Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
(Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang
dịch giải
---o0o---
Phẩm
5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn
ở nơi sự phân biệt chính xác, vào trong sự thiền định sâu xa, từ những
lỗ chân lông của Ngài phóng ánh sáng lớn đầy những màu sắc. Thế giới
chư Phật hiện cả trong ánh sáng ấy, nhiều đến bao nhiêu sự tính toán
so sánh đều không có khả năng diễn đạt. Cái thế giới đang ở trong thời
kỳ đầy cả năm sự vẩn đục này cũng được ánh sáng ấy chiếu đến.
Chúng sinh trong đó, những kẻ làm mười ác nghiệp, năm tội vô gián, phỉ
báng Tam bảo, bất hiếu cha mẹ, khinh dể sư trưởng và bà la môn, đáng lẽ
phải sa vào địa ngục ngạ quỉ bàng sinh; những kẻ ấy nhờ ơn ánh
sáng của đức Thế tôn chiếu đến chỗ họ ở. Họ thấy ánh sáng ấy rồi
thì, nhờ sức mạnh của ánh sáng ấy, họ được hoan hỷ, sắc tướng toàn
hảo, phước trí trang nghiêm, thấy được chư Phật. Bấy giờ Đế thích,
các chúng chư thiên, nữ thần sông Hằng, cùng các chúng khác, nhờ ánh
sáng của đức Thế tôn chiếu đến một cách hiếm có, nên cùng đến chỗ
Ngài, đi quanh Ngài ba vòng, rồi lùi lại, mỗi chúng ngồi một phía. Lúc
này Đế thích, vâng theo uy thần của đức Thế tôn, đứng dậy khỏi chỗ
mình ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm
đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn mà thưa, rằng bạch đức Thế tôn,
thiện nam hay thiện nữ làm sao nguyện cầu vô thượng bồ đề, tu hành đại
thừa, nhiếp hóa những kẻ tà kiến thác loạn? Những kẻ đã tạo nghiệp
chướng thì làm sao sám hối để trừ diệt cho được?
Đức Thế tôn dạy Đế thích, rằng
lành thay thiện nam tử, ông hỏi như vậy chính là tu hành, muốn làm cho
vô lượng chúng sinh thanh tịnh giải thoát. Ông thương xót thế giới, ích
lợi hết thảy. Thiện nam tử, những người đã vì nghiệp chướng mà
gây tội lỗi, thì phải thúc dục lấy mình, ngày đêm sáu buổi, vắt vạt
áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính,
nhất cái tâm, chuyên cái niệm, miệng tự nói rằng, con xin qui mạng kính
lạy chư vị Thế tôn hiện tại mười phương, những đấng đã chứng đắc
vô thượng bồ đề, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp nhiệm mầu, bánh xe
chánh pháp chói sáng, mưa nước Pháp vĩ đại, gióng trống Pháp vĩ đại,
thổi loa Pháp vĩ đại, dựng cờ Pháp vĩ đại, cầm đuốc Pháp vĩ đại,
vì lợi ích yên vui cho chúng sinh mà thường thực thi pháp thí, dạy dỗ
cho những kẻ mê mờ bước tới, làm cho họ được quả báo vĩ đại,
thường lạc. Chư vị Thế tôn như vậy, con xin đem cả thân miệng ý mà
cúi đầu qui mạng kính lạy. Chư vị Thế tôn như vậy đem tuệ giác chân
thật, con mắt chân thật, sự chứng minh chân thật, sự bình đẳng chân
thật, mà biết hết thấy hết thiện nghiệp ác nghiệp của chúng sinh. Từ
vô thỉ đến giờ, con xuôi theo dòng nước tội ác mà cùng chúng sinh tạo
ra nghiệp chướng, bị tham sân si buộc chặt. Khi chưa biết Phật, khi chưa
biết Pháp, khi chưa biết Tăng, khi chưa biết thiện ác, thì con do thân miệng
ý mà làm năm tội vô gián, là ác tâm làm chảy máu thân Phật, phỉ báng
Phật pháp, phá Tăng hòa hợp, hại A la hán, hại cha hại mẹ; con do thân
ba miệng bốn ý ba mà làm mười ác nghiệp, bằng cách tự làm, bảo người
làm, thấy người làm mà mừng theo; đối với người hiền, con phỉ báng
ngang ngược, dụng cụ cân lường thì dối trá, cho tà là chánh, đem ẩm
thực phẩm xấu mà cho người; đối với cha mẹ nhiều đời ở trong sáu
đường thì con tàn hại; đối với tài vật của Tháp, của Tăng bốn
phương, của Tăng hiện diện, con trộm cướp, tự do sử dụng; đối với
giới pháp và giáo pháp của đức Thế tôn, con không thích tuân thủ phụng
hành, sư trưởng huấn dụ cũng không thuận theo, thấy ai đi theo cỗ xe
Thanh văn, cỗ xe Độc giác, cỗ xe vĩ đại, thì con nhục mạ, quấy phá ;
thấy ai hơn mình, con liền ganh ghét, pháp thí tài thí con tiếc lẫn cả,
con để vô minh ngăn che, tà kiến mê hoặc, con không tu nhân lành mà lại tăng
thêm nhân ác; con phỉ báng đến cả chư vị Thế tôn, pháp thì con nói là
phi pháp, phi pháp thì con nói là pháp. Bao nhiêu tội lỗi như vậy, chư vị
Thế tôn đem tuệ giác chân thật, con mắt chân thật, sự chứng minh chân
thật, sự bình đẳng chân thật, mà biết hết, thấy hết, nên ngày nay
con xin qui mạng kính lạy. Đối trước chư vị Thế tôn, con không dám che
giấu. Tội chưa làm thì con không dám làm, tội đã làm thì con xin sám hối.
Những nghiệp chướng đáng sa vào sáu đường tám nạn mà con đã làm, những
nghiệp chướng mà hiện con đang làm, con nguyện được tiêu diệt cả. Những
báo chướng của những nghiệp chướng ấy, con nguyện vị lai khỏi phải
lãnh chịu. Tựa như các vị đại bồ tát quá khứ tu hành bồ đề hạnh
thì bao nhiêu nghiệp chướng đều đã sám hối, nghiệp chướng của con
cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không dám che giấu.
Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt, tội chưa làm, con nguyện không
dám làm nữa. Tựa như các vị đại bồ tát vị lai tu hành bồ đề hạnh
thì bao nhiêu nghiệp chướng đều sám hối cả, nghiệp chướng của con
cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không dám che giấu.
Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt cả, tội chưa làm, con nguyện
không dám làm nữa. Tựa như các vị đại bồ tát hiện tại tu hành bồ
đề hạnh thì bao nhiêu nghiệp chướng đều đã sám hối, nghiệp chướng
của con cũng vậy, ngày nay con xin sám hối cả. Con phát lộ hết, không
dám che giấu. Tội đã làm, con nguyện được tiêu diệt cả, tội chưa làm,
con nguyện không dám làm nữa.
Thiện nam tử, vì [như cách nói đã
chỉ] trên đây, nên có lỗi thì trong một sát na đã không được che giấu,
huống chi một ngày một đêm cho đến hơn nữa. Ai phạm tội mà muốn được
trong sạch thì phải biết xấu hổ, tin chắc vị lai phải có ác báo, rất
e sợ mà sám hối. Như bị lửa cháy tóc cháy áo thì phải lập tức dập
tắt, lửa chưa tắt thì không thư tâm được; người phạm tội cũng vậy,
phải sám hối cho hết liền đi. Muốn sinh nhà giàu vui, nhiều tiền lắm của,
hay hơn nữa muốn phát tâm tu tập đại thừa, thì cũng phải sám hối mà
diệt trừ nghiệp chướng. Muốn sinh vào nhà hào quí của các giai cấp bà
la môn hay sát đế lợi, vào nhà luân vương đủ cả bảy người vật quí
báu, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Thiện nam tử,
muốn sinh Tứ thiên vương thiên, Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Đỗ sử
đa thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, thì cũng phải sám hối
mà diệt trừ nghiệp chướng. Muốn sinh Phạn chúng thiên, Phạn phụ
thiên, Đại phạn thiên; Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Cực tịnh
quang thiên; Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên; Vô
vân thiên, Phước sinh thiên, Quảng quả thiên; Vô phiền thiên, Vô nhiệt
thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu cánh thiên, thì cũng
phải sám hối mà trừ diệt nghiệp chướng. Thiện nam tử, muốn cầu Dự
lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A la hán quả, thì cũng phải sám hối
mà diệt trừ nghiệp chướng. Muốn cầu ba minh, sáu thông, Thanh văn bồ đề,
Độc giác bồ đề, Tự tại bồ đề, cho đến Cứu cánh địa; muốn cầu
Nhất thế trí trí, Tịnh trí, Bất tư nghị trí, Bất động trí, Chánh biến
trí, thì cũng phải sám hối mà diệt trừ nghiệp chướng. Tại (36) sao
như vậy? Vì, thiện nam tử, tất cả các pháp sinh từ yếu tố tương quan
(37) ; Như lai đã nói sự thể này sinh thì sự thể khác diệt, vì yếu tố
khác biệt với nhau, [nên sám hối sinh thì nghiệp chướng diệt]. Do vậy,
ác pháp đã có thì diệt trừ [vì sự sám hối], nên nghiệp chướng không
còn sót lại; thiện pháp chưa sinh thì phát sinh [vì sự sám hối], nên nghiệp
chướng không thể sinh nữa. Lý do là vì, thiện nam tử, tất cả các pháp
toàn là Không; Như lai đã nói không ngã nhân chúng sinh thọ giả, không
sinh không diệt, không cả hành pháp [sám hối]. Thiện nam tử, tất cả
các pháp toàn dựa vào căn bản [chân như], nên cũng không thể diễn tả
-- vì [căn bản chân như] thì siêu việt tất cả trạng thái [sinh diệt].
Thiện nam hay thiện nữ nào hội nhập diệu lý như vậy mà kính tin, thì
thế là không chúng sinh mà có căn bản -- Chính vì ý nghĩa này mà nói đến
sự sám hối, diệt trừ nghiệp chướng (38) .
Thiện nam tử, người nào thành tựu
bốn pháp này thì trừ diệt nghiệp chướng mà vĩnh viễn thanh tịnh. Một
là không nổi tà tâm mà thành tựu chánh niệm. Hai là không phỉ báng diệu
lý sâu xa. Ba là đối với các vị bồ tát mới tu cũng nổi dậy Nhất thế
trí tâm (39) . Bốn là đối với chúng sinh thì nổi dậy Tứ vô lượng tâm.
Đó là bốn pháp. Đức Thế tôn nói lời chỉnh cú sau đây.
- Chuyên tâm giữ ba nghiệp,
- không phỉ báng diệu pháp,
- nghĩ là Nhất thế trí (40) ,
- từ tâm: sạch nghiệp chướng.
Thiện nam tử, có bốn nghiệp chướng
khó thể diệt trừ. Một là phạm tội rất nặng của bồ tát giới. Hai
là phỉ báng đại thừa. Ba là không tăng trưởng được thiện căn của mình.
Bốn là tham vướng mà không có ý thoát ly ba cõi. Lại có bốn pháp đối
trị được nghiệp chướng. Một là dốc lòng thân gần chư vị Như lai,
phát lộ mọi sự tội lỗi. Hai là khuyến thỉnh chư vị Như lai nói diệu
pháp sâu xa cho chúng sinh. Ba là tùy hỷ bao nhiêu công đức mà chúng sinh
có. Bốn là hồi hướng bao nhiêu thiện căn mình có về nơi vô thượng bồ
đề.
Đế thích lại thưa, bạch đức Thế
tôn, thế giới có bao nhiêu là nam tử nữ nhân, đối với pháp hạnh đại
thừa, có kẻ làm được, có kẻ không làm, vậy làm sao tùy hỷ được công
đức của hết thảy chúng sinh? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, có người
tuy chưa thể tu tập đại thừa, nhưng ngày đêm sáu thời, vắt vạt áo của
vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chuyên tâm chú ý mà
làm sự tùy hỷ thì được phước vô lượng-- bằng cách tác bạch như vầy,
mười phương thế giới, bao nhiêu chúng sinh hiện tại tu hành bố thí,
trì giới, thiền định, trí tuệ, con nay tùy hỷ tất cả một cách sâu
xa. Làm cái phước tùy hỷ như vậy thì quyết định đạt được kết quả
cao trọng, siêu việt, không gì ở trên, không thể sánh bằng, cùng cực mầu
nhiệm. Cũng một cung cách như vậy mà tùy hỷ tất cả đối với công đức
của hết thảy chúng sinh quá khứ và vị lai. Lại nữa, hiện tại các vị
bồ tát mới tu, phát bồ đề tâm có bao nhiêu công đức; các vị bồ tát
đã trải qua trăm kiếp tu hành bồ tát hạnh có bao nhiêu công đức to lớn;
các vị bồ tát được vô sinh pháp nhẫn, được bất thoái chuyển, được
nhất sinh bổ xứ, tất cả những khối công đức như vậy, con xin dốc lòng
tùy hỷ tán thán tất cả. Quá khứ và vị lai, tất cả bồ tát có bao
nhiêu công đức, con cũng xin tùy hỷ tán thán như vậy. Lại nữa, hiện tại
mười phương thế giới, tất cả chư vị Phật đà, cúng, Chánh biến
tri, chứng được tuệ giác bồ đề vi diệu, vì độ thoát vô biên chúng
sinh mà chuyển đẩy pháp luân vô thượng, thi hành pháp thí vô ngại, đánh
trống pháp, thổi loa pháp, dựng cờ pháp, mưa nước pháp, thương xót khuyến
hóa tất cả chúng sinh, làm cho ai cũng tin chịu, nhờ ơn pháp thí, sung túc
mọi nỗi an lạc vô tận; các vị Bồ tát, Thanh văn, Độc giác tập hợp
công đức, chúng sinh chưa có công đức ấy thì làm cho có cả -- [tất cả
công đức của chư vị Phật đà và chư vị Thánh giả hiện tại như vậy],
con xin tùy hỷ hết thảy. Quá khứ và vị lai, chư vị Phật đà và chư vị
Thánh giả, có bao nhiêu công đức, con cũng hết lòng tùy hỷ tán thán như
vậy. Thiện nam tử, tùy hỷ như vậy thì sẽ được cái khối công đức
vô lượng. Hằng sa đại thiên thế giới, chúng sinh trong đó đều dứt
phiền não, đều thành La hán; nếu có thiện nam hay thiện nữ nào suốt đời
hiến cúng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, dược phẩm, toàn loại thượng hạng,
thì công đức ấy vẫn không bằng một phần ngàn của công đức tùy hỷ
như trên, vì sao, vì công đức hiến cúng có số có lượng, không bao gồm
mọi công đức, còn công đức tùy hỷ thì vô số vô lượng, bao gồm tất
cả công đức quá khứ hiện tại vị lai. Ấy vậy, ai muốn tăng thêm
công đức siêu việt thì phải tu cái công đức tùy hỷ như thế. Nữ nhân
nào ước nguyện chuyển nữ thân thành nam tử, thì cũng phải tu tập công
đức tùy hỷ, cái nguyện chuyển thành nam tử tất được tùy tâm.
Bấy giờ Đế thích lại thưa, bạch
đức Thế tôn, công đức tùy hỷ con đã được biết, còn công đức khuyến
thỉnh thì con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho, để cho vị lai các vị bồ
tát sẽ chuyển đẩy pháp luân, các vị bồ tát hiện tại thì chính xác
tu hành. Đức Thế tôn dạy, Đế thích, thiện nam hay thiện nữ nào nguyện
cầu vô thượng bồ đề thì phải tu hành đạo hạnh của thanh văn độc
giác và đại thừa, ngày đêm sáu thời cử động như trên đã nói,
chuyên tâm chú ý mà tác bạch như vầy, con xin qui y kính lạy mười
phương chư vị Thế tôn; các Ngài đã thành tựu vô thượng bồ đề mà
chưa chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vô thượng, muốn xả bỏ sinh thân mà
nhập niết bàn, thì con xin chí thành đảnh lễ, khuyến thỉnh các Ngài lăn
xe pháp lớn, mưa nước pháp lớn, đốt đèn pháp lớn, soi sáng ý hướng
của Pháp mà thực thi pháp thí vô ngại, đừng nhập niết bàn mà ở đời
cho lâu, độ thoát an lạc tất cả chúng sinh, cho đến sung túc mọi nỗi
an lạc vô tận như trên đã nói. Con lại đem công đức khuyến thỉnh này
hồi hướng vô thượng bồ đề; như quá khứ vị lai hiện tại các vị
đại bồ tát đã đem công đức khuyến thỉnh hồi hướng vô thượng bồ
đề, thì con cũng làm như vậy, đem công đức khuyến thỉnh mà hồi hướng
vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, giả sử có ai đem bảy chất liệu quí
báu đầy cả đại thiên thế giới mà hiến cúng chư vị Như lai, và người
khác, khuyến thỉnh chư vị Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại,
thì công đức của người này phước hơn người trên. Vì sao, vì người
trên là tài thí, người này là pháp thí. Thiện nam tử, hãy gác lại sự
bố thí bảy chất liệu quí báu đầy cả đại thiên thế giới, mà nói nếu
ai đem bảy chất liệu quí báu đầy cả hằng sa đại thiên thế giới, hiến
cúng tất cả chư vị Như lai, thì công đức khuyến thỉnh vẫn hơn công
đức hiến cúng ấy. Lý do là vì pháp thí thì có năm sự lợi ích siêu việt.
Một là pháp thí lợi cả mình người, tài thí không được như vậy. Hai
là pháp thí làm cho chúng sinh siêu thoát ba cõi, cái phước tài thí không
siêu thoát ba cõi. Ba là pháp thí làm trong sáng pháp thân, tài thí chỉ tăng
thêm sắc tướng. Bốn là pháp thí thì vô cùng, tài thí thì hữu tận. Năm
là pháp thí đoạn trừ vô minh, tài thí chỉ tạm dẹp tham ái. Do vậy, thiện
nam tử, công đức khuyến thỉnh thì vô lượng vô biên, khó có gì có thể
đối chiếu. Như chính Như lai xưa kia, khi đi theo đường đi bồ tát, Như
lai đã khuyến thỉnh chư vị Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại,
do công đức này mà ngày nay tất cả Phạn vương Đế thích đã khuyến thỉnh
Như lai chuyển đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại. Thiện nam tử, khuyến thỉnh
chuyển đẩy bánh xe chánh pháp là muốn độ thoát an lạc cho chúng sinh. Như
lai xưa kia, khi tu bồ đề hạnh, đã khuyến thỉnh chư vị Như lai ở đời
lâu dài, đừng nhập niết bàn; do công đức này mà nay Như lai đạt được
mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, đại từ đại bi, thực hiện
vô số phẩm chất bất cọng, nên dẫu Như lai nhập niết bàn đi nữa, chánh
pháp của Như lai vẫn tồn tại lâu dài. Còn pháp thân của Như lai thì
trong sáng tuyệt đối, tướng tốt đủ dạng, trí tuệ vô lượng, tự tại
vô lượng, công đức vô lượng, khó thể tư duy, khó thể thảo luận,
các loại chúng sinh đều nhờ lợi ích, trăm ngàn vạn kiếp nói cũng không
cùng. Pháp thân bao quát các pháp, các pháp không thể bao quát pháp thân.
Pháp thân thường trú mà không sa vào quan điểm thường, pháp thân đoạn
diệt mà không sa vào quan điểm đoạn. Pháp thân phá được cho chúng sinh
đủ loại quan điểm đối nghịch, sinh được cho chúng sinh đủ loại quan
điểm chính xác. Pháp thân cởi mở được cho chúng sinh mọi thứ ràng buộc,
mặc dầu không thật có mọi thứ ràng buộc được cởi mở. Pháp thân
gieo trồng cho chúng sinh những gốc rẽ công đức, ai chưa thành thục thì
làm cho thành thục, ai đã thành thục thì làm cho giải thoát. Pháp thân bất
tác bất động, rời xa ồn náo, vắng lặng vô vi, tự tại an lạc, siêu
việt thì gian mà vẫn thị hiện theo thì gian. Pháp thân siêu việt lĩnh vực
Thanh văn Độc giác, làm đối tượng tu hành của các vị đại bồ tát.
Pháp thân thì chư vị Như lai không có khác biệt thể tánh. Tất cả phẩm
chất trên đây toàn là do sức mạnh của công đức khuyến thỉnh mà có.
Pháp thân như vậy Như lai đã chứng đắc. Thế nên ai muốn đạt được
vô thượng bồ đề, thì đối với một câu một kệ trong kinh cũng nói
cho người, và công đức đã vô hạn, huống chi khuyến thỉnh Như lai chuyển
đẩy bánh xe chánh pháp vĩ đại, ở lâu trong đời chứ đừng nhập niết
bàn.
Bấy giờ Đế thích lại thưa, bạch
đức Thế tôn, thiện nam thiện nữ vì cầu vô thượng bồ đề mà tu tập
đạo hạnh của cả tam thừa, thì công đức họ có được làm sao hồi hướng
về trí Nhất thế trí? Phật dạy Đế thích, thiện nam tử, ai cầu vô thượng
bồ đề, tu tập đạo hạnh tam thừa, có bao công đức mà nguyện hồi hướng,
thì ngày đêm sáu thời, thiết tha chí thành, tác bạch như vầy, con từ vô
thỉ đến nay, nơi Tam bảo con tu hành được bao công đức, cho đến cho loài
bàng sinh một chút thực phẩm, hoặc khéo lời hòa giải tranh chấp, hoặc
lãnh thọ ba pháp qui y và các giới pháp, hoặc sám hối, khuyến thỉnh,
tùy hỷ, tất cả công đức trên đây, nay con tác ý, thu góp lại hết,
xoay về hiến cho hết thảy chúng sinh, không có tâm lý tiếc lẫn, và đó
là công đức thống thuộc phần giải thoát. Như chư vị Thế tôn thấy biết
thì không thể cân lường, trong sáng vô ngại, có bao nhiêu công đức đều
đem xoay lại hiến cho tất cả chúng sinh, không trú tướng cũng không xả
tướng (41) , thì con cũng làm như vậy, đem công đức mà hồi hướng hiến
cho chúng sinh, nguyện cho chúng sinh được cái tay như ý, chỉ trong không
gian cũng xuất ra vàng ngọc, thỏa nguyện của họ, giàu vui vô tận, trí
tuệ vô cùng, diệu pháp và biện tài đều không trì trệ, cùng chúng sinh
cùng chứng vô thượng bồ đề, được Nhất thế trí. Rồi do công đức
này mà xuất sinh ra nữa vô lượng công đức, và cũng hồi hướng vô thượng
bồ đề. Lại như quá khứ các vị đại bồ tát tu hành công đức thì
xoay lại cả mà hồi hướng Nhất thế chủng trí, các vị bồ tát hiện tại
vị lai cũng làm như vậy; [con nay cũng làm như vậy], bao nhiêu công đức có
được, con hồi hướng vô thượng bồ đề, và đem công đức này nguyện
cùng chúng sinh cùng thành chánh giác. Y như chư vị Thế tôn khi ngồi dưới
bồ đề thọ trong bồ đề tràng, thì thanh tịnh đến bất khả tư nghị
và không còn chướng ngại, an trú trong tổng trì vô tận pháp tạng, trong
định Thủ lăng nghiêm, phá tan quân đội đông đảo của ma vương Ba tuần,
những gì phải thấy biết và phải thông suốt thì, trong một sát na, chư
vị Thế tôn đã soi sáng tất cả, và phần sau của đêm ấy các Ngài được
pháp cam lộ, chứng nghĩa cam lộ. Thì con và chúng sinh cũng nguyện cùng chứng
diệu giác như vậy. Y như chư vị.
- Vô lượng thọ như lai,
- Thắng quang như lai,
- Diệu quang như lai,
- A súc như lai,
- Công đức thiện quang như lai,
- Sư tử quang minh như lai,
- Nhật quang minh như lai,
- Võng quang minh như lai,
- Bảo tướng như lai,
- Bảo diệm như lai,
- Diệm minh như lai,
- Diệm thịnh quang minh như lai,
- Cát tường thượng vương như lai,
- Vi diệu thanh như lai,
- Diệu trang nghiêm như lai,
- Pháp tràng như lai,
- Thượng thắng thân như lai,
- Khả ái sắc thân như lai,
- Quang minh biến chiếu như lai,
- Phạn tịnh vương như lai,
- Thượng tánh như lai.
Đồng đẳng như vậy, trong quá khứ
vị lai và hiện tại, chư vị Như lai, cúng, Chánh biến tri, vì hóa độ
chúng sinh mà thị hiện ứng hóa thân, chứng vô thượng bồ đề, chuyển
vô thượng pháp luân, nay con cũng nguyện được như vậy, như trước đã
nói rõ.
Thiện nam tử, thiện nam hay thiện
nữ có đức tin trong sáng, đối với phẩm Diệt trừ nghiệp chướng này
của kinh Ánh sáng hoàng kim mà tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc,
nhớ kyՠkhông quên, đem nói cho người một cách phong phú, thì được khối
công đức vĩ đại, vô lượng vô biên. Ví như bao nhiêu chúng sinh trong đại
thiên thế giới một lúc cùng được thân người, được thân người rồi
thành Độc giác; thiện nam thiện nữ nào suốt đời kính trọng, hiến
cúng bốn sự, lại hiến cúng mỗi vị Độc giác một khối bảy chất liệu
quí báu bằng núi Tu di, các vị Độc giác này nhập diệt thì đối với vị
nào cũng đem ngọc quí xây tháp mà hiến cúng, tháp ấy cao rộng đến mười
hai du thiện na, hiến cúng thường xuyên bằng hoa hương, bảo cái, tràng
phan, thì thiện nam tử, ý ông nghĩ thế nào, người hiến cúng ấy được
công đức nhiều không? Đế thích thưa, rất nhiều, bạch đức Thế tôn.
Thiện nam tử, mặt khác, có ai đối với phẩm Diệt trừ nghiệp chướng
này của kinh Ánh sáng hoàng kim, bản kinh nhiệm mầu, vua của các kinh, mà
biết tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, nhớ kyՠkhông quên,
đem nói cho người một cách phong phú, thì công đức người này có được,
công đức hiến cúng của người trước không bằng một phần trăm, một
phần ngàn, mười ngàn, trăm ngàn, cho đến toán số ví dụ cũng không thể
diễn tả. Tại sao, vì người này đứng trong chánh hạnh, khuyến thỉnh chư
vị Như lai chuyển đẩy pháp luân vô thượng và được các Ngài hoan hỷ
tán thán. Thiện nam tử, Như lai đã nói rồi, trong mọi sự bố thí, pháp
thí hơn hết. Do vậy, thiện nam tử, hiến cúng Tam bảo cũng không thể
sánh bằng. Khuyến khích thọ ba qui y, giữ các giới pháp, không có vi phạm,
ba nghiệp không trống rỗng, cũng không thể sánh bằng. Mọi chúng sinh
trong mọi thế giới, tùy sức lực, tùy khả năng, tùy nguyện ước, mà đối
với tam thừa khuyên người phát bồ đề tâm, cũng không thể sánh bằng.
Trong mọi thế giới quá khứ hiện tại và vị lai, bao nhiêu chúng sinh đều
được vô ngại, mau chóng làm cho thành đạt vô lượng công đức, cũng không
thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc độ quá khứ hiện tại
vị lai đều làm cho không chướng ngại, thực hiện ba tuệ giác bồ đề,
cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc độ quá khứ
hiện tại vị lai, khuyến khích cho họ mau chóng thoát ly cái khổ bốn nẻo
đường dữ, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh trong các quốc
độ quá khứ hiện tại vị lai, khuyến khích cho họ diệt trừ ác nghiệp
rất nặng, cũng không thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh khổ não, khuyến
khích làm cho họ giải thoát cả, cũng không thể sánh bằng. Tất cả
chúng sinh sợ hãi, khổ não bức bách, làm cho họ thoát cả, cũng không thể
sánh bằng. Trước chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại và vị lai, bao
chúng sinh có bao công đức, khuyến khích cho họ tùy hỷ, phát bồ đề tâm,
cũng không thể sánh bằng. Khuyến khích cho họ trừ khử hành vi độc ác,
nhục mạ, mọi công đức đều mong họ thành tựu, và sinh ra ở đâu cũng
khuyến khích cho họ hiến cúng, tôn trọng, tán thán tất cả Tam bảo, khuyến
khích cho họ tịnh tu công đức, thành tựu bồ đề, cũng không thể sánh
bằng. Thế nên phải nhận thức rằng, khuyến thỉnh Tam bảo quá khứ hiện
tại vị lai trong mọi thế giới, khuyến thỉnh hoàn bị sáu ba la mật,
khuyến thỉnh chuyển đẩy pháp luân vô thượng, khuyến thỉnh ở đời lâu
đến vô lượng kiếp, diễn nói vô lượng diệu pháp rất sâu, công đức
rất sâu như vậy thì không thể sánh bằng (42) .
Bấy giờ Đế thích, nữ thần
sông Hằng, vô lượng Phạn vương, thiên chúng của bốn Đại thiên vương,
cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên
phải quì xuống chấm đất, chắp tay đảnh lễ rồi thưa rằng, bạch đức
Thế tôn, chúng con được nghe kinh Ánh sáng hoàng kim này, nay xin tiếp nhận,
ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, một cách thông suốt, đem nói phong phú
cho người, và y theo pháp của kinh ấy mà sống. Tại sao, bạch đức Thế
tôn, vì chúng con muốn cầu vô thượng bồ đề, nên tùy thuận những sắc
thái siêu việt của nghĩa lý kinh này mà thực hành đúng cách. Phạn vương,
Đế thích, những vị đồng đẳng, ngay nơi chỗ đức Thế tôn thuyết
pháp mà cùng nhau đem hoa mạn đà la rải trên Ngài. Đại thiên thế giới
tức thì đại động. Thiên cổ và thiên nhạc không gióng mà tự kêu. Ánh
sáng hoàng kim được phóng ra, trải đầy thế giới, xuất ra âm thanh tuyệt
diệu. Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, tất cả cảnh tượng trên
đây toàn là sức mạnh uy thần của kinh Ánh sáng hoàng kim, từ bi phổ độ,
lợi ích đa dạng, đa dạng tăng trưởng công đức bồ tát, diệt trừ
nghiệp chướng. Phật dạy Đế thích, đúng như vậy, đúng như ông nói. Tại
sao, thiện nam tử, Như lai nhớ xưa kia, lâu hơn vô lượng trăm ngàn vô số
kiếp, có đức Như lai danh hiệu là Bảo vương đại quang chiếu, bậc Đến
như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, xuất
hiện thế giới, tồn tại sáu trăm tám mươi ức kiếp. Lúc ấy đức Bảo
vương đại quang chiếu như lai vì muốn độ thoát nhân loại, chư thiên,
Đế thích, Phạn vương, sa môn, bà la môn, và hết thảy chúng sinh, làm cho
họ yên vui, nên khi xuất hiện, thuyết pháp đại hội đầu tiên, Ngài
hóa độ trăm ngàn vạn ức người đều thành A la hán, sạch hết mọi sự
sơ hở, ba minh sáu thông đều tự tại vô ngại; thuyết pháp đại hội thứ
hai, Ngài hóa độ chín mươi ngàn vạn ức người đều thành A la hán, sạch
hết mọi sự sơ hở, ba minh sáu thông đều tự tại vô ngại; thuyết
pháp đại hội thứ ba, Ngài hóa độ cho chín mươi tám ngàn vạn ức người,
đều thành A la hán, viên mãn những phẩm chất đã nói như trên. Thiện
nam tử, bấy giờ Như lai làm thân nữ nhân, tên là Phước bảo quang minh.
Trong đại hội thứ ba, được thân gần đức Bảo vương đại quang chiếu
như lai, vì cầu vô thượng bồ đề nên tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu,
tụng thuộc kinh Ánh sáng hoàng kim, nói rộng rãi cho người. Nên bấy giờ
đức Bảo vương đại quang chiếu như lai thọ ký cho, rằng thiện nữ Phước
bảo quang minh này vị lai sẽ được trở thành Phật đà, danh hiệu là
Thích ca mâu ni, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc
Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc
Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc
Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời.
Thế rồi Như lai xả bỏ nữ thân, và từ đó đến nay vượt qua bốn nẻo
đường dữ, sinh trong nhân loại và chư thiên, hưởng thụ sự yên vui thượng
diệu, tám mươi bốn trăm ngàn đời làm chuyển luân vương, và ngày nay
thành bậc Chánh giác, danh tiếng vang khắp thế giới. Vào lúc bấy giờ cả
đại hội đột nhiên ai cũng nhìn thấy đức Bảo vương đại quang chiếu
như lai đang chuyển đẩy pháp luân vô thượng, diễn nói chánh pháp nhiệm
mầu-- [dầu cả đại hội vẫn chưa biết đức Thế tôn mình thấy là
ai]. [Đức Thế tôn nói với Đế thích], thiện nam tử, cách thế giới
Sách ha này, về hướng đông, qua trăm ngàn hằng sa cõi Phật, thì có thế
giới tên là Bảo trang nghiêm, đức Bảo vương đại quang chiếu như lai hiện
còn ở đó, chưa nhập niết bàn, nói pháp nhiệm mầu quảng hóa chúng
sinh. Đấng mà đại hội các người nhìn thấy, chính là đức Như lai ấy.
Thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được danh hiệu của đức
Bảo vương đại quang chiếu như lai thì không còn thoái chuyển vị trí bồ
tát, đạt đến đại niết bàn. Nữ nhân nào nghe danh hiệu của đức Bảo
vương đại quang chiếu như lai, thì khi lâm chung được thấy Ngài đến chỗ
mình. Thấy Ngài rồi tuyệt đối không còn làm nữ thân nữa. Thiện nam tử,
Ánh sáng hoàng kim, bản kinh nhiệm mầu này lắm cách lợi ích, lắm cách tăng
thêm công đức bồ tát, diệt trừ nghiệp chướng. Thiện nam tử, bí sô,
bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca, những vị này ở chỗ nào giảng nói
cho người bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy
được bốn sự phước lợi. Một là quốc vương vô bịnh, không mọi tai
ách. Hai là thọ lượng lâu dài, không bị trở ngại. Ba là không có thù
nghịch, quân đội hùng cường. Bốn là yên ổn sung túc, Phật pháp lưu thông.
Tại sao được như vậy, vì vị nhân vương này thường được Đế thích,
Phạn vương, bốn vị Thiên vương, bộ chúng Dược xoa, cùng nhau hộ vệ.
Đức Thế tôn hỏi chúng chư thiên ấy, các thiện nam tử, có đúng như vậy
không? Đế thích, Phạn vương, bốn vị Thiên vương, bộ chúng Dược xoa,
đồng thanh trả lời đức Thế tôn, rằng đúng như vậy, đúng như vậy,
bạch đức Thế tôn. Quốc gia nào mà có tuyên giảng hay đọc tụng bản
kinh vua của các kinh này, thì quốc vương của quốc gia ấy thường được
chúng con hộ vệ, cùng chung đi đứng. Quốc vương ấy nếu có mọi sự
tai nạn và thù nghịch, thì chúng con làm cho tan biến, sự ưu sầu và bịnh
truyền nhiễm cũng được trừ khử cho lành mạnh, thọ lượng tăng thêm,
cảm ứng điềm lành, ước nguyện toại ý, luôn luôn vui vẻ. Chúng con cũng
làm cho quốc gia ấy có quân đội hùng cường. Đức Thế tôn nói, lành
thay các thiện nam tử, đúng như lời các người đã nói, các người hãy
thực hiện như vậy. Bởi vì vị quốc vương ấy khi làm đúng Phật pháp
thì toàn thể dân chúng đều theo quốc vương mà làm đúng Phật pháp. Các
người cũng nhờ [hộ vệ cho họ] mà sắc tướng và sức lực đều hơn lên,
cung điện sáng hơn lên, thân thuộc thịnh hơn lên. Đế thích, Phạn vương,
cùng các vị đồng đẳng, thưa rằng đúng như vậy, bạch đức Thế tôn.
Đức thế tôn nói, chỗ nào có giảng đọc và lưu hành kinh pháp mầu nhiệm
này, thì trong quốc gia ấy các vị đại thần cùng quan thuộc có bốn cái
lợi. Một là thân nhau, hòa nhau, tôn trọng và thương nhớ đến nhau. Hai là
thường được quốc vương mến trọng, lại được sa môn, bà la môn, đại
quốc, tiểu quốc, đều kính mến. Ba là khinh của trọng đạo, không cầu
lợi lộc, tiếng tốt vang khắp, ai cũng kính ngưỡng. Bốn là thọ lượng
lâu dài, yên ổn thích thú. Đó là bốn cái lợi. Quốc gia nào tuyên thuyết
kinh này, thì sa môn, bà la môn ở đó có bốn cái lợi. Một là đồ mặc,
đồ ăn, đồ nằm, thuốc men, không thiếu gì cả. Hai là yên tâm mà tư
duy đọc tụng. Ba là ở núi rừng, sống yên vui. Bốn là tùy ý muốn gì cũng
thỏa nguyện cả. Đó là bốn cái lợi. Quốc gia nào tuyên thuyết kinh này
thì dân chúng ai cũng sung túc, hạnh phúc, không mọi thứ biểnh tật và
truyền nhiễm, thương khách qua lại, được lắm bảo vật và hàng hóa,
tràn đầy thắng phước. Đó là cái lợi đa dạng.
Lúc ấy Phạn vương, Đế thích, bốn
vị Thiên vương, và cả đại hội, cùng thưa, bạch đức Thế tôn, kinh
điển như thế này nghĩa lý rất sâu xa, nếu còn thì ba mươi bảy giác phần
còn cả, chưa mất; nếu mất thì chánh pháp cũng mất. Đức Thế tôn nói,
đúng như vậy, các thiện nam tử. Do vậy, đối với kinh Ánh sáng hoàng
kim này, dầu một câu hay một bài chỉnh cú, dầu một phẩm hay trọn bộ,
các người phải nhất tâm mà chính xác đọc tụng, chính xác nghe nhớ,
chính xác suy nghĩ, chính xác tu tập, vì chúng sinh mà quảng bá rộng rãi,
thì luôn luôn yên vui, phước lợi vô cùng. Bấy giờ đại hội nghe đức
Thế tôn nói rồi, ai cũng được lợi ích siêu việt, hoan hỷ mà thọ
trì.
Mục
Lục
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9|
10
|
11|
12|
13|
14|
15|
16|
17|
18|
19|
20|
21|
22|
23
| 24
|
25
|
26
|
27|
28|
29|
30|
31|ghi
chú|
--- o0o ---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Source
: www.buddhismtoday.com
-o0o-
Trình
bày: Nhị
Tường
Cập
nhật:
01-02-2002