Liền đấy
Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Chúng các Bồ Tát Ma ha tát này hãy chẳng đắc pháp
huống nào phi pháp, hãy chẳng đắc đạo huống nào phi đạo. Đối với tịnh giới
hãy không sở đắc, cũng không sở chấp, huống nào phạm giới. Các Bồ tát này
chẳng rơi ba cõi, cũng lại chẳng đọa các thú sanh tử, chẳng chấp thân mạng
huống nào cảnh ngoài. Đối dòng sanh tử đã làm ngằn mé, đã qua biển cả, đã
vượt nạn lớn. Lại, Xá
Lợi Tử! Chúng các Bồ Tát Ma ha tát này nương pháp như thế hành các cảnh
tướng, biết tất cả tánh đều không tánh cảnh. Do nhân duyên đây, các Thiện
sĩ này đối tất cả cảnh đều không trụ mắc, như Sư tử chúa chẳng mắc các
cảnh. Các Thiện sĩ này đối các cảnh giới không nhiễm không tạp, vượt tất
cả cảnh, như chủ buôn lớn không ai ngăn ngại. Các Thiện sĩ này nương pháp
như thế hành các cảnh tướng không bị chấp trước. Lại, Xá
Lợi Tử! Ta đều chẳng thấy trong đại chúng đây có một Bồ tác đối pháp như
thế chẳng thâm tin hiểu, đối pháp như thế nghi ngờ do dự. Lại, Xá
Lợi Tử! Nay trong chúng đây, tất cả Bồ tát đối pháp như thế đều đã dứt hẳn
nghi ngờ do dự. Các Thiện sĩ đây đối pháp như thế tự không do dự, hữu
tình. Các Thiện sĩ này do nhân duyên đây đối tất cả pháp đều chẳng do dự,
năng vì hữu tình quyết định tuyên nói tánh tất cả trọn vô sở hữu. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Ở đời đương lai, nếu có kẻ được nghe pháp như vầy, đối tất cả
pháp cũng đoạn trừ nghi ngờ do dự, cũng năng đoạn hẳn bấy nhiêu nghi ngờ
cho tất cả hữu tình. Nghĩa là tuyên nói pháp yếu như Ta nay đã nói. Lại, Xá
Lợi Tử! Ta trọn chẳng thấy các loại hữu tình căn lành mỏng ít năng đối
pháp đây thâm sanh tin hiểu. Các loại hữu tình căn lành mỏng ít chẳng đối
pháp này có sở dung thọ, vì các pháp như thế chẳng phải kia năng thọ dụng
được. Lại, Xá
Lợi Tử! Các loại hữu tình căn lành mỏng ít đối pháp như vầy hãy chẳng nghe
danh, huống năng thọ trì suy nghĩ tu tập. Nếu có kẻ được nghe pháp như
thế, Ta định ký kia sẽ được Phật pháp.
Kia đời đương lai đối các Phật Pháp năng rống Sư tử, như Ta ngày nay đối
giữa đại chúng làm rống Sư tử, rống Vô sở úy, rống Đại trượng phu, rống Tự
nhiên trí. Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu có kẻ được nghe đã thuyết pháp yếu sâu thẳm như thế, thấp đến
năng khởi được một tâm niệm tin muốn chẳng sanh phỉ báng,Ta cũng ký
kia sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Nếu các hữu
tình nghe pháp sâu thẳm vui mừng tín thọ, vì cực khó được vậy. Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu các hữu tình nghe pháp sâu thẳm thâm sanh tin muốn, năng phát
được tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, các hữu tình này lại rất khó được.Ta
nói trọn nên căn lành rộng lớn, đủ tư tưởng lớn, mặc giáp mũ lớn, mau
chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình nghe thuyết Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm như vầy vui mừng tin muốn, hằng hằng nghe thọ, kia chỗ
được phước vô lượng vô biên, huống năng thọ trì chuyển vì người nói, giả
sử chưa đã vào Chánh tánh ly sanh, hoặc kẻ đối Nhị thừa chẳng quyết định,
Ta đều ký kia sẽ được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, lợi vui hữu tình tận đời vị lai thường không dứt hết. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Các loại hữu tình thành pháp thấp kém, Ta chẳng thấy kia đối
pháp rộng lớn có nghĩa dung thọ. Pháp rộng lớn ấy là Phật Bồ đề. Lại, Xá
Lợi Tử! Các loại hữu tình có nhiều kẻ thành tựu pháp thấp kém, có bao tin
hiểu cũng đều thấp kém, chẳng thể vun trồng căn lành rộng lớn. Kia đối
Chánh pháp không nhiễm thẳm sâu rộng lớn như thế chẳng thể tín thọ nổi. Lại, Xá
Lợi Tử! Các loại hữu tình thành pháp rộng lớn, có bao tin hiểu cũng đều
rộng lớn, phát tới Đại thừa khéo xong sự nghiệp. Khéo mặt giáp mũ, khéo
hay nghĩ chọn nghĩa lý sâu thẳm. Khéo đi
đường lớn ngay thẳng không hiểm, xa lìa rừng rậm, tướng nó bình đẳng,
không các chông gai sỏi đá hầm hố, sạch sẽ không uế, chẳng vạy chẳng cong,
lợi ích thế gian, an vui thế gian, thương xót thế gian. Cùng các trời
người làm soi sáng lớn, chiếc thang lên vững chắc, đủ đại từ bi thương xót
tất cả. Đối các hữu tình muốn làm lợi ích, muốn cho an vui, muốn khiến yên
ổn, khắp cho hữu tình các đồ an vui. Hữu tình như thế tức là Bồ tác. Là Ma
ha tát khéo thọ dụng được của báu Đại pháp. Là Ma ha tát hay giỏi tìm cầu
của báu Đại pháp. Của báu tối thắng thuộc kia chẳng phải ai khác. Sở dĩ vì
sao? Nếu loại hữu tình chẳng gần bạn lành, chưa trồng căn lành, vì phước
đức mỏng, nên tin hiểu thấp kém, kia đối Chánh pháp không nhiễm sâu thẳmg
rộng lớn như thế chẳng tín thọ được. Ta nương theo các loại hữu tình có
sai khác như thế nên mật ý nói rằng:
Các hữu tình tin hiểu thấp kém lại ưa hữu tình tin hiểu thấp kém. Các loại
hữu tình tin hiểu rộng lớn lại ưa hữu tình tin hiểu rộng lớn. Bấy giờ,
Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế lấy
những pháp nào làm cảnh sở hành? Liền đấy
Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế lấy pháp vô biên làm
cảnh sở hành.Ví như phong giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật đa như
thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Như hư không giới hành cảnh vô
biên, Bát nhã Ba la mật đa như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Lại
như phong giới lấy thái hư không làm cảnh sở hành, Bát nhã Ba la mật đa
như thế lấy các pháp không làm cảnh sở hành. Lại, Xá
Lợi Tử! Như hư không giới và như phong giới đều không nơi chỗ mà khá thấy
được, cũng lại chẳng vì sanh khởi pháp tướng mà hiện tại tiền. Bát nhã Ba
la mật đa như thế đối pháp trọn không thể chỉ ra được, cũng lại chẳng vì
sanh khởi pháp tướng mà hiện tại tiền. Lại, Xá
Lợi Tử! Như hư không giới và như phong giới đều chẳng thể nắm, chẳng viên
thành thật, cũng không sắc tướng mà khá toán số. Bát nhã Ba la mật đa như
thế đều chẳng thể nắm, chẳng biên thành thật, chẳng sắc thảy tướng toán số
biết được. Lại, Xá
Lợi Tử! Như hư không giới và như phong giới không có chút pháp là viên
thành thật mà khá chỉ hiện. Bát nhã Ba la mật đa như thế không có chút
pháp là viên thành thật mà khá chỉ hiện. Khi ấy,
Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Như vậy, Bát nhã Ba la mật đa lấy gì làm
tướng? Liền
đấy, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế trọn không có
tướng. Lại, Xá
Lợi Tử! Như hư không giới và như phong giới không có chút pháp là viên
thành thật khá chỉ tướng nó. Bát nhã Ba la mật đa như thế không có chút
pháp là viên thành thật chỉ tướng kia được. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Bát nhã
Ba la mật đa như thế xa lìa các tướng, không có chút tướng mà khá được ấy. Lại, Xá
Lợi Tử! Như hư không giới không chỗ ngại mắc, Bát nhã Ba la mật đa như thế
không chỗ ngại mắc. Do đây nên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vô trước
làm tướng. Lại, Xá
Lợi Tử! Chẳng phải pháp vô trước có tướng khá được. Nhưng vì tùy thuộc
danh ngôn lý thú thế gian tác nói như
vầy: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vô trước làm tướng. Lại, Xá
Lợi Tử! Mặc dù nói Bát nhã Ba la mật đa vô trước làm tướng mà Bát nhã Ba
la mật đa đây không tướng khá được, nên chẳng thể nói vô trước làm tướng,
vì pháp vô trước không có tướng trạng vậy. Lại, Xá
Lợi Tử! Nói vô trước ấy là trước biết khắp, trước chẳng thể được, trước
như thật tánh, biết khắp tất cả điên đảo chấp trước nên gọi vô trước.
Chẳng phải trong các trước có trước khá được. Do đấy nên nói trước như
thật tánh, trước chẳng thể được. Lại, Xá
Lợi Tử! Nói vô trước ấy tức là Bát nhã Ba la mật đa. Đây tức nói là vô
trước tướng trí. Lại, Xá
Lợi Tử! Các pháp đều lấy vô trước làm tướng, vì tướng các pháp bất khả đắc
vậy, nên gọi vô trước tướng. Không có chút pháp làm khởi tướng vậy mà hiện
tại tiền, vì đối trong đây không tướng khá được nên gọi vô tướng. Vì vô
tướng nên nói gọi vô trước. Nếu tất cả pháp có chút tướng ấy, lẽ đối trong
đây có trước khá được. Vì tất cả pháp trọn không có các tướng, vậy nên
trong đây vô trước khá được. Nên nói các pháp vô trước làm tướng. Mặc dù
nói thế mà chẳng như nói, vì vô trước tướng chẳng thể nói vậy. Sở dĩ vì
sao? Vì vô trước tướng vô sở hữu vậy, tánh xa lìa vậy, chẳng thể được vậy.
Lại, Xá
Lợi Tử! Pháp vô trước tướng chẳng khá chỉ ra, không thể hiển rõ. Nhưng vì
hữu tình phương tiện chỉ ra vô trước tướng đây, nên chẳng nên chấp. Lại, Xá
Lợi Tử! Các tướng tạp nhiễm tức là vô tướng, chẳng phải pháp tạp nhiễm làm
khởi tướng vậy mà hiện tại tiền. Lại, Xá
Lợi Tử! Các pháp tạp nhiễm điên đảo hiện tiền, các điên đảo ấy đều là vô
tướng. Các vô tướng ấy đều chẳng thể nói được, nên pháp có tướng tức là vô
tướng Lại, Xá
Lợi Tử! Các pháp thanh tịnh cũng không có tướng. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp
tạp nhiễm hãy không có tướng, huống pháp thanh tịnh mà có tướng được ư! Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu kẻ năng biết khắp tánh như thật của các pháp tạp nhiễm, các
tạp nhiễm kia đều bất khả đắc. Nhưng vì các hữu tình bởi điên đảo nên khởi
các tạp nhiễm, các điên đảo ấy đều chẳng chơn thật. Nếu chẳng chơn thật
thời không thật thể, cũng không thật tướng. Nếu năng như thật biết khắp
như thế tức gọi thanh tịnh. Các tướng tạp nhiễm hãy bất khả đắc, huống
tướng thanh tịnh mà có khả đắc ư? Vậy nên, hai pháp tạp nhiễm, thanh tịnh
đều chẳng có tướng, chẳng viên thành thật. Lại, Xá
Lợi Tử! Các pháp vô tướng chẳng viên thành thật nói gọi vô trước, nên nói
các pháp vô trước làm tướng.Vì tất cả pháp vô trước tướng nên nói gọi vô
trước. Ngu phu dị sanh chấp mắc vô trước tướng. Lại, Xá
Lợi Tử! Như vậy gọi là nói tất cả pháp vô trước làm tướng. Vô trước tướng
đây, phải biết tức là chỗ trí sở hành, cũng là chỗ Bát nhã Ba la mật đa sở
hành, nên nói Bát nhã Ba la mật đa hành vô biên cảnh. Các tánh vô trước,
phải biết nói gọi hành vô biên cảnh. Lại, Xá
Lợi Tử! Chỗ sở hành ấy, phải biết đây chỉ rõ chỗ phi sở hành, vì Bát nhã
Ba la mật đa sâu thẳm chẳng phải tướng hành xứ có thể năng chỉ rõ ra được. Lại, Xá
Lợi Tử! Cảnh sở hành ấy, phải biết chỉ rõ cảnh phi sở hành. Vì tất cả pháp
tánh như thật, tánh như sở hũu đều bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng phải
cảnh sở hành. Vì tất cả pháp không tánh cảnh vậy. Nếu năng biết khắp các
pháp như thế, đấy thời gọi là hành tất cả cảnh. Dù tác thuyết này mà chẳng
như lời nói. Nếu năng biết khắp các pháp như thế đều vô sở trước, gọi vô
trước tướng. Do lý thú đây nên nói Bát
nhã Ba la mật đa vô trước làm tướng. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Đã nói pháp yếu thẳm sâu cảnh Như Lai trí như thế, nếu muốn
tuyên nói phân biệt khai chỉ giúp bạn chút ít; trong đây giúp bạn chỉ có
những kẻ thấy đế lý tới Đại Bồ đề, các
Thanh Văn thảy và Bồ Tát Ma ha tát đã trụ Bất thối chuyển, cùng là kẻ thấy
đầy đủ đối Vô thượng thừa chẳng còn quay lui. Kẻ thấy đầy đủ kia cũng đối
pháp yếu thẳm sâu như thế năng chánh tu hành được, xa lìa nghi ngờ, thân
chứng Bồ tát đã được tịnh nhẫn, đối pháp yếu này định không nghi ngờ. Lại, Xá
Lợi Tử! Ngu phu dị sanh diệu pháp như thế chẳng phải bậc mà kia trèo lên
được! Lại, Xá
Lợi Tử! Đã nói pháp giáo tương ưng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế
rất là khó được, quyết chẳng rơi nơi tay các hữu tình tin hiểu thấp kèm.
Nếu các hữu tình từng thờ nhiều Phật trọn nên căn lành tối thắng thanh
tịnh, tin hiểu rộng lớn, đã nói giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm như thế mới rơi tay kia. Phải
biết các loại hữu tình như thế đã trồng vô lượng căn lành rộng lớn, trọn
nên điều nhu ý lạc thanh tịnh. Quá khứ đã ở vô lượng chỗ Phật trồng giống
Bồ đề, phát thệ nguyện rộng, hành hạnh Bồ tác, cưỡi xe Phật đã cưỡi, gần
gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối pháp sâu thẳm thỉnh hỏi đúng lý;
nên pháp giáo tương tưng Bát nhã Ba la mật đa đây rơi ở tay kia. Phải
biết các loại hữu tình như thế hoặc đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn, hoặc
gần sẽ chứng Vô sanh pháp nhẫn, nên pháp giáo tương tưng Bát nhã Ba la mật
đa đây rơi ở tay kia. Phải
biết các loại hữu tình như thế mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ngoại
trừ sức bi nguyện chẳng cầu mau chứng . Phải
biết các loại hữu tình như thế ở chỗ các Đức Phật đã được nhận ký,
hoặc lại chẳng lâu sẽ được nhận ký. Phải
biết các loại hữu tình như thế, giả sử chưa được Phật hiện tiền trao ký,
như đã được Phật hiện tiền trao ký cho. Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu các hữu tình căn lành chưa thuần thục, vì phước đức mỏng hãy
chẳng được danh tự kinh điển Bát nhã Ba la mật đa như thế, huống tay được
cầm đến, đọc tụng, thọ trì, biên chép, cúng dường, vì người rộng nói. Kia
được như thế, không có lẽ ấy. Nếu các hữu tình căn lành đã thuần thục, vì
nguyện lực đời trước nên được gặp kinh này, lóng nghe, thọ trì, biên chép,
đọc tụng, cung kính cúng dường, vì người rộng nói. Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu các hữu tình căn lành tăng thịnh, ý lạc điều thiện, giáo pháp
tương ưng Bát nhã Ba la mật đa như thế mới rơi đến tay kia. Ta ghi nói các
thiện nam tử thiện nữ nhân thảy kia hoặc Bồ tát thừa, hoặc Thanh Văn thừa,
nhờ được pháp đây hết lòng ưa mến, nên trước dù lười nhác, ưa ngủ nghỉ
nhiều, khởi biết chẳng chánh, chẳng trụ chánh niệm, hoặc tâm tán loạn,
hoặc ham ăn uống, hoặc ái của ngọc, hoặc ưa lời thô, hoặc thích bạo áo,
hoặc hôm ngạo mạn, hoặc căn ám độn không hiểu biết gì cả; kia nhờ sức căn
lành, nên lỗi đã nói như trên, tất cả đều chuyển. Do được pháp yếu sâu
thẳm như thế, nếu là Thanh văn chuyển thành Bồ tát. Đối pháp sâu thẳm bội
sanh ưa uốn, đối các cảnh giới được chẳng buông lung, đối các pháp lành ưa
mến tu hành chánh siêng mạnh mẽ, lìa các lười biếng, nhất tâm thu niệm giữ
hộ các căn, chẳng thốt lời thô, chẳng hành bạo ác, hằng tu cung kính, muốn
tập đa văn, siêng năng tiến mạnh, không tham nhiễm gì, khéo giỏi chọn lựa
được pháp nghĩa thẳm sâu. Nếu muốn viên mãn công đức như thế phải siêng
năng tu học pháp yếu thẳm sâu. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ tát hoặc Thanh văn thừa nghe pháp yếu đây được quả
thù thắng, Nghĩa là nghe pháp yếu sâu thẳm như thế quyết định chẳng còn
hành các buông lung, đối các ác pháp chẳng sanh bảo tín, khéo muốn tinh
tiến đều không lui giảm. Đối sở tu hành chẳng sanh khinh lờn hưỡn đãi. Đối
pháp ngoại tà chẳng thèm nghĩ tìm. Đối tham sân si chẳng hiện khởi lắm.
Quả như thế thảy vô lượng vô biên đều do được nghe thâm pháp yếu đây. Lại, Xá
Lợi Tử! Pháp yếu sâu thẳm chẳng những tai nghe tức gọi là quả, cần chẳng
buông lung tinh tiến tu hành, biết rõ như thật, xa lìa các ác, mình người
đều được lợi, mới gọi là quả. Lại kẻ nghe pháp là đối pháp yếu biết rõ như
thật, tinh siêng tu học, chẳng đối Chánh pháp khởi lối hiểu lối hành sai
khác. Nếu đối Chánh pháp khởi hiểu hành biệt dị, phải biết loại kia chẳng
được gọi nghe pháp. Lại, Xá
Lợi Tử! Các ngươi đều nên đối nghĩa đã được nghe, phương tiện khéo léo
khởi hiểu biết không trái ngược, an trụ chánh hạnh. Nếu đối pháp nghĩa
khởi hiểu trái ngược, chẳng chánh tuhành, phải biết loại kia đối Chánh
pháp của Phật định không thuận nhẫn. Lại, Xá
Lợi Tử! Kẻ đối trong Chánh pháp Tỳ nại da của Ta như nói tu hành mới được
thuận nhẫn. Nói thuận nhẫn ấy là đối Chánh pháp chọn lựa không trái ngược
phát khởi chánh hành. Lại, Xá
Lợi Tử! Kẻ đây đủ thuận nhẫn an trụ chánh hành, phải biết quyết định chẳng
đọa trong các ác thú địa ngục, bàng sanh, quỷ đói, mau năng chứng được
thắng quả Chánh pháp. Lại, Xá
Lợi Tử! Các loại hữu tình chẳng nên bảo tín căn lành yếu ít. Nghĩa là kia
liền được rảnh khỏi các ác thú, siêng tu tinh tiến cũng chẳng thể bảo đảm,
cho đến đối Chánh pháp chưa đầy đủ chánh kiến vẫn còn có đọa rơi. Lại, Xá
Lợi Tử! Nếu đối Chánh pháp tu học viên mãn, được thuận nhẫn rồi, mới được
chẳng còn gây nghiệp cảm ác thú, chẳng còn lười biếng khởi phần thuận lui
ở ngôi thấp kém, chẳng sợ lui đọa, đối sở tu hành tâm chẳng khinh dể hưỡn
đãi. Vì cớ
sao? Xá Lợi Tử! Kia đối trong phần tạp nhiễm thanh tịnh được chánh biết
khắp, được thấy như thật, đạt tất cả pháp điên đảo khởi ra hư vọng tâm
hiện, chẳng sanh chấp trước. Kia đối nghĩa thú sâu thẳm Chánh pháp đã được
chánh kiến, đầy đủ thuận nhẫn, thông minh lanh lẹ, điều hòa mềm mại, trụ
giới thanh tịnh, chánh hành luật nghi, sở hành khuôn phép do được thuận
nhẫn không chẳng đầy đủ. Trời, rồng, dược xoa, a tố lạc, thảy hãy cung
kính kia, huống nào các người. Trời, rồng, dược xoa, a tố lạc thảy tất cả
đối kia hãy nên mến nhớ, qui tới cúng dường, vây quanh giữ hộ, chẳng cho
ác duyên tổn hoại thân mệnh và sở tu hành, huống nào các người. Vậy nên
cần siêng tu Chánh pháp thuận nhẫn. Nếu được thuận nhẫn, trời, rồng, dược
xoa, a tố lạc thảy thường theo thủ hộ, cung kính cúng dường, từng không
tạm bỏ. Khi ấy,
Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng: Vì sao cụ thọ lặng thinh không nói? Vì sao
chẳng nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm? Ngày nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác hiện tiền làm chứng, nay Đại chúng đây đối Bát nhã Ba la mật đa là
chơn pháp khí, ý vui thanh tịnh, muốn
nghe thâm pháp. Thiện
Hiện đáp rằng: Dạ! Ngài Xá Lợi Tử! Tôi đối các pháp đều không thấy gì, vậy
nên tôi nay lặng thinh không nói chi hết. Lại, Xá
Lợi Tử! Tôi trọn chẳng thấy Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, cũng chẳng thấy
có chúng Bồ tát, chẳng thấy hay nói, chẳng thấy bị nói, cũng lại chẳng
thấy do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây, nương đây mà nói. Tôi đối trong
đây đã không thấy gì, làm sao bắt tôi vì các Bồ tát tuyên nói Bát nhã Ba
la mật đa? Giả sử tôi muốn nói, ai là hay nói, ai là bị nói? Cũng lại
chẳng biết do đâu, vì đâu, nhân đâu, thuộc đâu, nương đâu mà nói. Tôi biết
làm sao tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế được! Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thể tuyên nói, chẳng thể chỉ
rõ, chẳng thể hý luận. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm không năng tuyên nói, không năng chỉ
rõ, không năng hý luận. Nếu phương tiện nêu chỉ ra được như thế, tức hiển
Bát nhã Ba la mật đa Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng
hiện tại. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng đem tướng quá khứ nói, chẳng
thể đem tướng vị lai nói, chẳng thể đem tướng hiện tại nói. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tướng không nói được. Lại, Xá
Lợi Tử! Tôi trọn chẳng thấy Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm có tướng như
thế, có thể đem tướng ấy tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa. Lại, Xá
Lợi Tử! Tướng uẩn xứ giới thảy ba đời chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm. Tướng uẩn xứ giới thảy ba đời có bao chơn như, tánh chẳng hư dối,
tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu là Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Lại, Xá
Lợi Tử! Tướng uẩn xứ giới thảy ba đời có bao chơn như, tánh chẳng hư dối,
tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu chẳng thể thi thiết, chẳng thể chỉ
rõ, chẳng thể hý luận, vì chẳng phải ngữ nghiệm thảy chỗ hay nói nêu ra
được. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng do nói chỉ tướng các pháp vậy
mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng uẩn xứ giới vậy mà hiện tại tiền.
Chẳng do nói chỉ tướng hành phi hành vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói
chỉ tướng duyên khởi vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng danh sắc
vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng ngã hữu tình vậy mà hiện tại
tiền. Chẳng do nói chỉ tướng pháp giới vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói
chỉ tướng buộc lìa buộc vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng nhân
duyên vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng khổ vui vậy mà hiện tại
tiền. Chẳng do nói chỉ tướng an lập chẳng an lập vậy mà hiện tại tiền.
Chẳng do nói chỉ tướng sanh diệt vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ
tướng nhiễm tịnh vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng bản tánh
chẳng bản tánh vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng thế tục thắng
nghĩa vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng chắc thật hư dối vậy mà
hiện tại tiền. Chẳng do nói chỉ tướng dời chuyển tới vào vậy mà hiện tại
tiền. Vì cớ
sao? Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lìa các tướng, vậy nên chẳng
thể chỉ rõ ra rằng đây là Bát nhã Ba la mật đa, ở đây Bát nhã Ba la mật
đa, do đây Bát nhã Ba la mật đa, vì đây Bát nhã Ba la mật đa, nhân đây Bát
nhã Ba la mật đa, thuộc đây Bát nhã Ba la mật đa, nương đây Bát nhã Ba la
mật đa. Lại, Xá
Lợi Tử! Tôi chẳng thấy pháp, do pháp đây nên nói chỉ ra Bát nhã Ba la mật
đa Lại, Xá
Lợi Tử! Không có chút pháp năng hiển năng lấy Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm. Lại, Xá
Lợi Tử! Chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng hiển năng lấy các
uẩn xứ giới, duyên khởi, minh thoát. Lại, Xá
Lợi Tử! Các xuất thế gian diệu huệ thông đạt cũng lại chẳng năng hiển lấy
Bát nhã Ba la mật đa. Lại, Xá
Lợi Tử! Như pháp chẳng năng hiển lấy các pháp, như nào hiển nói Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm. Nhưng, Xá Lợi Tử! Nếu năng biết rõ lý
thú chơn thật các pháp như thế, tức năng biết rõ được tuyên nói Bát nhã Ba
la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng do chỉ rõ pháp sở hữu vậy
mà hiện tại tiền. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng do chỉ rõ uẩn xứ giới vậy mà
hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ danh và sắc vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do
chỉ rõ pháp nhiễm tịnh vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ các duyên
khởi vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ các điên đảo vậy mà hiện tại
tiền. Chẳng do
chỉ rõ ngã hữu tình giới thảy vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ địa
thuỷ hỏa phong không thức giới vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ cõi
Dục, Sắc, Vô Sắc vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do
chỉ rõ bố thí xan tham, trì giới phạm giới, an nhẫn giận dữ, tinh tiến
lười nhác, tĩnh lự tán loạn, bát nhã ác huệ vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do
chỉ rõ niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh
lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông vậy mà hiện tại
tiền. Chẳng do
chỉ rõ các quả đạo đế vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ pháp Thanh
Văn, Độc giác, Bồ tát, Phật địa vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do
chỉ rõ sở hữu pháp trí và phi trí vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ
tận vô sanh trí và diệt trí vậy mà hiện tại tiền. Chẳng do chỉ rõ pháp
Niết bàn vậy mà hiện tại tiền. Lại, Xá
Lợi Tử! Nhu không có pháp do chỉ rõ pháp mà hiện tại tiền, tôi biết làm
sao tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế? Nhưng thưa Xá Lợi Tử,
nếu năng biết rõ được đã nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế chẳng
do chỉ rõ ra pháp sở hữu vậy mà hiện tại tiền, tức năng biết rõ được Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm, cũng năng tuyên nói được Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm. Lại, Xá
Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng vì các pháp có hợp có tan mà
hiện tại tiền. Vì cớ sao? Xá Lợi
Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng vì các uẩn xứ giới có hợp có tan.
Chẳng vì các hành có hợp có tan. Chẳng vì duyên khởi có hợp có tan. Chẳng
vì điên đảo có hợp có tan. Chẳng vì cõi Dục, Sắc, Vô sắc có hợp có tan. Chẳng vì
các địa thuỷ hỏa phong không thức giới có hợp có tan. Chẳng vì duyên khởi
có hợp có tan. Chẳng vì ngã, hữu tình giới thảy có hợp có tan. Chẳng vì
pháp giới có hợp có tan. Chẳng vì
bố thí xan tham, trì giới phạm giới, an nhẫn giận dữ, tinh tiến lười nhác,
tĩnh lự tán loạn, bát nhã ác huệ có hợp có tan. Chẳng vì niệm trụ, chánh
đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng
trì, đẳng chí, vô lượng thần thông có hợp có tan. Chẳng vì các đế đạo và
đạo quả có hợp có tan. Chẳng vì
Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Phật địa và pháp có hợp có tan. Chẳng vì quá
khứ vị lai hiện tại ba đời bình đẳng có hợp có tan. Chẳng vì vô trước tận,
vô sanh trí có hợp có tan. Chẳng vì Niết bàn có hợp có tan. Lại, Xá
Lợi Tử! Như pháp không có làm pháp hợp tan mà hiện tại tiền, tôi biết làm
sao tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế. Nhưng, Xá Lợi Tử! Tôi
xem nghĩa đây tác thuyết như vầy: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thể
nói chỉ ra được. Lại, Xá
Lợi Tử! Tôi trọn chẳng thấy có pháp như thế khá gọi năng nói, khá gọi bị
nói, khá gọi do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây, nương đây mà có nói ra,
làm sao bắt tôi vì các Bồ tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa được? Bấy giờ,
Thế Tôn bảo Thiện Dũng Mãnh Bồ tát Ma ha tát rằng: Thiện nam tử! Các Bồ
Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối tất cả pháp đều không sở
hành. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều là bị điên đảo đẳng
khởi, chẳng thật chẳng có, tà ngụy hư dối.
Lại,Thiện Dũng Mãnh! Ví như kẻ đối pháp có sở hành, đều hành điên đảo, đều
hành chẳng thật. Như vậy, Bồ tát nếu có sở hành, lẽ hành điên đảo, lẽ hành
chẳng thật. Vì chẳng phải các Bồ tát là hành điên đảo và hành chẳng thật
mà hiển rõ ra, và cũng chẳng phải Bồ tát hành hạnh điên đảo và hành chẳng
thật mà năng hành Bát nhã Ba la mật đa được.
Lại,Thiện Dũng Mãnh! Điên đảo chẳng thật thời chẳng phải sở hành, vậy nên
Bồ tát chẳng đối trong ấy mà hành.
Lại,Thiện Dũng Mãnh! Nói điên đảo ấy tức là hư dối, chỗ chấp đắm của ngu
phu dị sanh. Các pháp như thế chẳng có như thế, sở chấp như thế chẳng như
tướng nó. Vậy nên nói gọi điên đảo chẳng thật. Nên các Bồ tát chẳng hành
điên đảo, chẳng hành chẳng thật. Bởi đây Bồ tác gọi kẻ thật ngữ, cũng được
nói gọi hành giả không đạo. Nếu thật không đảo, thời không sở hành, nên
nói Bồ tát hành không sở hành. Tất cả hành dứt gọi Bồ tát hành. Bồ tát
hành đây chẳng thể chỉ rõ là đây, do đây, tại đây, từ đây. Chẳng phải các
Bồ tát hành chỗ hiển rõ. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ tát dứt tất
cả hành, hành hạnh Bồ tát nghĩa là dứt hành có lấy đắm của dị sanh, Thanh
văn, Độc giác, hành hạnh Bồ tát. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bồ tát đối các Phật pháp cũng lại chẳng hành,
cũng chẳng chấp trước đây là Phật pháp, do đây Phật pháp, tại đây Phật
pháp, thuộc đây Phật pháp. Như vậy Bồ tát cũng lại chẳng hành hạnh tất cả
phân biệt dị phân biêt, nghĩa là các Bồ tát chẳng hành phân biệt và dị
phân biệt, vì dứt tất cả phân biệt dị phân biệt, gọi hạnh Bồ tát. Thiện
Dũng Mãnh! Phân biệt ấy là đối các pháp phân biệt tự tánh. Dị phân biệt ấy
là đối các pháp phân biệt sai khác. Chẳng phải tất cả pháp khá được phân
biệt và dị phân biệt, vì tất cả pháp chẳng thể phân biệt và dị phân biệt
vậy. Nếu pháp phân biệt thời đối các pháp làm dị phân biệt. Nhưng tất cả
pháp xa lìa phân biệt và dị phân biệt Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Nói phân biệt ấy, đấy là một bên. Nói dị phân biệt ấy là
bên thứ hai. Chẳng phải các Bồ tát hành bên không bên. Nếu các Bồ tát đối
bên không bên đều không sở hành, các Bồ tát này cũng chẳng thấy giữa. Nếu
kẻ thấy giữa thời hành nơi giữa. Nếu kẻ hành giữa thời hành nơi bên, chẳng
phải giữa có hành có hiển có chỉ ra, vì lìa hành tướng vậy. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Đã nói giữa ấy, phải biết tức là tám nhánh thánh đạo.
Thánh đạo như thế đối tất cả pháp đều không sở đắc mà hiện tại tiền. Thánh
đạo như thế đối tất cả pháp đều không sở kiến mà hiện tại tiền. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Nếu khi đối pháp không tu không khiển, bấy giờ gọi là đạo
ngưng dứt. Đạo ngưng dứt đây đối tất cả pháp không tu không khiển, vượt
quá tu khiển chứng thật tánh tất cả pháp bình đẳng. Do chứng thật tánh tất
cả pháp bình đẳng, đạo tướng hảy không có huống thấy có đạo. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Đạo ngưng dứt ấy là Bí sô, A la hán lậu tận. Vì cớ sao?
Thiện Dũng Mãnh! Kia khiển đạo nên tu chẳng tu chẳng khiển nên gọi là
khiển. Kia khiển cũng không có nên gọi là khiển. Vì tu khiển nên nói gọi
là khiển. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Nếu có tu khiển ưng có sở đắc chẳng gọi là khiển. Trong
đây khiển ấy là khiển tánh tu. Trong ấy không tu nên gọi là khiển, vì tu
không có nên khiển cũng chẳng có. Mặc dù tác nói này mà chẳng như nói. Vì
cớ sao? Thiện
Dũng Mãnh! Khiển chẳng thể nói, vì lìa tánh khiển vậy. Lại lìa pháp nào?
Nghĩa là pháp điên đảo chẳng còn đẳng khởi và pháp chẳng thật, chẳng đẳng
khởi lại nữa. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải các điên đảo năng khởi được điên đạo. Bởi vì
điên đảo ấy không thật khởi ra, vì chẳng phải ở trong ấy có thật khởi vậy.
Nếu ở trong ấy có thật khởi ra chẳng gọi điên đảo. Vì không thật khởi nên
gọi điên đảo. Lại,
Thiện Dũng Mãnh! Chúng các Bồ tát tùy giác các pháp lìa các điên đảo. Sở
dĩ vì sao? Chúng các Bồ tát biết rõ điên đảo đều chẳng thật có. Nghĩa là
trong điên đảo không có tánh điên đảo. Do biết điên đảo thật không sở hữu,
chẳng phải trong điên đảo có tánh điên đảo, nên nói Bồ tát tùy giác các
pháp lìa các điên đảo. Do giác các pháp lìa các điên đảo, chẳng còn đối
pháp lại sanh điên đảo nữa. Nếu đối trong ấy không còn điên đảo, thời đối
pháp đấy cũng không sở hành. Vì cớ sao? Thiện
Dũng Mãnh! Tất cả điên đảo đều có sở hành. Bởi có sở hành thời có đẳng
khởi. Sở hành, đẳng khởi đều bởi điên đảo hư dối phân biệt! Chúng các Bồ
tát đối pháp sở hành đều không phân biệt, cũng không đẳng khởi. Vậy nên
nói gọi xa lìa điên đảo. Do không điên đảo, thời không sở hành. Do không
sở hành thời không sở khởi, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Kẻ không sở
hành là đối các pháp trọn không sở hành, cũng chẳng quan sát, cũng chẳng
thị hiện có tướng sở hành nên nói Bồ tát hành không sở hành. Nếu năng hành
được không sở hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên sắc là hành Bát nhã
Ba la mật đa. Hành chẳng duyên thọ tưởng hành thức là hành Bát nhã Ba la
mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này biết tánh các sở duyên
xa lìa vậy. Nếu biết tánh sở duyên kia xa lìa thời không sở hành, nên nói
Bồ tát hành vô sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên nhãn là hành Bát nhã Ba
la mật đa; hành chẳng duyên nhĩ tỷ thiệt thân ý
là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này
tánh các sở duyên chẳng thật vậy. Nếu biết tánh sở duyên kia chẳng thật
thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên sắc là hành Bát nhã Ba la
mật đa; hành chẳng duyên thanh hương vị xúc pháp là hành Bát nhã Ba la mật
đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này biết các sở duyên điên đảo
khởi ra. Nếu điên đảo khởi thật thời chẳng chơn thật. Nếu biết tánh sở
duyên điên đảo khởi ra chẳng chơn thật thời không sở hành, nên nói Bồ tát
hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên nhãn thức là hành Bát nhã
Ba la mật đa. Hành chẳng duyên nhĩ tỷ thiệt thân
ý thức, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh!
Các Bồ tát này biết các sở duyên đều là hư dối. Nếu biết các sở duyên đều
là hư dối thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên danh sắc, là hành Bát nhã
Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này giác các sở duyên
không tánh sở duyên. Nếu giác sở duyên không tánh sở duyên thời không sở
hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên ngã, hữu tình thảy là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này như
thật biết ngã, hữu tình thảy tánh tưởng chẳng chơn thật. Nếu năng biết
được ngã, hữu tình thảy tánh tưởng chẳng chơn thật, thời đối các hành đều
không sở hành. Nếu đối các hành đều không sở hành thời lìa các hành, nên
nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát chẳng hành ngã tưởng, hữu tình tưởng, cho
đến tri giả tưởng, kiến giả tưởng, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ
sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này khiển tất cả tưởng. Nếu kẻ năng khiển
trừ được tất cả tưởng thời đối các tưởng đều không sở hành, nên nói Bồ tát
hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát chẳng hành điên đảo kiến thú các che, là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Hành chẳng duyên điên đảo kiến thú các che là
hành Bát nhã Ba la mật đa Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này biết
các sở duyên điên đảo kiến che đều chẳng thật có. Nếu biết sở hành điên
đảo kiến che chẳng thật có thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không
sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên duyên khởi, là hành Bát
nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này biết khắp
duyên khởi và sở duyên kia. Nếu các Bồ tát biết khắp duyên khởi và sở
duyên kia thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên cõi Dục, Sắc, Vô sắc, là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này khắp
năng trừ khiển được sở duyên ba cõi. Nếu các Bồ tát khắp năng trừ khiển sở
duyên ba cõi thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên bố thí xan tham, trì giới
phạm giới, an nhẫn giận dữ, tinh tiến lười nhác, tĩnh lự tán loạn, bát nhã
ác huệ, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ
tát này biết khắp sở duyên bố thí xan tham cho đến bát nhã ác huệ. Nếu các
Bồ tát biết khắp tất cả sở duyên như thế thời không sở hành, nên nói Bồ
tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên vô đảo, niệm trụ, chánh
đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng
trì, đẳng chí, vô lượng thần thông thảy, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì
cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này đối các sở duyên giác trọn tự tại,
cũng năng trừ khiển. Nếu các Bồ tát đối các sở duyên giác trọn tự tại,
cũng năng trừ khiển được thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở
hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên khổ tập diệt đạo đế là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này trừ
khiển sở duyên khổ tập diệt đạo. Nếu năng trừ khiển được sở duyên bốn đế,
thời không sở khiển, cũng không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở
hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên minh thoát là hành Bát
nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này khắp trừ
khiển được sở duyên minh thoát. Nếu năng trừ khiển sở duyên minh thoát
thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên vô tận vô sanh vô tạo
tác, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát
này khắp trừ khiển được sở duyên tận vô sanh vô tạo tác. Nếu năng trừ
khiển các sở duyên đây thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở
hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên địa thuỷ hỏa phong không
thức giới là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ
tát này khắp trừ khiển được sở duyên địa thuỷ hỏa phong không thức giới.
Nếu năng trừ khiển các sở duyên dây thời không sở hành, nên nói Bồ tát
hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ
tát, Phật địa là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh!
Các Bồ tát này khắp trừ khiển được sở duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ tát,
Phật địa. Nếu các Bồ tát khắp năng trừ khiển sở duyên Thanh văn, Độc giác,
Bồ tác, Phật địa thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên pháp Thanh văn, Độc giác,
Bồ tát, Phật là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các
Bồ tát này khắp trừ khiển được sở duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ tát,
Phật. Nếu các Bồ tát khắp năng trừ khiển sở duyên pháp Thanh văn, Độc
giác, Bồ tác, Phật thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên Niết Bàn là hành Bát nhã
Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này biết khắp sở
duyên Niết bàn. Nếu các Bồ tát biết khắp sở duyên Niết bàn không sở hành,
nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên thanh tịnh tướng hảo, là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này khắp
trừ khiển được sở duyên thanh tịnh tướng hảo. Nếu các Bồ tát năng trừ
khiển sở duyên thanh tịnh tướng hảo thời không sở hành, nên nói Bồ tát
hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên thanh tịnh cõi Phật là
hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này khắp
trừ khiển được sở duyên thanh tịnh cõi Phật. Nếu các Bồ tát khắp năng trừ
khiển sở duyên thanh tịnh cõi Phật thời không sở hành, nên nói Bồ tát hành
không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên công đức Thanh văn viên
mãn, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát
này khắp trừ khiển được sở duyên công đức Thanh văn viên mãn. Nếu các Bồ
tát khắp năng trừ khiển sở duyên công đức Thanh văn viên mãn thời không sở
hành, nên nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành chẳng duyên công đức Bồ tát viên mãn,
là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát này
khắp trừ khiển được sở duyên công đức Bồ tát viên mãn. Nếu các Bồ tát khắp
năng trừ khiển sở duyên công đức Bồ tát viên mãn thời không sở hành, nên
nói Bồ tát hành không sở hành. Thiện
Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng hành được như thế, vì để hành Bát nhã
Ba la mật đa. Nếu các Bồ tát năng hành được Bát nhã Ba la mật đa biết khắp
tất cả sở duyên mà hành, trừ khiển tất cả sở duyên mà hành.
Nguồn: www.quangduc.com
Cập nhật:
01-12-2006