Thiện Hiện! Vì sao gọi là bốn
vô sở úy? Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tự xưng Ta là
đấng Chánh Đẳng Giác. Nếu các Sa môn hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm,
hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ: Phật đối pháp này
chẳng phải Chánh Đẳng Giác. Ta đối nạn kia chánh thấy vô duyên. Vì đối nạn
kia chánh thấy vô duyên được an ổn trụ, không sợ không hải, tự xưng Ta ngự
ngôi Đại Tiên tôn vị, ở giữa đại chúng chánh rống tiếng sư tử, quay xe Đại
phạm. Tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế
gian, quyết định không ai như pháp quay được. Đấy là thứ nhất. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác tự xưng Ta đã hết lậu. Nếu các Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma
phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến suy nghĩ: Phật đối lậu
này chưa được hết hẳn. Ta đối nạn kia chánh thấy vô duyên. Vì đối nạn kia
chánh thấy vô duyên, được yên ổn trụ không sợ không hãi, tự xưng Ta ngự
ngôi Đại Tiên tôn vị, ở giữa đại chúng chánh rống tiếng sư tử, quay xe Đại
phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế
gian, quyết định không ai quay được. Đó là thứ hai. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác tự xưng Ta vì các đệ tử thuyết pháp năng chướng, nhiễm quyết bị
chướng. Nếu các Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế
gian, y pháp lập nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ: Có nhiễm pháp này chẳng năng bị
chướng. Ta đối nạn kia chánh thấy vô duyên. Vì đối nạn kia chánh thấy vô
duyên, được trụ an ổn không sợ không hãi, tự xưng Ta ngự ngôi Đại Tiên tôn
vị, ở giữa đại chúng chánh rống sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả Sa môn
hoặc Bà la môn thảy quyết định không ai như pháp quay được. Đấy là thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác tự xưng Ta vì các đệ tử thuyết đạo xuất ly, các Thánh tu tập quyết
định xuất ly, quyết định thônng đạt, chánh hết các khổ, làm mé các khổ.
Nếu các Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, y
pháp lập nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ: Có tu đạo này chẳng chánh xuất ly,
chẳng chánh thông đạt, chẳng chánh hết khổ, chẳng chánh làm ngằn mé khổ.
Ta đối nạn kia chánh thấy vô duyên, được trụ yên ổn không sợ không hãi, tự
xưng Ta ngự ngôi Đại Tiên tôn vị, ở giữa đại chúng chánh rống sư tử, quay
xe Đại phạm. Tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các
thế gian, không ai như pháp quay được. Đấy là thứ tư. Thiện Hiện! Đó gọi
là bốn vô sở úy. Thiện Hiện! Vì sao gọi là bốn
vô ngại giải? Thiện Hiện! Hiểu nghĩa vô ngại, hiểu pháp vô ngại, hiểu lời
vô ngại, hiểu biện vô ngại. Thiện Hiện! Đấy là bốn vô ngại giải. Thiện
Hiện! Sao là hiểu Pháp vô ngại? Nghĩa là trí duyên pháp vô ngại. Thiện
Hiện! Sao là hiểu Nghĩa vô ngại? Nghĩa là trí duyên Nghĩa vô ngại. Thiện
Hiện! Sao là hiểu Lời vô ngại? Nghĩa là trí duyên lời vô ngại. Thiện Hiện!
Sao là hiểu Biện vô ngại? Nghĩa là trí duyên biện vô ngại. Thiện Hiện! Sao là mười tám
pháp Phật bất cộng? Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trọn
không sai lầm, đấy là pháp Phật bất cộng thứ nhất. Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, không tiếng vội bạo, đấy là pháp Phật bất cộng thứ hai.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không quên mất sự nhớ, đấy là pháp Phật
bất cộng thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có tâm bất định,
đấy là pháp Phật bất cộng thứ tư. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
khônng các thứ tưởng, đấy là pháp Phật bất cộng thứ năm. Tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác không bỏ chẳng chọn, đó là pháp Phật bất cộng thứ sáu.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chí muốn không lui, đó là pháp Phật bất
cộng thứ bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tinh tiến không lui, đó
là pháp Phật bất cộng thứ tám. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhớ nghĩ
không lui, đó là pháp bất Phật bất công thứ chín. Tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác Bát nhã không lui, đó là pháp bất Phật bất công thứ mười. Tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giải thoát không lui, đấy là pháp bất Phật bất
công thứ mười một. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giải thoát trí kiến
không lui, đó là pháp bất Phật bất công thứ mười hai. Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác hoặc trí hoặc kiến ở đời quá khứ vô trước vô ngại, đó là
pháp bất Phật bất công thứ mười ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
hoặc trí hoặc kiến ở đời vị lai vô trước vô ngại, đấy là pháp bất Phật bất
công thứ mười bốn. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc trí kiến ở đời
vị lai vô trước vô ngại, đấy là pháp bất Phật bất công thứ mười lăm. Tất
cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo, theo
trí mà chuyển, đấy là pháp Phật bất cộng thứ mười sáu. Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác tất cả ngữ nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí mà chuyển,
đấy là pháp Phật bất cộng thứ mười bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí mà chuyển, đấy là pháp Phật bất
cộng thứ mười tám. Thiện Hiện! Đấy là mười tám Phật bất cộng. Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác có đủ ba mươi hai tướng đại sĩ là sao? Thiện Hiện! Dưới chân Thế
Tôn có tướng bằng thẳng, khéo yên trụ đẹp, in như đáy hộp, đất dù chỗ cao
thấp tùy chổ chân dậm thảy đều bằng phẳng, không chỗ nào chẳng xúc tới,
đấy là thứ nhất. Dưới chân Thế Tôn ngàn vẻ xoáy tròn, các tướng chấu nhau
không chỗ nào mà không tròn đầy, đấy là thứ hai. Tay chân Thế Tôn thảy đều
mềm mại như bông đổ la miên, hơn hết tất cả, đấy là thứ ba. Tay chân Thế
Tôn mỗi mỗi giữa ngón tay in như nhạn vương đều có màng lưới, sắc vàng
dính liền, vẻ như bức thêu họa, đấy là thứ tư. Tay chân Thế Tôn có bấy
nhiêu ngón, tròn đầy thon dài rất nên ưa muốn, đấy là thứ năm. Gót chân
Thế Tôn rộng đầy tròn dài cùng mu tương xứng, hơn hữu tình khác, đấy là
thứ sáu. Mu chân Thế Tôn dài cao đầy đặn, mềm mại diệu đẹp, cùng gót tương
xứng, đấy là thứ bảy. Hai đùi Thế Tôn lần lữa thỏn tròn, như đùi nai chúa
ế nê tà tiên, đấy là thứ tám. Đôi cánh tay Thế Tôn dài thẳng đều tròn. Như
vòi voi chúa, đứng thẳng đụng gối, đấy là thứ chín. A⭠tướng Thế Tôn thế
bướu dấu kín, giống như long mã, cũng như tượng vương, đấy là thứ mười.
Chân lông Thế Tôn mỗi lỗ mọc một sợi, mềm nhuận xanh biếc, xoay quanh bên
hữu, đấy là mười một. Tóc lông Thế Tôn thẳng đều lướt lên, xoay quanh bên
hữu, mềm nhuận xanh biếc, sắc vàng nghiêm thân, rất nên ưa muốn, đấy là
mười hai. Da thân Thế Tôn mềm mại, mỏng nhuận trơn, đất bụi nước đều chẳng
dính được, đấy là mười ba. Da thân Thế Tôn toàn sắc chơn kim, sáng sạch
lóng lánh như dùi diệu kim, nhiều báu trang nghiêm được chúng ưa thấy, đấy
là mười bốn. Hai chân, trong làng bàn tay, cổ và hai vai, bảy chỗ Thế Tôn
đầy đặn, đấy là thứ mười lăm. Vai ót Thế Tôn tròn đầy rất đẹp, đấy là mười
sáu. Vai nách Thế Tôn thảy đều đầy chắc, đấy là mười bảy. Dung nghi Thế
Tôn lớn đầy ngay thẳng, đấy là mười tám. Thân tướng Thế Tôn dài rộng đoan
nghiêm, là mười chín. Thể tướng Thế Tôn lượng cao rộng bằng nhau, quanh
khắp đầy tròn như cây nặc cù đà, là hai mươi. Cằm ngực và nữa thân trở lên
của Thế Tôn oai dung rộng lớn, như sư tử chúa, là hai mươi mốt. Thường
quang Thế Tôn mỗi mặt một tầm là hai mươi hai. Tướng răng Thế Tôn bốn mươi
chiếc bằng ngang, gốc sâu, sạch và đầy trắng như tuyết kha, là hai mươi
ba. Bốn nha Thế Tôn trắng đẹp nhọn bén là hai mươi bốn. Thế Tôn thường
được vị ngon trong thượng vị, vì hầu mạch thẳng nên răng dẫn các mạch chi
tiết trong thân, có bao hương vị, bệnh phong, nhiệt đàm, chẳng thể làm
tạp, do kia chẳng tạp mạch lìa các lỗi, trầm phù, hưởn gấp hoại tổn ung
khúc thảy, năng chánh nuốt xuống họng nước miếng thông lưu, nên thân tâm
thỏa thích, thường được hương vị, là hai mươi lăm. Thiệt tướng Thế Tôn
mỏng sạch rộng dài, năng che diện luân đến mé tóc bên tai, là hai mươi
sáu. Phạm âm Thế Tôn từ vận rộng nhã, tùy chúng hoặc nhiều hoặc ít, không
ai chẳng bình đẳng nghe, tiếng kia rền lớn in như trống trời, phát lời
thuận gọn như tiếng chim tần già, là hai mươi bảy. Lông mày mắt Thế Tôn in
như trâu chúa, xanh biếc tề chỉnh chẳng lộn loạn nhau, là hai mươi tám.
Tròng mắt Thế Tôn xanh biếc trắng đẹp, có vòng hồng xen lẫn, sáng láng rõ
ràng, là hai mươi chín. Diện luân Thế Tôn in như mặt trăng tròn đầy, tướng
lông mày sáng và sạch, như cái cung Thiên đế, là ba mươi. Giữa chặng mày
Thế Tôn có tướng bạch hào, mềm mại uốn quanh phía hữu như bông đổ la miên,
trắng sáng đẹp sạch như ngọc kha tuyết, là ba mươi mốt. Trên đỉnh Thế Tôn
, Ô sắc nị sa lồi cao tròn trặn in như lọng trời, là ba mươi hai. Thiện
Hiện! Đấy là ba mươi hai tướng Đại sĩ. Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác Có tám mươi tùy hảo là sao? Thiện Hiện! Móng tay Thế Tôn hẹp dài
mỏng nhuận, sáng sạch đẹp tịnh như hoa đồng đỏ là một. Tay chân Thế Tôn
chân Thế Tôn ngón tròn thỏn dài, đều thẳng mềm mại, đốt xương chẳng hiện,
là hai. Tay chân Thế Tôn chân Thế Tôn các ngón bằng nhau không có so le,
giữa kẽ các ngón đều là đầy kín, là ba. Tay chân Thế Tôn viên mãn như ý,
mềm sạch sáng mịn, sắc như hoa sen là bốn. Gân mạch Thế Tôn buộc kép vững
chắc, ẩn sâu chẳng hiện, là năm. Hai mát cá Thế Tôn đều ẩn chẳng hiện, là
sáu. Thế Tôn bước đi thẳng tới thong thả như rồng voi chúa, là bảy. Thế
Tôn bước đi, oai dung nghiêm chỉnh như sư tử chúa, là tám. Thế Tôn bước đi
an bình, chẳng dài chẳng ngắn in như trâu chúa, là chín. Thế Tôn bước đi
vững vàng thong thả, đi đứng nghi nhã in như ngỗng chúa, là mười. Thế Tôn
ngó lại đều quay sang hữu, in như rồng chúa, cả thân chuyển theo, là mười
một. Chi tiết Thế Tôn lần lữa đều tròn, đặt để khéo léo, là mười hai. Cốt
tiết Thế Tôn giao kết không hở, in như rồng bàng, là muời ba. Bánh chè đầu
gối Thế Tôn an bố khéo léo, bền chắc viên mãn, là mười bốn. Chỗ kín Thế
Tôn văn vẻ khéo đẹp, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh, là mười lăm.
Thân chi Thế Tôn nhuận trơn mềm mại, sáng láng sạch đẹp, đất bụi chẳng
dính, là mười sáu. Thân dung Thế Tôn đoan nghiêm không sợ, thường chẳng
khiếp nhược, là mười bảy. Thân chi Thế Tôn bền chắc đầy đặn, tướng lành
thuộc nhau, là mười tám. Thân chi Thế Tôn an định dày nặng là mười chín.
Thân tướng Thế Tôn như vua tiên, quanh giáp đoan nghiêm, sáng tròn lìa mù,
là hai mươi. Thân thể Thế Tôn có viên quang chung quanh, vớt khi đi đứng
thảy hằng tự soi sáng, là hai mươi mốt. Hình bụng Thế Tôn vun chánh, không
bịnh, mềm mại chẳng hiện, các tướng trang nghiêm, là hai mươi hai. Rốn của
Thế Tôn sâu quanh phía hữu, tròn đẹp trong sạch sáng mướt, là hai mươi ba.
Rốn của Thế Tôn dày, chẳng có lõm lòi, chung quanh khéo đẹp, là hai mươi
bốn. Da thứa Thế Tôn xa lìa ghẻ ngứa, cũnng không có mụt đen bướu thừa
thảy, là hai mươi lăm. Lòng tay Thế Tôn đầy đặn mềm mại, dưới lòng chân
bằng vững, là hai mươi sáu. Vẻ tay Thế Tôn sâu, dài, thẳng, rõ, nhuận
mướt, chẳng đứt đoạn, là hai mươi bảy. Sắc môi Thế Tôn sáng nhuận đỏ tươi
như quả tần bà, trên dưới xứng nhau là hai mươi tám. Diện môn Thế Tôn
chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, như lượng đoan nghiêm, là hai
mươi chín. Tướng lưỡi Thế Tôn mềm mỏng rộng dài, sắc như đồng đỏ, là ba
mươi. Thế Tôn phát tiếng oai rền sâu xa, như tượng vương rống, rõ ràng
sáng suốt, là ba mươi mốt. Tiếng tăm Thế Tôn hay đẹp đầy đủ, như tiếng
vang trong hang sâu, là ba mươi hai. Mũi Thế Tôn cao dài mà ngay thẳng, lỗ
kia chẳng hiện là ba mươi ba. Các răng Thế Tôn vuông vức ngay thẳng trắng
đẹp, là ba mươi bốn. Các nha Thế Tôn tròn sáng trắng trắng sạch lần lữa
nhọn bén, là ba mươi lăm. Con mắt Thế Tôn trong xanh trắng ngần, rất là
phân minh, là ba mươi sáu. Nhãn tướnng Thế Tôn dài rộng như tép hoa sen
xanh, ai nhìn cũng ưa thích, là ba mươi bảy. Mí mắt Thế Tôn trên dưới tề
chỉnh, rộng dài chẳng trắng, là ba mươi tám. Đôi mày Thế Tôn dài, dày,
chẳng trắng mà nhỏ mềm, là ba mươi chín. Đôi mày Thế Tôn dệt lượt theo
thuận thứ, sắc xanh biếc lưu ly, là bốn mươi. Đôi mày Thế Tôn cao hiển
sáng nhuận, hình như trăng đầu tháng, là bốn mươi mốt. Tai Thế Tôn dài
rộng lớn dày, trái tai tròn trặn, là bốn mươi hai. Hai tai Thế Tôn tươi
đẹp bằng thẳng, lìa các lầm lỗi, là bốn mươi ba. Dung nghi Thế Tôn năng
khiến kẻ thấy không tổn không giảm, đều sanh mến kính, là bốn mươi bốn.
Trán Thế Tôn rộng, viên mãn bình chánh, hình tướng đẹp, là bốn mươi lăm.
Thân phần Thế Tôn nửa trên viên mãn, như sư tử chúa oai nghiêm không ai
đối địch nổi, là bốn mươi sáu. Tóc đầu Thế Tôn dài thượt xanh biếc, dày
dặn chẳng bạc, là bốn mươi bảy. Tóc đầu Thế Tôn thơm sạch nhỏ mềm, nhuận
mướt xoay quanh, là bốn mươi tám. Tóc đầu Thế Tôn bằng thẳng không rối,
cũng chẳng dính đùm, là bốn mươi chín. Tóc đầu Thế Tôn bền chắc chẳng đứt,
hẳn không trốc rụng, là năm mươi. Tóc đầu Thế Tôn láng trơn đẹp lạ, đất
bụi chẳng dính, là năm mươi mốt. Thân phần Thế Tôn vững vàng đầy đặn hơn
na la diên kiên cố, là năm mươi hai. Thân thể Thế Tôn cao lớn ngay thẳng,
là năm mươi ba. Các lỗ trống Thế Tôn trong sạch tròn đẹp, là năm mươi bốn.
Thân chi Thế Tôn thế lực thù thắng không ai sánh bằng, là năm mươi lăm.
Thân tướng Thế Tôn được chúng ưa xem, thường không biết cháng là năm mươi
sáu. Diện luận Thế Tôn dài rộng đúng chỗ, sáng láng trong trẻo như trăng
thu đầy, là năm mươi bảy. Nhan mạo Thế Tôn thư thới sáng tỏ, ngậm cười
trước khi thốt lời, duy hướng thuận chẳng trái, là năm mươi tám. Di䮠mạo
Thế Tôn sáng láng vui vẻ, xa lìa các lỗi nhăn nhó xanh đỏ thảy, là năm
mươi chín. Da thân Thế Tôn sạch sẽ không nhớp, thường không hôi thúi, là
sáu mươi. Các lỗ lông trong thân thể Thế Tôn thường xuất hương như ý vi
diệu, là sáu mươi mốt. Diện môn Thế Tôn thường xuất hương tối thượnng thù
thắng, là sáu mươi hai. Tướng đầu Thế Tôn tròn trặn đẹp lạ như quả mạc đạt
na, cũng như ngà lọng trời, là sáu mươi ba. Lông thân Thế Tôn sáng sạch
trong biếc như cổ chim công, vẻ đẹp, sắc giống đồng đỏ, là sáu mươi bốn.
Pháp âm Thế Tôn tùy chúng lớn nhỏ, chẳng thêm chẳng bớt, đúng lý không
sai, là sáu mươi lăm. Đỉnh tướng Thế Tôn không ai thấy được, là sáu mươi
sáu. Tay chân Thế Tôn chân Thế Tôn ngón màng phân minh, trang nghiêm đẹp
lạ, sắc như đồng đỏ, là sáu mươi bảy. Thế Tôn khi đi, chân cách đất chừng
bốn ngón tay mà hiện in có dấu, là sáu mươi tám. Thế Tôn tự vững chẳng đợi
ai đỡ, thân không nghiêng động, cũng chẳng xiêu ngã, là sáu mươi chín. Oai
đức Thế Tôn xa rúng tất cả, kẻ ác tâm thấy liền mừng, kẻ sợ hãi thấy liền
yên lòng, là bảy mươi. Tiếng tăm Thế Tôn chẳng cao chẳng thấp, theo ý
chúng sanh hòa vui cho lời, là bảy mươi mốt. Thế Tôn năng tùy các loại hữu
tình, ngôn âm ý vui mà vì thuyết pháp, là bảy mươi hai. Mật âm Thế Tôn
diễn thuyết chánh pháp, tùy loại hữu tình đều khiến được hiểu, là bảy mươi
ba. Thế Tôn thuyết pháp đều nương thứ lớp, quyết có nhân nói không điều gì
chẳng khéo, là bảy mươi bốn. Thế Tôn bình đẳng xem các loại hữu tình khen
thiện chê ác mà không ưa ghét, là bảy mươi lăm. Việc làm của Thế Tôn trước
xem sau làm, khuôn phép đầy đủ, khiến biết thiện tịnh, là bảy mươi sáu.
Tướnng hảo Thế Tôn tất cả hữu tình không ai thấy một cách trọn vẹn, là bảy
mươi bảy. Xương ót Thế Tôn cứnng vữnng chắc viên mãn, là bảy mươi tám.
Nhan dunng Thế Tôn thường trẻ chẳng già, ưa đạo chỗ cũ, là bảy mươi chín.
Tay chân Thế Tôn chân và trước ngực, hông Thế Tôn đều có đức tướng cát
tường xoay quanh, vẻ như bức thêu họa, sắc giống châu đơn, là thứ tám
mươi. Thiện Hiện! Đó gọi là tám mươi tùy hảo. Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác trọn nên các tướng hảo như thế, nên thân quảng tự nhậm vận năng
soi thế giới Tam thiên đại thiên, không chỗ nào chẳng khắp đầy. Nếu khi
tác ý, liền năng soi khắp vô số vô lượng vô biên thế giới. Nhưng vì thương
xót các hữu tình nên thu nhiếp thường quang, soi mỗi mặt một tầm. Nếu
trong thân quang tức nhật nguyệt thảy có mấy ánh sáng đều thường chẳng thể
biết được ngày đêm, nữa tháng, ngày giờ số năm được, sở tác sự nghiệp gì
có chẳng thành được. tiếng Phật tự nhậm vận năng khiến khắp thế giới Tam
thiên đại thiên. Nếu khi tác ý tức năng khắp đầy vô số vô lượng vô biên
thế giới. Nhưng vì lợi vui các hữu tình nên tiếng tùy vô lượng chúnng,
chẳng bớt chẳng thêm. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha
tát năng đem ái ngữ nhiếp các hữ tình? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đem âm thanh mềm mại vì loại hữu tình
trước nói bố thí Ba la mật đa phương tiện nhiếp thọ, thứ nói tịnh giới Ba
la mật đa phương tiện nhiếp thọ, thứ nói an nhẫn Ba la mật đa phương tiện
nhiếp thọ, thứ nói tinh tiễn Ba la mật đa phương tiện nhiếp thọ, thứ nói
tĩnh lự Ba la mật đa phương tiện nhiếp thọ, sau nói Bát nhã Ba la mật đa
phương tiện nhiếp thọ. Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu, đem âm thanh mềm mại nói nhiều sáu món Ba la mật đa đầy
đủ thu nhiếp các hữu tình. Vì sao? Vì bởi sáu món Ba la mật đa đầy nănng
nhiếp thọ các thiện pháp vậy. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha
tát năng đem lợi hành nhiếp các hữu tình? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, Ở trong đêm dài các thứ phương tiện
khuyên các hữu tình tinh siênng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và bao nhiêu các pháp thù thắng khác,
thường không biếng nhác. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha
tát thường đem đồng sự nhiếp các hữu tình? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem thắng thần thông và sức đại
nguyện, hiện ở trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, người trời thảy, đồng
sự nghiệp kia phương tiện nhiếp thọ, khiến được lợi ích an vui thù thắng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
năng đem bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự nghiệp kia phương tiện nhiếp
thọ, khiến được lợi ích an vui thù thắng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
năng đem bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự như thế nhiếp các hữu tình, đấy
là pháp rất quý lạ hiếm có. Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùnng
Phật nhãn xem khắp thế giới mười phương vô lượng Căng già sa thảy các Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thời dạy bảo dạy trao
các Bồ tát, phát lên lời này: Thiện nam tử! Ngươi nên khéo học dẫn phát
các chữ đà la ni môn. Nghĩa là khéo học một chữ cho đến mười chữ, như thế
cho đến vô số, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học tất cả ngữ ngôn đều vào
một chữ, cho đến hoặc vào mười chữ , như vậy cho đến hoặc hai mươi cho đến
trăm ngàn, vô số, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học với trong một chữ
nhiếp tất cả chữ, tất cả chữ nhiếp trong một chữ, dẫn phát tự tại. Lại nên
khéo học với trong một chữ nhiếp bốn mươi hai chữ, bốn mươi hai chữ nhiếp
trong một chữ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này nên khéo học bốn mươi hai
chữ vào trong một chữ, một chữ cũng vào trong bốn mươi hai chữ như thế.
Học như thế rồi đối trong một chữ dẫn phát khéo léo. Với dẫn phát chữ được
khéo léo rồi, lại đối vô chữ dẫn phát khéo léo. Như các Đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác đối pháp khéo léo, đối chữ khéo léo, mới đem khéo léo năng
vì hữu tìnnh thuyết pháp có chữ đối trong vô chữ cũng được khéo léo. Do vì
khéo léo nên nănng vì hữu tình thuyết pháp có chữ, thuyết pháp không chữ,
vì pháp không chữ thuyết pháp có chữ. Sở dĩ vì sao? Thiện Hiện! Lìa chữ vô
chữ không có Phật pháp khác, vượt tất cả chữ danh chơn Phật pháp. Vì cớ
sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều rốt ráo không, vô tế
không vậy. Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện thưa
với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp, tất cả hữu tình đều rốt ráo
không, vô tế không nên vượt các chữ ấy, thời tất cả pháp, tất cả hữu tình
tự tánh rốt ráo đều bất khả đắc. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, tu hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la
mật đa. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu
hành bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát Ma ha tát
làm sao tu hành bốn niệm trụ; tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát Ma ha tát làm
sao tu hành không giải thoát môn; tu hành vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn. Bồ tát Ma ha tát làm sao an trụ
nội không; an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,
tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh
không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát Ma ha tát làm sao an trụ
chơn như; an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới. Bồ tát Ma ha tát làm sao an trụ khổ thánh đế, an trụ tập
diệt đạo thánh đế. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu
hành tám giải thoát; tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành tất cả đà la ni môn, tu hành tất cả tam
ma địa môn. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành Cực hỷ địa; tu hành Ly cấu
địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn
hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Bồ tát Ma ha tát làm
sao tu hành năm nhãn, tu hành sáu thần thông. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu
hành Phật mười lực; tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp
Phật bất cộng. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành pháp vô vong thất, tu hành tánh
hằng trụ xả. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành nhất thiết trí; tu hành đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành ba mươi
hai tướng Đại sĩ, tu hành tám mươi tùy hảo. Bồ tát Ma ha tát làm sao trụ
sáu thần thông dị thục. Sanh rồi vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp? Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình
đều bất khả đắc. Thi thiết hữu tình cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình
bất khả đắc nên sắc cũng bất khả đắc, thọ tưởng hành thức cũng bất khả
đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn xứ bất khả đắc. Vì tất cả hữu
tình bất khả đắc nên sắc xứ bất khả đắc, thanh hương vị xúc pháp xứ cũng
bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên nhãn giới bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng bất khả đắc. Vì
tất cả hữu tình bất khả đắc nên sắc giới bất khả đắc, thanh hương vị xúc
pháp giới cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn thức
giới bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng bất khả đắc. Vì tất
cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn xúc bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn xứ bất khả đắc.
Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên sắc xứ bất khả đắc, thanh hương vị xúc
pháp xứ cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên nhãn giới bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng bất khả đắc. Vì
tất cả hữu tình bất khả đắc nên sắc giới bất khả đắc, thanh hương vị xúc
pháp giới cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn thức
giới bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng bất khả đắc . Vì tất
cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn xúc bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ bất khả đắc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các
thọ cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên địa giới bất khả đắc, thủy hỏa phong không thức giới cũng bất khả đắc.
Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên nhân duyên bất khả đắc; đẳng vô gián
duyên, sở duyên duyên bất khả đắc; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên,
tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên tất
cả pháp theo duyên sanh ra đều bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên vô minh bất khả đắc; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, tho, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình
bất khả đắc nên bố thí Ba la mật đa bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên bốn tĩnh lự bất khả đắc; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng bất khả
đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên bốn niệm trụ bất khả đắc; bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên không giải
thoát môn bất khả đắc; vô tướng vô nguyện giải thoát môn cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên nội không bất khả đắc; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu Vì tất cả hữu tình bất khả đắc không, vô Vì
tất cả hữu tình bất khả đắc không, tất cánh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh
tự tánh không cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên chơn như bất khả đắc; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư
không giới, bất tư nghì giới cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả
đắc nên khổ thánh đế bất khả đắc, tập diệt đạo thánh đế cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên tám giải thoát bất khả đắc; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc bất khả đắc nên tất cả
đà la ni môn bất khả đắc, tất cả tam ma địa môn cũng bất khả đắc. Vì tất
cả hữu tình bất khả đắc nên Cực hỷ địa bất khả đắc; Ly cấu địa, Phát quang
địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất
động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình
bất khả đắc nên năm nhãn bất khả đắc, sáu thần thông cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên Phật mười lực bất khả đắc; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên pháp vô vong thất bất khả đắc, tánh hằng trụ xả cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc
nên nhất thiết trí bất khả đắc; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng
bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc nên quả Dự lưu bất khả đắc;
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề cũng bất khả đắc. Vì tất
cả hữu tình bất khả đắc nên tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát bất khả đắc, chư
Phật Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất
khả đắc nên ba mươi hai tướng Đại sĩ bất khả đắc, tám mươi tướng tùy hảo
cũng bất khả đắc. Bạch Thế Tôn! Trong bất khả đắc
vô hữu tình, vô thi thiết hữu tình. Vô sắc, vô thi thiết sắc; vô thọ tưởng
hành thức, vô thi thiết thọ tưởng hành thức. Vô nhãn xứ, vô thi thiết nhãn
xứ; vô nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, vô thi thiết nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Vô sắc
xứ, vô thi thiết sắc xứ; vô thanh hương vị xúc pháp xứ, vô thi thiết thanh
hương vị xúc pháp xứ. Vô nhãn giới, vô thi thiết nhãn
giới; vô nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, vô thi thiết nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.
Vô sắc giới, vô thi thiết sắc giới; vô thanh hương vị xúc pháp giới, vô
thi thiết thanh hương vị xúc pháp giới. Vô nhãn thức giới, vô thi thiết
nhãn thức giới; vô nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, vô thi thiết nhĩ tỷ
thiệt thân ý thức giới. Vô nhãn xúc, vô thi thiết nhãn xúc; vô nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc, vô thi thiết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vô nhãn làm duyên
sanh ra các thọ, vô thi thiết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; vô nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, vô thi thiết nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vô địa giới, vô thi thiết địa
giới; vô thủy hỏa phong không thức giới, vô thi thiết thủy hoả phong không
thức giới. Vô nhân duyên, vô thi thiết nhân duyên; vô đẳng vô gián duyên,
sở duyên duyên, tăng thượng duyên, vô thi thiết đẳng vô gián duyên, sở
duyên duyên, tăng thượng duyên. Vô các pháp theo các duyên sanh ra, vô thi
thiết các pháp theo các duyên sanh ra. Vô vô minh, vô thi thiết vô
minh; vô hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, hữu, sanh, lão tử sầu
thán khổ ưu não, vô thi thiết hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não. Vô
bố thí Ba la mật đa, vô thi thiết bố thí Ba la mật đa; vô tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Vô bốn tĩnh lự, vô thi thiết
bốn tĩnh lự; vô bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vô bốn niệm trụ, vô thi
thiết bốn niệm trụ, vô bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, vô thi thiết bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi. Vô không giải thoát môn; vô vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn, vô thi thiết vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Vô nội không, vô thi thiết nội
không; vô ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không, vô thi thiết ngoại không cho đến vô tánh tự tánh
không. Vô chơn như, vô thi thiết chơn
như; vô pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới, vô thi thiết pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Vô khổ
thánh đế, vô thi thiết khổ thánh đế; vô tập diệt đạo thánh đế, vô thi
thiết tập diệt đạo thánh đế. Vô tám giải thoát, vô thi thiết
tám giải thoát; vô tám thắng xứ, chín thưú đệ định, mười biến xứ. Vô tất
cả đà la ni môn, vô thi thiết tất cả đà la ni môn; vô tất cả tam ma địa
môn, vô thi thiết tất cả tam ma địa môn. Vô Cực hỷ địa, vô thi thiết Cực
hỷ địa; Vô Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa,
Hiền tiền địa, Viễn hành địa, Bất độnng địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa,
vô thi thiết Ly cấu dịa cho đến Pháp vân địa. Vô năm nhãn, vô thi thiết
năm nhãn; vô sáu thần thông, vô thi thiết sáu thần thông. Vô Phật mười lực, vô thi thiết
Phật mười lực; vô bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất
cộng, vô thi thiết bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vô
đại từ, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vô thi thiết đại từ, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả. Vô nhất thiết trí, vô thi thiết nhất thiết trí, vô đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí, vô thi thiết đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí. Vô quả Dự lưu, vô thi thiết quả
Dự lưu; vô quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, vô thi thiết
quả Nhất lai cho đến Độc giác Bồ đề. Vô tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, vô
thi thiết tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Vô chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Vô ba mươi hai tướng đại sĩ, vô thi thiết ba mươi hi tướng đại sĩ;
vô tám mươi tùy hảo, vô thi thiết tám mươi tùy hảo. Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình,
pháp và thi thiết đều bất khả đắc, đều vô sở hữu. Bồ tát Ma ha tát làm sao
khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì các hữu tình tuyên nói các
pháp? Bạch Thế Tôn! Chớ bảo rằng Bồ tát Ma ha tát an trụ pháp bất chánh,
vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình trụ pháp bất
chánh, đem pháp điên đảo an lập hữu tình. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma
ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, hãy bất đắc Bồ đề, huống có
Bồ đề phần pháp mà khá được ấy. Hãy bất đắc Bồ tát Ma ha tát, huống có
pháp Bồ tát Ma ha tát mà khá được ấy? Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi vừa nói. Tất cả hữu tình đều bất khả đắc, thi thiết tất
cả hữu tình cũng bất khả đắc. Tất cả pháp đều bất khả đắc, thi thiết tất
cả pháp đều bất khả đắc. do bất khả đắc, đều vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên
phải biết nội không không, phải biết ngoại không, nội ngoại không, không
không, đại không, thắng nghĩa không hữu vi không, vô vi không, tất cánh
không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng
không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh
không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không không. Phải biết chơn như không; phải
biết pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới không. Phải biết khổ thánh đế không, phải biết tập diệt đạo
thánh đế không. Phải biết sắc không, phải biết
thọ tưởng hành thức không. Phải biết nhãn xứ không, phải biết nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ không. Phả biết sắc xứ không, phải biết thanh hương vị xúc pháp
xứ không. Phải biết nhãn giới không, phải
biết nhĩ tỷ thiệt thân ý giới không. Phải biết sắc giới không, phải biết
thanh hương vị xúc pháp giới không. Phải biết nhãn thức giới không, phải
biết nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới không. Phải biết nhãn xúc không, phải
biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc không. Phải biết nhãn xúc lảm duyên sanh ra
các thọ không, phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ
không. Phải biết địa giới không, phải
biết thủy hỏa phong không thức giới không. Phải biết nhân duyên không;
phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không.
Phải biết các pháp theo duyên sanh ra không. Phải biết vô minh không; phải
biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử
sầu thán khổ ưu não không. Phải biết ngã không; phải biết hữu tình, mạng
giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khởi tác
giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, kiến giả
không. Phải biết bố thí Ba la mật đa;
phải biết tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa
không. Phải biết bốn vô tĩnh lự không; phải biết bốn vô lượng, bốn vô sắc
định không. Phải biết bốn niệm trụ không; phải biết bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi không. Phải biết không giải thoát môn
không; phải biết vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không. Phải biết tám
giải thoát không; phải biết tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
không. Phải biết tất cả đà la ni môn không, phải biết tất cả tam ma địa
môn không. Phải biết Cực hỷ địa không;
phải biết bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng
không. Phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả không. Phải biết pháp vô
vong thất không, phải biết tánh hằng trụ xả không. Phải biết nhất thiết
trí không; phải biết đạo tướng trú, nhất thiết tướng trí không. Phải biết quả Dự lưu không;
phải biết quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề không. Phải
biết tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát không. Phải biết chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề không. Phải biết tất cả cõi Phật
không, phải biết thành thục hữu tình không. Phải biết ba mươi hai tướng
đại sĩ không, phải biết tám mươi tùy hảo không. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thấy tất cả pháp không rồi mới vì
các hữu tình tuyên nói các pháp khiến họ lìa điên đảo. Dù là vì các hữu
tình tuyên nói các pháp mà đối hữu tình đều vô sở đắc. Đối các không tướng
chẳng thêm chẳng bớt, không lấy không bỏ. Do nhân duyên đây, dù nói các
pháp mà không nói gì. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này khi đối tất cả pháp quán như thế, đối tất cả pháp được trí vô chướng.
Do trí này nên chẳng hoại các pháp, không hai phân biệt, vì các hữu tình
như thật tuyên nói, khiến lìa vông tưởng điên đảo chấp trước, tùy kia sở
ưng tới quả Tam thừa.