Kinh
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)
Hán
dịch:
Tam
Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch:
Hòa
Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch:
Hòa Thượng Thích Thiện
Siêu
Sàigòn - 1998
--- o0o ---
Tập
21
Quyển
Thứ 523
Hội
Thứ Ba
PHẨM PHƯƠNG TIỆN KHÉO
LÉO
Thứ 26
- 1
Bấy giờ, Thiện Hiện khởi nghĩ
này rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là sâu thẳm, chư Phật Vô thượng
chánh đẳng Bồ đề cũng rất sâu thẳm. Ta nên
hỏi Phật hai nghĩa sâu thẳm. Khởi nghĩ này rồi bèn thưa Phật rằng: Bát nhã
Ba la mật đa sâu thẳm tức Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Chư Phật Vô thượng Cháng đẳng Bồ đề tức Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm. Như vậy, Bát nhã Ba la mật đa và Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề đều rất sâu thẳm chẳng thể tận vậy. Duyên nào hai đây
nói là vô tận?
Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã
Ba la mật đa sâu thẳm và Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề đều như hư không chẳng thể tận nên nói là vô tận.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Bồ tát Ma ha tát làm sao dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát nên quán sắc vô tận nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa, nên
quán thọ tưởng hành thức vô tận nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa,Nói
rộng cho đến nên quán Nhất thiết trí trí cũng vô tận nên dẫn phát
Bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát nên quán sắc như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la
mật đa, nên quán thọ tưởng hành thức như hư không vô tận dẫn phát được Bát
nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến nên
quán Nhất thiết trí trí như hư không vô tận
dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát nên quán vô minh duyên hành như hư không vô tận dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán hành duyên thức như hư không vô tận
dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán thức duyên danh sắc như hư
không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán danh sắc duyên
sáu xứ như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán
sáu xứ duyên xúc như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.
Nên quán xúc duyên thọ như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la mật
đa. Nên quán thọ duyên ái như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la
mật đa. Nên quán ái duyên thủ như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba
la mật đa. Nên quán thủ duyên hữu như hư không vô tận dẫn phát được Bát
nhã Ba la mật đa. Nên quán hữu duyên sanh như hư không vô tận dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa. Nên quán sanh duyên lão tử sầu thân khổ ưu não
như hư không vô tận dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Bồ tát
Ma ha tát nên làm dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa như thế.
Thiện Hiện phải biết: Các Bồ
tát Ma ha tát quán sát mười hai duyên khởi như thế xa lìa hai bên, chúng
các Bồ tát Ma ha tát này chẳng cộng diệu quán.
Thiện Hiện phải biết: Các Bồ
tát Ma ha tát ngồi tòa kim cương dưới cội Bồ đề, như thật quán sát mười
hai duyên khởi in như hư không chẳng thể tận vậy, bèn năng
chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ
tát Ma ha tát dùng hành tướng như hư không vô tận hành Bát
nhả Ba la mật đa sâu thẳm, như thật quán sát mười hai duyên khởi, chẳng
rơi Thanh văn và bậc Ðộc giác, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Các
thiện nam tử trụ Bồ tát thừa nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề có kẻ quay
lui bởi đều chẳng nương tác ý phương tiện khéo léo dẩn phát Bát nhã
Ba la mật đa. Bởi kia chẳng hiểu Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành Bát nhã
Ba la mật đa năng dùng hành tướng như
hư không vô tận, như thật quán sát mười hai duyên khởi dẫn phát Bát nhã Ba
la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Các
thiện nam tử trụ Bồ tát thừa nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà có quay
lui, đều bởi xa lìa phương tiện khéo léo dẩn phát Bát nhả Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ
tát Ma ha tát năng đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bị quay lui, tất
cả đều nương phương tiện khéo léo dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma
ha tát này nhờ nương phương tiện khéo léo như thế tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, dùng hành tướng như hư không vô tận dẫn phát Bát nhã Ba la
mật đa, như thật quan sát mười hai duyên khởi. Bồ tát Ma ha tát này do
nhân duyên đây mau được viên mãn Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm.
Thiện Hiện phải biết: Các Bồ
tát Ma ha tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế chẳng thấy có pháp
không nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp không nhân mà diệt, chẳng thấy có
pháp tánh tướng thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt. Chẳng thấy pháp có ngã,
hữu tình, nóí rộng cho đến tri giả, kiến giả. Chẳng thấy có pháp hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoâc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh
hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng
xa lỉa. Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát thường nên quán sát
duyên khởi như thế tu hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Nếu khi
Bồ tát Ma ha tát như thật quán sát pháp môn duyên khởi tu hành Bát nhã Ba
la mật đa, khi ấy Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy
sắc uẩn cho đến thức uẩn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,
hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc
chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Nói rộng cho đến chẳng
thấy Nhất thiết trí trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,
hoặc ngã hoâc vô ngã, hoâc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng
vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Thiện Hiện phải biết: Nếu khi
Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, khi ấy Bồ tát Ma ha
tát mặc dù hành Bát nhã Ba la mật đa mà chẳng thấy có sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, cũng lại chẳng thấy có pháp năng
thấy sở hành Bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng thấy có chẳng thấy
như thế. Mặc dù hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la
mật đa, mà chẳng thấy có sở hành tĩnh lự cho đến
bố thí Ba la mật đa, cũng chẳng thấy có chẳng thấy như thế. Nói rộng cho
đến mặc dù tu Nhất thiết trí trí, cũng lại chẳng thấy có pháp năng thấy sở
tu Nhất thiết trí trí, cũng chẳng thấy có chẳng thấy như thế. Thiện Hiện
phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà
làm phương tiện nên hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết: Nếu khi
Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi ấy ác ma sanh buồn khổ lớn, như trúng
tên độc, ví như có người cha mẹ bị chết vội,
thân tâm đau khổ, ác ma cũng vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa
Phật rằng: Vì một ác ma thấy các Bồ tát Ma ha
tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện tu hành Bát
nhã Ba la mật đa sanh đau khổ lớn như trúng
tên độc, hay tất cả ác ma khắp thế giói Tam thiên đại thiên cũng đều như
thế?
Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả
ác ma đầy khắp thế giới Tam thiên đại thiên cũng đều như thế, mỗi
ma ở bản tòa chẳng thể tự yên được.
Thiện Hiện phải biết: Các Bồ
tát Ma ha tát thường nên an trụ hạnh trụ chơn tịnh Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm . Nếu Bồ tát Ma ha tát thường năng an trụ được hạnh trụ chơn tịnh
Bát nhã Ba la mật đa, thế gian, trời,
người, a tố lạc thảy rình tìm dở kia trọn chẳng năng
được, cũng lại chẳng thể làm rối loạn ngăn ngại được. Vậy nên, Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nên siêng
an trụ hạnh trụ chơn tịnh Bát nhã Ba la mật
đa sâu thẳm.
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ
tát Ma ha tát năng chính an trụ hạnh trụ chơn tịnh Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm, thời năng tu mãn được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng chính tu
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, bèn năng
đầy đủ tu mãn được tất cả Ba la mật đa.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát năng chánh tu hành Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm, bèn năng tu mãn được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm không trái ngược, đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà
hành bố thí cho đến bát nhã, đem công đức đây
cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng
Nhất thiết trí trí. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát năng chính
tu hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, bèn năng tu mãn được bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm
không ái nhiễm không keo rít khi hành bố thí, đem
bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí
trí. Nếu các kẻ nhận hoặc hữu tình khác phi lý hủy mắng, hiềm hại lăng
nhục. Bồ tát đối kia chẳng khởi tâm thân ngữ biến khác giận dữ tổn hại trả
báo. chỉ sanh lòng từ bi thương xót đem lới hòa dịu, xấu hổ khiêm
tốn tạ lỗi. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa
dẫn nhiếp an nhẫn Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm
không ái nhiễm không keo rít khi hành bố thí, đem bố thí đây cùng
các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu các kẻ nhận hoặc
các hữu tình khác phi lý hủy mắng hiềm hại lăng nhục. Bồ tát bấy giờ bèn
khởi nghĩ này: Có các gây làm loại nghiệp như thế thời trở lại tự cảm bị
loại quả như thế. Ta nay chẳng nên cố chấp sở tác kia bỏ tự nghiệp tu
hành. Lại khởi nghĩ nữa: Ta nên đối kia và hữu tình khác càng bội tăng
trưởng tâm xả tâm thí, không đoái tiếc điều gì. Nghĩ như thế rồi phát khởi
thân tâm tinh tiến tăng thượng thường hành ơn xả thí. Ðấy là Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa dẫn
nhiếp tinh tiến Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm
không ái nhiễm không keo rít khi hành bố thí, đem bố thí đây cùng
các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Ðối các kẻ nhận và
cảnh giới khác tâm không tán loạn, chẳng cầu các dục ba cõi và Nhị thừa,
chỉ cầu Phật quả. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an tru bố thí Ba la mật đa
dẫn nhiếp tĩnh lự Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm
không ái nhiễm không keo rít khi hành bố thí, đem bố thí đây cùng
các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết
trí trí. Quán các kẻ nhận, kẻ thí, vật thí đều như vật huyễn. Chẳng thấy
thí đây đối các hữu tình có tổn có ích, đạt tất cả pháp rốt ráo đều không,
vì bất khả đắc vậy. Ð?y là Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật
đa dẫn nhiếp Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba La mật đa
dẫn nhiếp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa thân đủ luật nghi, ngữ đủ luật
nghi, ý đủ luật nghi gây các phước nghiệp. do phước nghiệp đây lìa giết
sanh mạng cho đến tà kiến. Chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, chỉ cầu
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bấy giờ Bồ tát an trụ tịnh giới mới làm
rộng ơn thí tùy các hữu tình cần ăn cho ăn,
cần uống cho uống, cần các của cải cho các của cải. Lại đem căn lành
bố thí như thế cùng các hữu tình đồng chung
với hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng cầu Thanh văn bậc Ð?c
giác thảy. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la Mật đa
dẫn nhiếp bố thí Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tịnh giới Ba la Mật đa, giả sử các hữu tình đua nhau đến cắt chia lóng đốt
nơi thân phần Bồ tát mỗi lấy cầm đi. Bồ tát đối chúng chẳng sanh tâm một
niệm giận dữ, chỉ khởi nghĩ này: Ta nay được lợi lành lớn, nghĩa là
bỏ thân hôi bẩn mong manh, được Phật thân kim cương thanh tịnh. Ðấy là Bồ
tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa,
dẫn nhiếp an nhẫn Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tịnh giới Ba la mật đa thân tâm tinh tiến thường không gián đoạn, mặc áo
giáp đại bi, phát lời thề rộng lớn. Tất cả hữu tình chìm đắm
biển khổ, ta phải vớt để trên Niết bàn cam lồ. Ðấy là Bồ tát Ma ha
tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa, dẫn nhiếp
tinh tiến Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tịnh giới Ba la mật đa tuy vào sơ tĩnh lự cho
đến định diệt tưởng thọ mà chẳng rơi Thanh văn bậc Ð?c giac thảy,
cũng chẳng chứng thật tế, vì được sức bản nguyện nắm giữ vậy, mới khởi
nghĩ này: Các loại hữu tình chìm ngấm biển khổ chẳng tự ra được,
ta nay đã đứng trên bờ giới thanh tịnh
phương tiện dẫn phát thần thông tĩnh lự, quyết định phải vớt để trên
Niết bàn thường vui. Ðấy là Bò tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa
dẫn nhiếp tĩnh lự Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tịnh giới Ba la mật đa, chẳng thấy có pháp hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc
đọa hữu tướng hoặc đọa vô tướng, hoặc đọa hữu số hoặc đọa vô số. Chỉ quán
các pháp chẳng lìa chơn như nói rộng cho đến bất tư nghì giới, chơn như
thảy đây cũng bát khả đắc. Do Bát nhã Ba la mật đa đây phương tiện khéo
léo chẳng đọa Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Ð?y là Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa dẫn tiếp Bát
nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa dẫn nhiếp
bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa, từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên
tòa Diệu Bồ đề, ở thời gian giữa, giả sử có các thứ loại hữu tình phi lý
hủy mắng khinh miệt lăng nhục, cho đến chia
cắt lóng đốt cầm đi. Bấy giờ Bồ tát trọn không giận dữ. Chỉ khởi nghĩ này:
Các hữu tình đây rất đáng thương sót, bị độc
phiền não rối loạn thân tâm, chẳng được tự tại, không chỗ nương dựa, không
kẻ cứu hộ, bần khổ bức bách. Ta phải thí kia, tùy ý cần dùng uống
ăn áo mặc và các thứ của cải. Lại đem căn lành
bố thí như thế cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà
làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng,
hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng?
Ðấy là Bồ tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa dẫn
nhiếp bố thí Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Diệu Bồ đề,
ở thời gian giữa, cho đến vì nhân duyên cứu tự mạng đối các hữu
tình trọn chẳng tổn hại. Cho đến chẳng khởi các ác tà kiến. Khi Bồ tát tu
tịnh giới như thế chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy. Lại đem
căn lành tịnh giới như thế, cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà
làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng,
hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát an trụ an nhẫn Ba la mật
đa dẫn nhiếp tịnh giới Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa phát khởi tinh tiến mạnh mẽ tăng thượng, thường khởi
nghĩ này: "Nếu một hữu tình ở ngoài một do tuần hay ngoài hoặc mười
hoặc trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc ở
ngoài một thế giới, hay ngoài hoặc mười hoặc trăm
cho đến vô lượng các thế giới đáng nên độ được, ta định phải qua đó phương
tiện giáo hóa khiến kia thọ trì hoặc chở tám học, hoặc chở năm học, hoặc
chở mười học, hoặc chở học đầy đủ, hoặc khiến trụ quả Dự lưu, hoặc khiến
trụ quả Nhất lai, hoặc khiến trụ quả Bất hoàn, hoặc khiến trụ quả A
la hán, hoặc khiến trụ Ðộc giác Bồ đề, hoặc
khiến an trụ các bậc Bồ tát cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hãy
chẳng từ chối mệt nhọc, huống gì giáo hóa vô lượng vô số vô biên hữu tình
đều khiến được lợi ích an vui mà lại lười
nhác mỏi mệt sao?” Lại đem căn lành tinh tiến như thế cùng các hữu
tình chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như
thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy
là Bồ tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa dẫn nhiếp
tinh tiến Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa nhiếp tâm chẳng loạn, lìa pháp muốn ác bất
thiện, có tầm có tứ, lìa sanh vui mừng, vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến
vào định diệt tưởng thọ. Trong các định đây
tùy chỗ sanh khởi pháp tâm tâm sở và các căn lành, tất cả hòa hợp
cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi
hướng Vô thượng Chánh đẳng bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà làm phương
tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng
về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðối các tĩnh lự và nhánh tĩnh lự trọn vô sở đắc.
Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa
dẫn nhiếp tĩnh lự Ba la mật đa. . .
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa tu hành Bát nhã Ba la mật đa
đối trong các pháp trụ quán tu pháp, mặc dù đem hành tướng xa lìa
hoặc đem hành tướng vắng lặng, hoặc đem hành tướng vô tận, hoặc đem hành
tướng diẹt hẳn quán tất cả pháp, mà đối pháp
tánh năng được chẳng tắc chứng, cho đến năng ngồi tòa Diệu Bồ đề chứng
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Từ tòa
đây khởi quay xe diệu pháp lợi ích an vui các
loại hữu tình. Lại đem căn lành diệu huệ như thế cùng các hữu tình
bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Khi đem vô sở đác mà làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ
đề như thế, xa lìa ba tâm là ai hồi hướng ,
hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa dẫn nhiếp Bát nhã Ba la mật đa, dẫn nhiếp như thế
chẳng lấy chẳng bỏ.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la
mật đa dẫn nhiếp bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa thân tâm tinh tiến thường
không lười nghỉ, cầu các thiện pháp cũng không chán mỏi. Hằng khởi nghĩ
này: Ta định phải được Nhất thi?t trí trí chẳng nên chẳng được. Bồ
tát Ma ha tát này vì muốn nhiêu ích tất cả hữu tình thường phát thệ
nguyện: " Nếu một hữu tình ở ngoài một do tuần, hay ngoài hoặc mười hoặc
trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc ở ngoài
một thế giới hay ngoài hoặc mười hoặc trăm
cho đến vô lượng các thế giới, nên đáng độ được, ta định qua đó phương
tiện giáo hóa: Nếu là các thiện nam tử Bồ tát thừa khiến trụ Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Nếu là các thiện nam tử Thanh văn thừa khiến trụ quả Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Nếu là các thiện nam tử Ðộc giác
thừa khiến cho an trụ Ðộc giác Bồ đề. Nếu các hữu tình khác khiến cho an
trụ mười thiện nghiệp đạo. Như vậy đều dùng
pháp thí tài thí mà cho sung túc đó phương
tiện dẫn nhiếp”. Lại đem căn lành bố thí như thế cùng các hữu tình
bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy. Khi đem vô sở đắc mà
làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng,
hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha
tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa dẫn nhiếp
bố thí Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Diệu Bồ
đề, tự lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến, cũng khuyên người lìa hại sanh
mạng cho đến tà kiến, xưng nêu pháp lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến
không trái ngược, vui mừng khen ngợi kẻ lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến.
Bồ tát Ma ha tát này đem tịnh giới Ba la mật
đa đây chẳng cầu Nhị thừa và quả tam giới, chỉ đem căn lành tịnh
giới như thế cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà
làm phương tiện hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng,
hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh
tiến Ba la mật đa dẫn nhiếp tịnh giới Ba la
mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa, từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Diệu Bồ
đề, ở thời gian giữa, người phi người thảy
đua đến xúc hại, hoặc lại đâm mổ cắt đứt thân thể tùy ý cầm đi. Bấy giờ Bồ
tát chẳng khởi nghĩ này: Ai đâm mổ ta,
ai cắt đứt ta, ai lại cầm đi? Chỉ khởi nghĩ này: Ta nay được lợi lành
lớn, vì các hữu tình kia làm ích ta nên đến
cắt đứt lóng đốt thân phần ta. Nhưng ta vốn vì tất cả hữu tình mà
thọ thân này, kia đến tự lấy vật sở hữu của mình mà tác thành việc cho ta.
Bồ tát suy nghĩ kỹ chắc thật tướng các pháp như thế mà tu an nhẫn. Ðem căn
lành an nhẫn thù thắng đây chẳng cầu Thanh
văn bậc Ðộc giác thảy, chỉ đem căn lành an nhẫn như thế cùng các
hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Khi đem vô sở đắc mà làm phương tiện hồi hướng
Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì
hồi hướng? Ðấy là Bồ tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa
dẫn nhiếp an nhẫn Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa siêng tu các định. Nghĩa là lìa pháp muốn ác
bất thiện có tầm có tứ, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến
vào tĩnh lự thứ tư. Ðối các hữu tình khởi tưởng cho vui vào từ vô lượng,
nói rộng cho đến vào xả vô lượng. Ðối trong các sắc khởi tưởng chán thô
vào định không vô biên xứ, nói rộng cho đến vào định diệt tưởng thọ. Bồ
tát Ma ha tát này mặc dù vào tĩnh lự vô lượng vô sắc, diệt định như thế mà
chẳng thu nhận quả dị thục kia, chỉ tùy theo hữu tình có khả năng thọ hóa
làm chỗ nhiêu ích mà sanh trong ấy. Ðã sanh đấy rồi, dùng bốn nhiếp sự sáu
đến bờ kia mà nhiêu ích đó. Bồ tát Ma ha tát này nương các tĩnh lự khởi
thắng thần thông, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, gần gũi cúng dường chư
Phật Thế Tôn, thỉnh hỏi tánh tướng các pháp thẳm sâu, tinh siêng dẫn phát
căn lành thù thắng. Ðem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện,
cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi
hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa
ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy
gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa
dẫn nhiếp tĩnh lự Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa chẳng thấy bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc
danh hoặc sự, hoặc tánh hoặc tướng, chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám
thánh đạo chi hoặc danh hoặc sự, hoặc tánh hoặc tướng. Cho đến chẳng thấy
Nhất thiết trí trí hoặc danh hoặc sự, hoặc tánh hoặc tướng. Cũng chẳng
thấy tất cả pháp hoặc danh hoặc sự, hoặc tánh hoặc tướng. Ð?i trong
các pháp chẳng khởi tướng nhớ, không sở chấp
trước như thuyết năng làm. Lại đem căn lành diệu huệ như thế cùng
các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà làm phương tiện, khi hồi
hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu,
lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa
dẫn nhiếp Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa
dẫn nhiếp bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa đối các hữu tình hành thí
tài pháp, nghĩa là lìa pháp dục ác bất thiện có tầm có tứ, lìa sanh mừng
vui vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến vào định diệt tưởng thọ. Bồ tát Ma ha
tát này đem tâm không loạn vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp hành thí
tài pháp. Bồ tát Ma ha tát này thường tự hành thí tài pháp, cũng thường
khuyên người hành thí tài pháp, phải chánh xưng nêu pháp hành thí tài
pháp, vui mừng khen ngợi kẻ hành thí tài pháp. Bồ tát Ma ha tát này đem
căn lành đây chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, chỉ đem căn lành
bố thí như thế cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà
làm phương tiện, khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi
hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát này an
trụ tĩnh lự Ba la mật đa dẫn nhiếp bố thí Ba
la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa thọ trì tịnh giới, thường chẳng khởi tâm đồng
hành tham sân si. Cũng chẳng phát tâm đồng hành xan ganh phá giới. Chỉ
thường phát khởi tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí. Lại đem
căn lành tịnh giới như thế chẳng cầu Thanh văn bậc Ð?c giác thảy,
cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà làm phương tiện, khi hồi hướng
Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì
hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa
dẫn nhiếp tịnh giới Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha
tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa tu hành an nhẫn, quán sắc như bọt
nước tụ, quán thọ như bọt nước nổi, quán tưởng như ánh nắng, quán hành như
bẹ chuối, quán thức như việc huyễn. Khi làm quán này đối
năm thủ uẩn tưởng chẳng bền chắc thường hiện tại tiền. Lại làm nghĩ
đây: Các pháp đều không, lìa ngã ngã
sở, sắc là ai sắc, thọ là ai thọ, tưởng là ai tưởng, hành là ai hành, thức
là ai thức? Khi quán như thế, lại làm nghĩ nữa: Các pháp đều không, không
ngã ngã sở, ai năng đâm cắt? Ai chịu đâm cắt?
Ai năng hủy mắng? Ai chịu hủy mắng? Ai đối việc đó mà khởi giận dữ? Khi Bồ
tát nương dựa quán sát kỹ như thế mới năng đủ sức an nhẫn. Lại đem căn lành
an nhẫn như thế cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà
làm phương tiện, khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi
hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa dẫn nhiếp an nhẫn Ba la
mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa phát siêng tinh tiến, lìa pháp dục ác bất
thiện có tầm có tứ, lìa sanh mừng vui vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến vào
tĩnh lự thứ tư. Bồ tát khi tu tĩnh lự như thế đối các tĩnh lự và nhánh
tĩnh lự đều chẳng lấy tướng. Phát khởi các
thứ thần cảnh trí thông năng làm vô biên
việc biến hóa lớn. Hoặc lại năng phát khởi
thiên nhĩ trí thông, rõ ràng thanh tịnh hơn thiên nhĩ người năng
như thật nghe các thứ tiếng tăm loại tình phi tình mười phương thế
giới. Hoặc lại phát khởi tha tâm trí thông, năng như thật biết pháp tâm
tâm sở chúng hữu tình khác mười phương thế giới. Hoặc lại phát khởi túc
trụ trí thông như thật nhớ biết các việc đời trước vô lượng hữu tình mười
phương thế giới. Hoặc lại phát khởi thiên nhãn trí thông sáng rõ thanh
tịnh hơn thiên nhãn người, năng như thật thấy các thứ sắc tượng hữu tình
vô tình mười phương thế gìới, cho đến nghiệp
quả đều như thật biết. Bồ tát Ma ha tát này an trụ năm thần thông thanh
tịnh đây, từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi cúng dường chư Phật
Thế Tôn, thỉnh hỏi pháp nghĩa sâu thẳm nơi Như Lai, vun trồng vô lượng căn
lành chơn tịnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, siêng tu
các thứ thắng hạnh Bồ tát. Ðem căn lành đây chẳng cầu quả tam giới và Nhị
thừa, cùng các hữu tình bình đẳng chung có,
hồi hướng Vô thượng chánh đẳng Bồ đ?. Ðem vô sở đắc mà làm phương
tiện khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi
hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba
la mật đa dẫn nhiếp tinh tiến Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa quán sắc uẩn cho đến
thức uẩn bất khả đắc. Nói rộng cho đến quán Nhất thiết trí trí cũng bất
khả đắc. Quán hữu vi giới bất khả đắc, quán vô vi giới cũng bất khả đắc.
Như vậy Bồ tát quán tất cả pháp bất khả đắc nên không tác không
tạo. Vì không tác tạo nên không sanh không diệt. Vì không sanh diệt nên
không lấy không bỏ. Vì không lấy bỏ nên rốt ráo thanh tịnh thường trụ
không biến. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp chư Phật ra đời
hoặc chẳng ra đời an trụ pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, không sanh không
diệt, thường không biến khác. Bồ tát Ma ha tát này tâm thường chẳng loạn,
hằng thời an trụ tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, như thật quán sát tất
cả pháp tánh đều vô sở hữu. Lại đem căn lành
diệu huệ cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà
làm phương tiện, khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi
hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa dẫn nhiếp Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
dẫn nhiếp bố thí cho đến tĩnh lự Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa quán tất cả pháp không, vô sở
hữu?
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa
Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa quán tất cả
pháp không, vô sở hữu?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
quán nội không, tánh nội không bất khả đắc. Quán ngoại không, tánh ngoại
không bất khả đắc. Quán nội ngoại không, tánh nội ngoại không bất khả đắc.
Quán đại không, tánh đại không bất khả đắc. Quán không không, tánh không
không bất khả đắc. Quán thắng nghĩa không, tánh thắng nghĩa không bất khả
đắc. Quán hữu vi không, tánh hữu vi không bất
khả đắc. Quán vô vi không, tánh vô vi không bất khả đắc. Quán rốt ráo
không, tánh rốt ráo không bất khả đắc. Quán vô tế không, tánh vô tế không
bất khả đắc. Quán vô tán không, tánh vô tán không bất khả đắc. Quán bản
tánh không, tánh bản tánh không bất kh?
đắc. Quán tướng không, tánh tướng không bất khả đắc. Quán tất cả pháp
không, tánh tất cả pháp không bất khả đắc.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ
trong mười bốn không như thế chẳng đắc sắc
hoặc không hoặc bất không, chẳng đắc thọ tưởng hàng thức hoặc không
hoặc bất không. Nói rộng cho đến chẳng đắc
Nhất thiết trí trí hoặc không hoặc bất không. Chẳng đắc hữu vi giới hoặc
không hoặc bất không. Chẳng đắc vô vi giới hoặc không hoặc bất không. Bồ
tát Ma ha tát này an trụ Bát nhã Ba la mật đa
đối các hữu tình có bao bố thí hoặc ăn
hoặc uống và các thứ của cải đều quán là không: Hoặc năng bố thí hoặc sở
bố thí, hoặc phước bố thí, hoặc quả bố thí như vậy tất cả cũng quán là
không. Bấy giờ Bồ tát do trụ không quán, ái nhiễm xan lẫn đều không cho
khởi. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la
mật đa từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên
tòa Diệu Bồ đề, phân biệt như vậy tất cả chẳng khởi. Như các Như Lai Ứng
Chánh Ðẳng Giác không lúc tạm khởi tâm ái mhiễm, tâm xan lẫn. Bồ tát Ma ha
tát đây cũng lại như thế, tu hành Bát nhã Ba la mật đa
tâm ái nhiễm, tâm xan lẫn hẳn đều chẳng khởi.
Thiện Hiện phải biết: Bát nhã
Ba la mật đa như thế là thầy các Bồ tát Ma ha tát, năng khiến chúng Bồ tát
Ma ha tát chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, sở hành bố thí đều không
nhiễm đắm. Bồ tát Ma ha tát này cầm căn lành
đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng Ðại Bồ đề
như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi
hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
dẫn nhiếp bố thí Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa thọ trì tịnh giới, tất cả tâm Thanh văn Ðộc giác
không cho khởi được. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này quán các bậc Thanh
văn Ðộc giác thảy đều bất khả đắc, hồi hướng
tâm kia cũng bất khả đắc, hồi hướng bậc kia luật nghi thân ngữ cũng bất
khả đắc. Bồ tát Ma ha tát này an trụ Bát nhã Ba la mật đa
từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Diệu Bồ đề, ở thời gian giữa tự
lìa giết sanh mạng cho đến tà kiến,
cũng khuyên người lìa giết sanh mạng cho đến tà kiến không trái ngược, vui
mừng khen ngợi kẻ lìa giết sanh mạng cho đến tà kiến. Bồ tát Ma ha tát này
cầm căn lành do tịnh giới sanh ra đây, chẳng cầu quả Nhị thừa và Tam thừa,
cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi
hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà làm phương tiện,
khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng
về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật
đa dẫn nhiếp tịnh giới Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa khởi nhẫn tùy thuận. Ðược nhẫn đây rồi thường làm
nghĩ này: "Trong tất cả pháp không có một pháp hoặc khởi hoặc diệt, hoặc
sanh hoặc lão, hoặc bệnh hoặc tử, hoặc kẻ năng mắng, hoặc
kẻ bị mắng, hoặc kẻ năng báng, hoặc kẻ bị báng, hoặc năng cắt đứt đâm lột
đánh trói. Tất cả tánh tướng như thế đều không, chẳng nên đối trong ấy
vọng tưởng phân biệt”. Bồ tát Ma ha tát này được nhẫn đây nên từ sơ phát
tâm cho đến ngồi yên tòa Diệu Bồ đề, ở thời gian giữa giả sử tất cả
các loại hữu tình đều đến mắng hủy phỉ báng
lăng nhục, dùng các dao gậy ngói đá khối thảy tổn hại đánh đập cắt đứt đâm
lột cho đến mổ xẻ lóng đốt thân phần. Bấy giờ tâm Bồ tát không biến khác,
chỉ khởi nghĩ này: “Rất đáng quái thay! Trong các pháp tánh trọn không
việc mắng hủy phỉ báng lăng nhục gia hại thảy, mà các hữu tình vọng
tưởng phân biệt bảo là thật có, phát khởi các thứ phiền não ác nghiệp hiện
tại đương lai chịu các khổ não". Bồ tát Ma ha tát này đem
căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng Ðại Bồ đề
như thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi
hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
dẫn nhiếp an nhẫn Ba la mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa mạnh mẽ tinh tiến vì các hữu tình tuyên nói chánh
pháp khiến trụ bố thí Ba la mật đa cho đến
bát nhã Ba la mật đa. Hoặc khiến trụ bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo
chi. Hoặc khiến an trụ các công đức khác. Bồ tát Ma ha tát này trọn
nên các phương tiện khéo léo, thân tâm tinh tiến dùng sức thần thông qua
một thế giới, hoặc mười hoặc trăm cho đến vô
lượng vô biên thế giới chỗ các hữu tình tuyên nói chánh pháp,
phương tiện dạy dẫn khiến trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán.
Hoặc khiến an trụ Ðộc giác Bồ dề, hoặc khiến chứng được Nhất tiết trí trí.
Bồ tát Ma ha tát này tuy làm việc đây mà chẳng trụ hữu vi giới, cũng chẳng
trụ vô vi giới. Lại đem căn lành tinh
tiến như thế cùng các hữu tình bình đẳng chung
có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà làm
phương tiện, khi hồi hướng Ðại Bồ đề như thế xa lìa ba tâm là ai hồi
hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa dẫn nhiếp tinh tiến Ba la
mật đa.
Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa, ngoại trừ định chư
Phật, đối các thắng định tất cả Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát đều năng tự
tại tùy ý vào ra. Bồ tát Ma ha tát này an trụ Bồ tát thắng định
tự tại, đối tám giải thoát đều năng tự tại thuận nghịch vào ra.
Nghĩa là có sắc quán giải thoát các sắc cho đến giải thoát diệt tưởng thọ.
Bồ tát Ma ha tát này lại đối chín định thứ
lớp hoặc nghịch hoặc thuận tự tại vào ra, là bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc, định diệt tưởng thọ.
Bồ tát Ma ha tát này đối tám giải
thoát, chín định thứ lớp thuận nghịch vào ra, thành thuộc giỏi rồi
mới vào Sư tử tần thân tam ma địa của Bồ tát Ma ha tát.
Vì sao gọi là tam ma địa Sư
tử tần thân Bồ tát Ma ha tát? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác
bất thiện, có tầm có tứ, lìa sanh mừng vui vào sơ tĩnh lự, thứ lớp cho đến
vượt tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ vào định
diệt tưởng thọ. Lại từ định diệt tưởng thọ vào trở lại định phi tưởng phi
phi tưởng xứ, thứ lớp cho đến vào sơ tĩnh lự. Ðấy là tam ma địa Sư
tử dong ruổi của Bồ tát Ma ha tát. Bồ tát Ma ha tát này đối
tam ma địa Sư tử dong ruổi đã khéo thành thuộc rồi, lại vào tam ma
địa Nhóm tan của Bồ tát Ma ha tát.
Vì sao gọi là tam ma địa Nhóm
tan Bồ tát Ma ha tát? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác bất thiện,
có tầm có tứ, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự. Từ sơ tĩnh lự khởi, thứ
lớp cho đến vào định diệt tưởng thọ. Từ định
diệt tưởng thọ khởi, vào sơ tĩnh lự. Từ sơ tĩnh lự khởi, vào định
diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng thọ khởi, vào tĩnh lự thứ hai.
Từ tĩnh lự thứ hai khởi, vào định diệt tưởng
thọ. Từ định diệt tưởng thọ khởi, vào tĩnh lự thứ ba. Từ tĩnh lự
thứ ba khởi, vào định diệt tưởng thọ. Từ định
diệt tưởng thọ khởi, vào tĩnh lự thứ tư. Từ tĩnh lự thứ tư khởi,
vào định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng
thọ khởi, vào định không vô biên xứ. Từ định không vô biên xứ khởi,
vào định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng
thọ khởi, vào định thức vô biên xứ. Từ định thức vô biên xứ khởi,
vào định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng
thọ khởi, vào định vô sở hữu xứ. Từ
định vô sở hữu xứ khởi, vào định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng thọ
khởi, vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ định phi tưởng phi phi tưởng
xứ khởi, vào định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng thọ khởi, trở lại vào
định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ
định phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi, trụ tâm bất định. Từ tâm bất định
vào trở lại định diệt tưởng thọ. Từ định diệt tưởng thọ khởi, trụ tâm bất
định. Từ tâm bất định vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ định phi
tưởng phi phi tưởng xứ khởi, trụ tâm
bất định. Từ tâm bất định vào định vô sở hữu. Từ định vô sở hữu khởi, trụ
tâm bất định. Từ tâm bất định vào định
thức vô biên xứ. Từ định thức vô biên xứ khởi, trụ tâm bất định. Từ tâm
bất định vào định không vô biên xứ. Từ định không vô biên xứ khởi,
trụ tâm bất định. Từ tâm bất định vào
tĩnh lự thứ tư. Từ tĩnh lự thứ tư khởi, trụ tâm bất
định. Từ tâm bất định vào tĩnh lự tứ ba. Từ tĩnh lự thứ ba khởi, trụ tâm
bất định. Từ tâm bất định vào tĩnh lự thứ hai. Từ tĩnh lự thứ hai
khởi, trụ tâm bất định. Từ tâm bất định vào
sơ tĩnh lự. Từ sơ tĩnh lự khởi, trụ tâm bất định. Ð?y là tam ma địa
Nhóm tan của Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tam ma địa Nhóm
tan như thế, được thật tánh bình đẳng tất cả pháp. Bồ tát Ma ha tát này
lại đem căn lành tĩnh lự như thế cùng các hữu tình bình đẳng
chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðem vô sở đắc mà
làm phương tiện, khi hồi hướng Ðại Bồ đề như
thế xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, hồi hướng về
đâu, lấy gì hồi hướng? Ðấy là Bồ tát
Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
dẫn nhiếp tĩnh lự Ba la mật đa.
--- o0o ---
Mục Lục Tập
21
Quyển thứ:
501
|
502
|
503 |
504
|
505
506
|
507
|
508|
509|
510
|
511
|
512
|
513