoảng sợ chạy trốn, ly mị
vọng lượng không sanh ra được.
A
Nan ! Bản giác vốn tròn sáng không có
tướng sanh tử vãng lai. Vọng thì không
có nhân. Khi chưa ra khỏi vọng, nhìn vạn
pháp cho đó là nhân duyên sanh. Mê
tánh nhân duyên thì gọi là tự nhiên
có. Nhân duyên đều là những so đo
của vọng tưởng. Bản nhân của ngũ ấm
cũng là vọng tưởng như vậy.
A
Nan ! Thân thể của ông cũng nhân cái
tưởng của cha mẹ mà sinh. Tâm của ông
nếu không phải tưởng thì không thể
đến gá cái mạng vào trong tưởng. Như
Lai đã từng nói: Tâm tưởng vị chua,
trong miệng nước bọt chảy ra, tâm
tưởng leo cao trong lòng bàn chân nghe
ghê rợn. Dốc cao không có, vậy chua
chưa đến, thân thể của ông nếu không
phải cùng loại với vọng tưởng thì
làm sao nhân nghe nói chua trong miệng
nước bọt lại chảy ra ? Vậy nên biết
rằng sắc thân hiện tiền của ông gọi
là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Ngay
nơi tâm tưởng tượng leo lên cao, có
thể khiến thân ông chịu sự ghê rợn,
đó là nhân "cảm thọ" mà sinh
ra, khiến xúc động đến sắc thân - Nên
biết rằng hiện nay hai thứ
"thọ", thọ sung sướng hoặc
"thọ" ghê sợ, đang rong ruổi nơi
ông, đó là vọng tưởng "hư
minh" thứ hai.
Do
ý nghĩ sai khiến sắc thân ông, nếu sắc
thân không phải cùng loại thì làm sao
sắc thân ông lại theo ý nghĩ sai khiến
thọ nhận các thứ hình tượng rồi sinh
tâm chấp nhận những hình tượng phù
hợp với ý nghĩ ! Cái ý nghĩ lúc
thức gọi là tưởng, ý nghĩ lúc ngủ
thì gọi là mộng. Những vọng tánh lay
động mộng tưởng của ông gọi là
vọng tưởng hư dung thứ ba.
Sự
chuyển hóa không ngừng thầm dời đổi:
móng tay ra, tóc dài, khí lực mòn, da
mặt nhăn, ngày đêm biến đổi mà
không hay biết.
A
Nan ! Nếu cái đó không phải là ông
thì làm sao thân ông lại thay đổi, nhưng
nếu những thứ đó là ông thì sao ông
không hay biết ? Vậy các "hành"
niệm niệm không dừng của ông, gọi là
vọng tưởng u ẩn thứ tư.
Chỗ
tinh minh đứng lặng không lay động của
ông gọi là thường còn, trong khi thân
ông không ra ngoài những sự thấy, nghe,
hay, biết. Nếu "cái thường còn"
đó, thật là tánh tinh chân của ông
thì lẽ ra nó sẽ không huân tập tiếp
thu những điều vọng và nếu vậy thì sau
những năm về trước ông đã xem thấy
một vật lạ, trải qua nhiều năm không
hề nghĩ đến, về sau tình cờ gặp lại
vật là đó thì nhớ lại rõ ràng ?
Vậy nên biết rằng cái tánh tinh minh
đứng lặng đó, từng niệm, từng niệm
chịu huân tập không thể tính lường
hết được. A Nan ! Nên biết cái tánh
đứng lặng đó không phải thật, như
nước chảy gấp mà trông như đứng
lặng vậy thôi, chớ không phải không
chảy. Nếu cái tánh đứng lặng của
ông không phải vọng tưởng thì đâu
lại chịu để vọng tưởng huấn tập
vào. Chừng nào mà sáu căn của ông
chưa được tự tại, hợp, ly dùng thay
lẫn nhau thì cái vọng tưởng đó không
lúc nào diệt được. Vậy nên biết
rằng cái tập khí quán xuyến, điều
khiển những điều thấy, nghe, hay, biết
của ông, là cái vọng tưởng điên
đảo vi tế huyễn hóa rỗng trống thứ
năm.
A
Nan ! Năm ấm đó do năm thứ vọng
tưởng như thế mà tạo thành. Nay ông
muốn biết giới hạn, sâu cạn thì hãy
ghi nhớ các tiêu chuẩn nhận thức như
vầy:
Sắc
và không là biên giới của sắc ấm.
Xúc và ly là biên giới của Thọ ấm.
Nhớ và quên là biên giới của
Tưởng ấm. Diệt và sinh là biên giới
của Hành ấm. Đứng lặng hợp với
đứng lặng là biên giới của Thức
ấm.
Năm
ấm ấy trùng điệp sanh khởi. Sanh nhân
thức ấm mà có. Diệt từ sắc ấm mà
trừ. Lý thì ngộ liền, nhân ngộ mà
tất cả vọng tưởng đều tiêu. Sự
không thể trừ liền, theo thứ lớp mà
diệt.
A
Nan ! Như Lai đã chỉ cho ông về cái gút
của khăn kiếp ba la đã quá rõ ràng,
ông còn hỏi lại chi nữa ! Tâm ông
cần phải thông suốt cội gốc vọng
tưởng đó. Rồi đem truyền dạy cho
người tu hành hậu thế khiến cho họ
biết vọng tưởng là vọng để sanh tâm
nhàm chán, và biết có Niết bàn mà
không lưu luyến ba cõi.
III
- PHẦN LƯU THÔNG [^]
Phật
bảo: A Nan ! Giả sử có người đem thất
bảo đầy ngập hư không cùng khắp
mười phương dâng cúng chư Phật nhiều
như số vi trần, mà tâm không lúc nào
xao lãng, ý ông nghĩ thế nào ? Người
đó do nhân duyên cúng dường Phật như
thế, phước đức có nhiều chăng ?
Ông
A Nan thưa ! Bạch Thế Tôn ! Hư không vô
tận, trân bảo không cùng. Như lời
Phật dạy, ngày xưa có chúng sanh cúng
Phật chỉ có bảy đồng tiền, vậy mà khi
xả thân còn được phước báo làm
chuyển luân vương, huống nữa trân bảo
vô lượng, cúng dường chư Phật vô
lượng khắp mười phương thì dùng trí
mà suy nghĩ cùng tột, ức kiếp không
thể thấu được, vì phước đức ấy
không có ngằn mé !
Phật
bảo: A Nan ! Chư Phật Như Lai lời nói
không hư vọng, giả sử có người gây
đủ các tội: Tứ trọng, thập ác, giây
lát phải trải qua địa ngục A tỳ phương
nầy sang phương khác cho đến cùng khắp
các địa ngục vô gián trong mười
phương, nhưng nếu người đó cùng một
niệm đem pháp môn nầy truyền bá cho
người chưa học trong đời sau thì tội
chướng người đó liền được tiêu
hết, biến cái nhân phải chịu khổ ở
địa ngục thành cái nhân sanh về cõi an
lạc. Niết bàn, được phúc vượt hơn
người bố thí cúng dường trước kia
trăm ngàn lần, muôn ức vạn lần cho
đến không thể dùng toán số so sánh,
không thể có ngữ ngôn nói hết
được.
Đức
Thế Tôn nói kinh nầy rồi, các vị Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di,
tất cả Trời, Người, A tu la, các vị
Bồ tát, Nhị thừa, Thánh Tiên, đồng
tử và các đại lực quỷ thần mới
phát tâm, đều rất vui mừng lễ Phật
mà lui.
-
HẾT -
--- o0o ---
Mục lục
Mục lục tập 01
|
chương 1 | chương 2 |chương 3 - chương 3a
Mục
lục tập 02 |
chương 4 |chương 5 | chương 6
Mục lục tập 03 |
chương 7| chương 8 | chương 9 | chương 10|
Phụ lục
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục