.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
-
ĐẠI KINH RỪNG SỪNG BÒ
(Mahagosingasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại khu vườn
trong rừng Gosing ó nhiều cây ta-l ùng với một số đông Thượng Tọa đệ
tử nổi tiếng như Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) Tôn giả Mahamoggallana
(Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả Mahakassapa (Đại Ca-diếp), Tôn giả
Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Tôn giả Ananda (A-nan)
cùng với một số Thượng Tọa đệ tử nổi tiếng khác. Rồi Tôn giả
Mahamoggallana vào buổi chiều, sau khi tham thiền đứng dậy, đi đến chỗ Tôn
giả Mahakassapa ở, sau khi đến bèn nói với Tôn giả Mahakassapa:
– Hiền giả Kassapa, chúng ta hãy
đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahakassapa vâng đáp Tôn giả
Mahamoggallana. Rồi Tôn giả Mahamoggallana, Tôn giả Mahakassapa và Tôn giả
Anuruddha đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp. Tôn giả Ananda thấy
Tôn giả Mahamoggallana, Tôn giả Mahakassapa và Tôn giả Anuruddha đi đến chỗ
Tôn giả Sariputta để nghe pháp, sau khi thấy vậy liền đi đến chỗ Tôn
giả Revata và nói với Tôn giả Revata:
– Này Hiền giả Revata, các bậc
Thượng nhân như vậy đã đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp. Này
Hiền giả Revata, chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Revata vâng đáp Tôn giả
Ananda. Rồi Tôn giả Revata và Tôn giả Ananda đi đến chỗ Tôn giả
Sariputta để nghe pháp. Tôn giả Sariputta thấy Tôn giả Revata, Tôn giả
Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy bèn nói với Tôn giả Ananda:
– Tôn giả Ananda hãy đến đây,
thiện lai, Tôn giả Ananda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn.
Này Hiền giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây
Ta la trổ ho ùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền
giả Ananda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã
nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩ ụ túc, nói
lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe
nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được
tri kiến khéo quán sát; vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú
viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta
nói với Tôn giả Revata:
– Này Hiền giả Revata, Tôn giả
Ananda đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi
Tôn giả Revata: Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như
trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng
Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh
cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu
quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sariputta,
hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta
nói với Tôn giả Anuruddha:
– Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả
Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi
Tôn giả Anuruddha: Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga...
(như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng
Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế
giới. Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh
một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy,
này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên,
quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có
thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta
nói với Tôn giả Mahakassapa:
– Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả
Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi
hỏi Tôn giả Kassapa: Này Hiền giả Kassapa, khả ái thay ngôi rừng
Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng
chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng
núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình
mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với
ba y và tán thán hạn ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu
dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống
độc cư và tán thán hạnh sống độc cư, tự mình sống không nhiễm thế
tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn
và tán thán hạn tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và
tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu Thiền định và
tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán
thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự
thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán
thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo
như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta
nói Tôn giả Mahamoggallana:
– Hiền giả Moggallana, Tôn giả
Mahakassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng
tôi hỏi Tôn giả Mahamoggallana: Này Hiền giả Moggallana, khả ái thay khu rừng
Gosinga!... Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói
khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy hỏi
nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ
không dừng lại (không trả lời được), và cuộc đàm luận về pháp được
tiếp tục. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm
sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Mahamoggallana nói với
Tôn giả Sariputta:
– Hiền giả Sariputta, chúng tôi đã
trả lời theo sự giải thích củ húng tôi. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn
giả Sariputta: Này Hiền giả Sariputta, khả ái thay, khu rừng Gosinga! Đêm rằm
sáng trăng, cây Ta-la trổ ho ùng khắp, hương trời như được tỏa rộng
khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói
khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả
Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều
phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị
ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú
vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa; an trú quả nào vị ấy
muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền
giả Moggallana, ví như một vị vua hay vị đại thần của vu ó một tủ
áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua
muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo
nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa;
cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy
vào buổi chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục
được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả
nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi
sáng; an trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú
quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào
buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả
Moggallana, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Sariputta nói với các
Tôn giả ấy:
– Này chư Hiền, chúng ta đã trả
lời theo sự giải thích củ húng ta. Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến chỗ
Thế Tôn ở và thuật lại vấn đề này cho Thế Tôn rõ. Thế Tôn trả lời
chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tôn giả ấy vâng đáp Tôn giả
Sariputta. Rồi những Tôn giả ấy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,
Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, Tôn giả
Revata và Tôn giả Ananda đến tại chỗ con ở để nghe pháp. Bạch Thế
Tôn, con thấy Tôn giả Revata và Tôn giả Ananda từ xa đi đến; thấy vậy,
con nói với Tôn giả Ananda:
"– Tôn giả Ananda, hãy đến
đây, thiện lai Tôn giả Ananda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế
Tôn. Này Hiền giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Đếm rằm sáng trăng,
cây ta-la trổ ho ùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này
Hiền giả Ananda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
’’
Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, Tôn
giả Ananda trả lời với con như sau:
"– Ở đây, Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã
nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩ ụ túc, nói
lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe
nhiều và giữ gìn kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được
tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú
viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả
Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga."
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu
trả lời cho được chơn chánh, Ananda phải trả lời như vậy. Này
Sariputta, Ananda là bậc đa văn, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã
nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩ ụ túc, nói
lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe
nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được
tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng, với văn cú
viên dung lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.
– Bạch Thế Tôn khi nghe nói vậy,
con nói với Tôn giả Revata:
"– Này Hiền giả Revata, Tôn
giả Ananda, đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng
tôi hỏi Tôn giả Revata:
"– Này Hiền giả Revata, khả
ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo
nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga".
"– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh
cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu
quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sariputta,
hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga".
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu
trả lời cho được chơn chánh, Revata phải trả lời như vậy. Này
Sariputta, Revata ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư,
nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán
hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
– Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy,
con nói với Tôn giả Anuruddha như sau:
"– Này Hiền giả Anuruddha,
Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay
chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha:
"– Này Hiền giả Anuruddha, khả
ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo
nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
Tôn giả Anuruddha nói với con:
"– Này Hiền giả Sariputta, ở
đây, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới.
Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt, lên trên đỉnh một
ngôi lầu tốt đẹp rồi quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy,
này Hiền giả Sariputta, Tỷ-Kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán
sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga".
- Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu
trả lời cho được chơn chánh, Anuruddha phải trả lời như vậy. Này
Sariputta, chính Anuruddha với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn
thế giới.
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
con nói với Tôn giả Mahakassapa:
"– Này Hiền giả Kassapa, Tôn
giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay
chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa:
"– Khả ái thay ngôi rừng
Gosinga!... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng
chói khu rừng Gosinga?"
Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
Tôn giả Mahakassapa nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, Tỷ-kheo tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng
núi, tự mình sống khất thực và tán thán đời sống khất thực, tự mình
mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với
ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu
dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống
độc cư và tán thán hạnh độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục
và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và
tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán
thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu thiền định và tán
thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán
sự thành tựu trí tuệ, tự mình giải thoát và tán thán sự thành tựu giải
thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu
giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo ấy có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga."
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời
cho được chân chánh, Kassapa phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Kassapa
tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi... tự
mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát
tri kiến.
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
con nói với Tôn giả Mahamoggallana:
"– Hiền giả Moggallana, Tôn giả
Mahakassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng
tôi hỏi Tôn giả Mahamoggallana:
"– Này Hiền giả Moggallana, khả
ái thay khu rưng Gosinga!... Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo nào có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
Tôn giả Mahamoggallana nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả
Sariputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma, (A-tỳ-đàm). Họ hỏi nhau
câu hỏi, và khi được hỏi, họ trả lời được với nhau, chớ không dừng
lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp của họ được
tiếp tục. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm
sáng chói khu rừng Gosinga. "
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời
cho được chơn chánh, Moggallana phải trả lời như vậy. Này Sariputta,
Moggallana là bậc thuyết về Chánh pháp.
Được nói vậy, Tôn giả
Mahamoggallana bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nói với Tôn
giả Sariputta, như sau:
"– Hiền giả Sariputta, chúng
tôi đã trả lời theo sự giải thích củ húng tôi. Ở đây, nay chúng tôi
hỏi Tôn giả Sariputta:
"– Này Hiền giả Sariputta, khả
ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây ta-la trổ ho ùng khắp, hương
trời như tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo nào
có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?"
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy,
Tôn giả Sariputta nói với con:
"– Ở đây, này Hiền giả
Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều
phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị
ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy an trú vào buổi
trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn
an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền giả
Moggallana, ví như một vị vua hay vị đại thần của vu ó một tủ áo đựng
đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc
vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà
vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp
áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi
chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm,
không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo
ấy muốn an trú vào buổi sáng, Tỷ-kheo ấy an trú quả ấy vào buổi
sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả
ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị
ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo
như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?."
– Lành thay, lành thay, Moggallana! Nếu
trả lời cho được chơn chánh, Sariputta phải trả lời như vậy. Này
Moggallana, Sariputta điều phục được tâm, không phải Sariputta không điều
phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị
ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú
vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị
ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Khi được nói vậy, Tôn giả
Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, vị nào đã
khéo trả lời (câu hỏi được đặt ra)?
– Này Sariputta, tất cả đều lần
lượt khéo trả lời. Và này các Ông hãy nghe Ta nói hạng Tỷ-kheo nào có
thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở đây, này Sariputta, Tỷ-kheo, sau buổi
ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước
mặt, và nghĩ rằng: "Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi
tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tôn giả ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục