(Hán bộ quyển 35)
Chúng Bồ Tát đã nghe
Ðịa tối thắng vi diệu
Tâm các Ngài thanh tịnh
Tất cả đều vui mừng
Ðồng rời tòa đứng dậy
Vọt bay dừng trên không
Khắp rải hoa báu đẹp
Ðồng thời chung khen ngợi :
Lành thay Kim Cang Tạng
Bực đại trí vô úy
Khéo nói những pháp lành
Của Sơ địa Bồ Tát.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Biết lòng chúng thanh tịnh
Thích nghe những hành tướng
Của đệ nhị "Ly Cấu"
Liền thỉnh Kim Cang Tạng :
Ðại trí xin diễn thuyết
Phật tử đều thích nghe
Ðệ nhị Ly Cấu Ðịa.
Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật
Tử ! Ðại Bồ Tát đã tu Sơ địa muốn vào đệ nhị địa thời phải phát khởi mười
thứ thâm tâm.
Ðây là mười thứ thâm tâm :
Tâm chánh trực, tâm nhu nhuyến, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch
tịnh, tâm thuần thiện, tâm chẳng tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm
lớn.
Bồ
Tát dùng mười thâm tâm này thời được vào bực Ly Cấu Ðịa thứ hai.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ Ly Cấu Ðịa thời tánh tự xa rời tất cả sát sanh,
chẳng chứa dao gậy, chẳng có lòng oán hận, có tàm có quý, đầy đủ lòng nhơn
thứ. Với tất cả chúng sanh có mạng sống thời thương, sanh lòng từ làm lợi
ích.
Bồ
Tát này còn chẳng có lòng ác não hại chúng sanh, huống là với họ mà có
chúng sanh tưởng cố ý làm việc giết hại.
Tánh tự chẳng trộm cắp. Với của cải mình Bồ Tát thường biết vừa đủ, với
người thời thương yêu tha thứ chẳng hề xâm tổn. Nếu đồ vật thuộc người
khác thời tưởng là của người khác, trọn không sanh lòng trộm cắp, nhẫn đến
lá cây của người không cho thời không lấy, huống là đồ vật dụng khác. Tánh
tự chẳng tà dâm. Với tự thê, Bồ Tát tri túc chẳng mong vợ người. Với thê
thiếp của người cùng con gái của người, trọn không móng lòng tham nhiễm,
huống là tùng sự dâm dục, huống là nơi phi đạo.
Tánh tự chẳng vọng ngữ. Bồ Tát luôn thật ngữ, chơn ngữ, thời ngữ, nhẫn đến
trong chiêm bao cũng còn chẳng nói lời phú tàng, vô tâm, vọng ngữ, huống
là cố ý nói dối.
Tánh tự chẳng lưỡng thiệt. Bồ Tát đối với chúng sanh không tâm ly gián,
không tâm não hại, chẳng đem lời người này đến nói với người kia để pháp
người kia, chẳng đem lời người kia đến nói với người này để phá người này,
người chưa ly phá thời chẳng cho ly phá, người đã ly phá thời chẳng cho
thêm hơn. Chẳng mừng sự ly gián, chẳng ưa sự ly gián, chẳng nói lời ly
gián. Chẳng cho lời ly gián là thiệt hay chẳng thiệt.
Tánh tự chẳng ác khẩu, như là lời độc hại, lời thô tục, lời làm khổ người
khác, lời làm người khác sân hận, lời hiện tiền, lời chẳng hiện tiền, lời
xấu ác, lời dung tiện, lời bất nhã, lời làm người nghe không ưa, không
vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt lòng, lời oán kết, lời nhiệt não, lời có
thể làm hại mình và người. Những ác khẩu như vậy đều bỏ lìa cả. Thường nói
lời lợi ích, lời mềm mỏng, lời đẹp dạ, lời thích nghe, lời làm người nghe
vui mừng, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển tắc, lời nhiều người
mến thích, lời nhiều người vui đẹp, lời thân tâm hớn hở.
Tánh tự chẳng ỷ ngữ. Bồ Tát thường thích nói lời chín chắn, lời phải thời,
lời thiệt, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều
phục, lời tùy thời tính lường quyết định. Bồ Tát này nhẫn đến chơi cười
còn luôn suy nghĩ kỹ, huống là cố ý nói ra lời tán loạn.
Tánh tự chẳng tham lam. Bồ Tát này đối với tài vật đồ dùng của kẻ khác
chẳng móng tâm tham, chẳng mong cầu.
Tánh tự rời giận hờn. Bồ Tát này đối với tất cả chúng sanh luôn khởi tâm
từ mẫn, tâm lợi ích, tâm đau xót, tâm hoan hỷ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp
thọ, bỏ hẳn sân hận oán hại nhiệt não, thường nghĩ đến thật hành nhơn từ
lợi ích.
Tánh tự lìa tà khiến. Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, chẳng coi bói, chẳng thọ
lấy cấm giới tà ác, tâm kiến chánh trực, không dua dối, quyết định tin nơi
Phật, Pháp, Tăng.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát hộ trì mười nghiệp đạo lành như vậy không hề gián
đoạn. Lại tự nghĩ rằng : tất cả chúng sanh sa đọa nơi ác đạo đều do mười
nghiệp ác. Vì thế nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên người khác tự
tu chánh hạnh. Vì mình không tự tu thời không thể bảo kẻ khác tu.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác là nhơn
thọ sanh nơi địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Mười nghiệp đạo lành là nhơn
thọ sanh nơi loài người cõi Trời. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành này
dùng trí huệ để tu tập, vì tâm hẹp kém, vì sợ sanh tử, vì thiếu đại bị, vì
theo người Thanh Văn khác mà tỏ ngộ thời thành Thanh Văn thừa. Lại thượng
phẩm mười nghiệp đạo lành này tu tập thanh tịnh, chẳng do người khác dạy
mà tự giác ngộ, vì chẳng đủ đại bi phương tiện, mà tỏ ngộ pháp nhơn duyên
thậm thâm thời thành Ðộc Giác thừa. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này tu tập thanh tịnh, vì tâm rộng vô lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương
tiện nhiếp thọ, vì phát sanh đại nguyện, vì chẳng bỏ chúng sanh, vì mong
cầu Phật trí, vì tu tập trí địa của Bồ Tát, vì tịnh tu tất cả Ba la mật,
mà thành hạnh quảng đại của Bồ Tát. Lại thượng thượng phẩm mười nghiệp đạo
lành này, vì Nhứt thiết chủng thanh tịnh nhẫn đến chứng Thập lực, Tứ vô úy
nên tất cả Phật pháp đều được thành tựu. Vì những lẽ trên đây nên tôi bình
đẳng thật hành mười nghiệp lành làm cho tất cả đều thanh tịnh đầy đủ.
Những phương tiện như vậy Bồ Tát phải học.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác : Thượng
phẩm là nhơn địa ngục, trung phẩm là nhơn súc sanh, hạ phẩm là nhơn ngạ
quỷ.
Trong đây về tội sát sanh có thể làm cho chúng sanh đọa địa ngục, súc
sanh, ngạ qủy. Nếu sanh trong loài người thời mắc hai quả báo : Mạng vắn
và nhiều bịnh.
Tội trộm cấp cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Nghèo cùng và tài sản chung không được tự do
dùng.
Tội tà dâm cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Vợ không trinh lương và quyến thuộc không
được tùy ý.
Tội vọng ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Bị phỉ báng và bị khi dối.
Tội lưỡng thiệt cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Quyến thuộc trái lìa và thân tộc tệ ác.
Tội ác khẩu cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Thường nghe tiếng ác và lời nói nhiều tranh
cãi.
Tội ỷ ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài người
thời mắc hai quả báo : Lời nói người không lãnh thọ và lời không rõ ràng.
Tội tham dục cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Lòng không biết đủ và quá tham muốn không
nhàm.
Tội sân hận cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : Thường bị người khác tìm chỗ hay dở và luôn
bị người khác não hại.
Tội tà kiến cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác đạo. Nếu sanh trong loài
người thời mắc hai quả báo : sanh nhà tà kiến và tâm dua vạy.
Chư Phật tử ! Mười nghiệp đạo ác có thể sanh vô lượng vô biên những quả
khổ. Do đây Bồ Tát nghĩ rằng : Tôi phải xa rời mười nghiệp ác. Làm vườn
pháp an ổn thích thú tự ở trong đó, cũng khuyên người khác cùng ở trong
đó.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này với tất cả chúng sanh phát sanh tâm lợi ích,
tâm an lạc, tâm từ, tâm bi, tâm lân mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự
kỷ, tâm Sư, tâm Ðại Sư.
Bồ
Tát nghĩ rằng : chúng sanh đáng thương đọa nơi rừng rậm tà kiến, trí ác,
muốn ác, đạo ác. Tôi phải làm cho họ trụ nơi chánh kiến tu hành đạo hành
đạo chơn thiệt.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh phân biệt bỉ ngã phá hoại lẫn nhau,
đấu tranh sân hận hẩy hừng không ngớt, tôi phải làm cho họ an trụ trong vô
thượng đại từ.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh tham lấy không biết nhàm, chỉ cầu
của cải tự sống bằng cách tà mạng. Tôi phải làm cho họ an trụ trong chánh
pháp thân, ngữ, ý thanh tịnh chánh mạng.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh thường theo tham, sân, si, các thứ
phiền não nhơn đó mà hẩy hừng, họ chẳng biết lập chí cầu phương tiện giải
thoát. Tôi phải làm cho họ dứt trừ tất cả lửa lớn phiền não, đặt họ vào
chỗ Niết Bàn thanh lương.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh bị màn đầy ngu si vọng kiến tối tăm
che đậy mà phải vào trong rừng rậm tối lòa, mất ánh sáng trí huệ, đi đường
hiểm đồng hoang sanh ác kiến. Tôi phải làm cho họ được trí nhãn thanh tịnh
không chướng ngại, biết tường như thật của các pháp, chẳng theo người khác
dạy.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng sanh ở trong đường hiểm sanh tử, sắp đọa
địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, vào trong lưới ác khiến, bị rừng tậm ngu si
làm mê, theo dõi đạo tà, làm hạnh điên đảo, ví như người mù không kẻ dắt
đường. Chẳng phải đạo giải thoát mà cho là đạo giải thoát. Vào cảnh giới
ma, bị bọn giặc ác nhiếp lấy, thuận theo tâm mà, xa lìa ý Phật. Tôi phải
cứu họ ra khỏi nạn hiểm như vậy, cho họ an trụ nơi thành Nhứt thiết trí vô
úy.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận
chìm vào dòng dục, dòng sanh tử, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn
trong sanh tử, trôi nổi trong sông ái nhiễm, mãi bị dồi giập không rảnh để
quan sát, rồi bị quan niệm tham dục, sân hận, độc hại không rời tâm họ,
nên họ bị quỷ La sát thân kiến bắt đem nhốt hẳn trong rừng rậm ái dục. Họ
lại quá nhiễm trước nơi chỗ tham ái, ở nơi gò ngã mạn, ngụ trong tụ lạc
sáu căn. Nếu không người cứu giỏi, thời không thể độ họ được.
Tôi phải phát khởi tâm đại bi đối với họ, dùng những thiện căn để cứu tế
họ, cho họ khỏi tai hoạn lìa nhiễm ô được thanh tịnh, mà ở an nơi thành
báu Nhứt thiết trí.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh ở trong lao ngục thế gian bị nhiều
khổ não, thường ôm lòng yêu ghét, tự mang lấy gông xiềng lo sợ tham dục,
rừng rậm vô minh che chướng họ, không thể thoát khỏi ba cõi. Tôi phải làm
cho họ ra khỏi hẳn ba cõi mà ở an nơi đại Niết Bàn vô ngại.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh chấp trước nơi ngã và ngã sở, chẳng
có ý muốn ra khỏi nhà tù ngũ uẩn, nương nơi tụ lạc trống rỗng, sáu căn
phát khởi bốn hạnh điên đảo, bị bốn rắn độc tứ đại cắn mổ, bị giặc thù ngũ
uẩn giết hại chịu vô lượng đau khổ.
Tôi phải làm cho họ ở an nơi chỗ tối thắng vô trước, chính là Vô thượng
Niết Bàn dứt hết mọi chướng ngại.
Bồ
Tát lại nghĩ rằng : Tâm của chúng sanh hèn kém, chẳng chịu thật hành đạo
có thể Nhứt thiết trí. Dầu họ muốn giải thoát, nhưng họ chỉ thích hai thừa
Thanh Văn và Bích Chi Phật. Tôi phải làm cho họ an trụ nơi Phật pháp quảng
đại, nơi trí huệ quảng đại.
Bồ
Tát này hộ trì giới cấm như vậy khéo có thể thêm lớn tâm từ bi.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở bực Ly Cấu Ðịa này, do nguyện lực mà được thấy
nhiều Phật. Như là thấy trăm Ðức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn Ðức Phật,
nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật.
Ở
chỗ Chư Phật, Bồ Tát này dùng tâm quảng đại thâm tâm cung kính tôn trọng
phụng thờ, cúng dường những thứ y phục, ăn uống, thuốc men, ngọa cụ, tất
cả đồ dùng. Và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng. Ðem công đức này hồi
hướng Vô thượng Bồ đề.
Ở
chỗ Chư Phật, do tâm tôn trọng, Bồ Tát này lại thọ hành mười đạo pháp
lành, tùy chỗ đã thọ nhẫn đến Bồ đề trọn không quên mất.
Bồ
Tát này từ vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp vì đã xa rời tội tham giận
phá giới nên hạnh bố thí, trì giới được thanh tịnh toàn vẹn.
Ví
như chơn kim để trong phàn thạch, đúng theo cách thức luyện xong thời lìa
tất cả cấu nhơ càng sáng sạch hơn.
Bồ
Tát trụ bực Ly Cấu Ðịa này cũng như vậy. Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na
do tha kiếp, vì xa lìa bợn nhơ tham sân phá giới, nên hạnh bố thí, trì
giới được thanh tịnh đầy đủ.
Chư Phật tử ! Trong bốn nhiếp pháp, Bồ tát này thiên về ái ngữ nhiều.
Trong mười môn Ba la mật Bồ Tát này thiên nhiều về trì giới. Với các pháp
khác thời tùy phần tùy sức.
Chư Phật tử ! Ðây là lược nói về bực Ly Cấu Ðịa.
Ðại Bồ Tát trụ bực này, phần nhiều hiện thân làm Chuyển Luân Thánh Vương,
làm Ðại pháp chủ, đầy đủ thất bửu, có sức tự tại, có thể trừ cấu nhiễm
tham, sân, phá giới của tất cả chúng sanh. Dùng phương tiện khéo làm cho
họ an trụ trong mười nghiệp đạo lành. Làm vị đại thí chủ châu ấp vô tận.
Bao nhiêu công hạnh như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng
trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, là tối thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn
đến là chỗ y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lúc muốn bỏ nhà để ở trong Phật pháp tinh tấn tu hành. Liền có thể
rời nhà vợ con, quyến thuộc, ngũ dục. Khi đã xuất gia thời siêng năng tu
tập, khoảng một niệm được ngàn tam muội, được thấy ngàn Ðức Phật, biết
thần lực của ngàn Ðức Phật, có thể chấn động ngàn thế giới, nhẫn đến có
thể thị hiện ngàn thân, mỗi thân thị hiện ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu
dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn số này, trong trăm
ngàn ức na do tha kiếp cũng chẳng đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này bèn nói kệ rằng :
Chất trực, nhu nhuyến và kham năng
Ðiều phục, tịch tịnh và thuần thiện
Ý rộng lớn mau thoát sanh tử
Do mười tâm vào đệ Nhị địa.
Ở đây thành tựu giới công đức
Xa lìa sát sanh chẳng não hại
Cũng lìa trộm cắp và tà dâm
Lìa hẳn vọng, ác, ly, ỷ ngữ.
Chẳng tham của cải thường xót thương
Chánh đạo, trực tâm không siểm ngụy
Rời hiểm, bỏ mạn, rất điều nhu
Y giáo thật hành chẳng phóng dật.
Ðịa ngục, súc sanh chịu khốn khổ
Ngạ quỷ đói khát miệng tuôn lửa
Tất cả đều do tội ác gây
Tôi phải lìa xa trụ thật pháp
Nhơn gian tùy ý được thọ sanh
Nhẫn đến thiền định Sắc, Vô sắc
Thanh Văn, Ðộc Giác đến thành tựu.
Tư duy như vậy chẳng phóng dật
Tự gìn tịnh giới dạy người trì
Lại thấy quần sanh chịu đau khổ
Lại càng thêm lớn tâm đại bi.
Phàm phu tà kiến hiểu bất chánh
Thường giận hay hờn nhiều tranh cãi.
Tham cầu nhiễm trước không nhàm đủ
Tôi phải độ họ trừ ba độc
Ngu si đen tối che trùm lấp
Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến
Nhà giam sanh tử bị nhốt bắt
Tôi phải khiến họ dẹp giặc ma.
Bốn dòng đẩy trôi tâm chìm đắm
Ba cõi đốt thui vô lượng khổ
Chấp uẩn làm nhà : ngã ở trong
Vì muốn độ họ siêng hành đạo.
Dầu muốn giải thoát tâm lại kém
Bỏ xa vô thượng Phật trí huệ
Tôi muốn khiến họ trụ Ðại thừa
Chuyên cần tinh tấn không nhàm đủ.
Bồ Tát ở đây chứa công đức
Thấy vô lượng Phật đều cúng dường
Ức kiếp tu hành thêm sáng sạch
Như dùng thuốc tốt luyện chơn kim,
Bồ Tát ở đây hiện Luân Vương
Ðộ khắp chúng sanh tu thập thiện
Bao nhiêu pháp lành đều tu tập
Ðể thành Thập lực cứu thế gian
Muốn bỏ Vương vị và tài bửu
Liền lìa nhà tục nương Phật giáo
Dũng mãnh tinh tấn trong một niệm
Ðược ngàn tam muội, thấy ngàn Phật.
Bao nhiêu tất cả sức thần thông
Bồ Tát Nhị địa đều hiện được
Nguyện lực đã làm lại hơn đây
Vô lượng tự tại độ quần sanh.
Người làm lợi ích khắp thế gian
Ðã tu Bồ Tát hạnh tối thắng
Công đức đệ nhị địa như vậy
Vì các Phật tử đã khai diễn.
Phật tử được nghe công hạnh này
Cảnh giới Bồ Tát khó nghĩ bàn
Thảy đều cung kính lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không để cúng dường.
Khen rằng : lành thay đấng Ðại Sĩ
Lòng từ thương xót các chúng sanh
Khéo nói luật nghi của trí giả
Và hành tướng trong đệ Nhị địa.
Ðây diệu hạnh của chư Bồ Tát
Chơn thiệt không lạ không sai biệt.
Vì muốn lợi ích các quần sanh
Diễn nói như vậy rất thanh tịnh.
Tất cả Nhơn, Thiên đến cúng dường
Mong được nghe giảng đệ Tam địa
Những trí hạnh cùng pháp tương ưng
Cảnh giới như vậy mong nói đủ.
Phật có tất cả pháp : thí, giới,
Nhẫn nhục, tinh tấn, thiền, trí huệ.
Cùng với phương tiện đạo từ bi
Phật hạnh thanh tịnh xin nói hết.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát lại thưa :
Mong Kim Cang Tạng đại Bồ Tát
Giảng nói tiến vào đệ Tam địa
Tất cả công đức của bực này.
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói với Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát : "Thưa Phật tử !
Ðại Bồ Tát đã thanh tịnh đệ Nhị địa muốn vào đệ Tam địa, phải phát khởi
mười thâm tâm".
Ðây là mười thâm tâm :
Tâm thanh tịnh, tâm an trụ, tâm nhàm bỏ, tâm lìa tham, tâm bất thối, tâm
kiên cố, tâm minh thạnh, tâm dũng mãnh, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát do mười
tâm này mà được vào đệ Tam địa.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát đã an trụ nơi đệ Tam địa quán sát tất cả pháp hữu
vi đúng với tướng chơn thật của nó. Chính là : Vô thường, khổ, bất tịnh,
chẳng an ổn, bại hoại, chẳng ở lâu, sát na sanh diệt, chẳng phải từ thuở
trước sanh, cũng chẳng phải theo thuở sau diệt, và chẳng phải trụ ở hiện
tại.
Bồ
Tát lại quan sát những pháp này không được cứu, không chỗ tựa, mà đồng ở
với lo, buốn, khổ, não, ràng buộc bởi yêu ghét, sầu thảm càng nhiều không
hề dừng, tham, sân, si hẩy hừng chẳng hề dứt, những họa hoạn vấn vít ngày
đêm thêm lớn, toàn là như huyễn hóa không thiệt.
Bồ
Tát quan sát thấy như thế rồi, đối với pháp hữu vi càng thêm nhàm lìa mà
hướng đến Phật trí huệ. Thấy Phật trí chẳng thể nghĩ bàn, vô đẳng vô lượng
khó được, không tạp, không não, không lo, đến thành trì vô úy không còn
lui lại, có thể cứu thoát vô lượng chúng sanh khổ nạn.
Bồ
Tát thấy Phật trí vô lượng lợi ích, thấy tất cả pháp hữu vi vô lượng tội
lỗi, thời đối với tất cả chúng sanh phát sanh mười tâm xót thương.
Ðây là mười tâm xót thương :
Thấy chúng sanh cô độc không chỗ tựa nương mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh nghèo cùng khốn thiếu mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị lửa tam
độc đốt cháy mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh bị lao tù mà sanh lòng
thương. Thấy chúng sanh bị rừng rậm phiền não luôn che chướng mà sanh lòng
thương. Thấy chúng sanh chẳng khéo quan sát mà sanh lòng thương. Thấy
chúng sanh không thích muốn pháp lành mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh
bỏ mất Phật pháp mà sanh lòng thương. Thấy chúng sanh theo dòng sanh tử mà
sanh lòng thương. Thấy chúng sanh mất phương tiện giải thoát mà sanh lòng
thương.
Bồ
Tát thấy chúng sanh giới vô lượng khổ não như vậy phát đại tinh tấn mà
nghĩ rằng : Với tất cả chúng sanh này tôi phải cứu, tôi phải giải thoát,
tôi phải thanh tịnh, tôi phải độ, tôi phải đặt họ ở chỗ lành, phải làm cho
họ ở an, cho họ hoan hỷ, cho họ thấy biết, cho họ điều phục, cho họ tịch
diệt.
Bồ
Tát nhàm lìa pháp hữu vi như vậy, lòng thương như vậy. Biết Nhứt thiết
chủng trí có lợi ích thù thắng, muốn nương Phật trí để cứu độ chúng sanh.
Bồ
Tát suy nghĩ rằng : Những chúng sanh này đọa trong khổ lớn phiền não, dùng
phương tiện gì để có thể cứu tế, cho họ an trụ trong sự vui cứu cánh Niết
Bàn ? Bồ Tát lại nghĩ rằng : Muốn độ chúng sanh cho họ an trụ nơi Niết Bàn
quyết không thể rời trí giải thoát vô ngại. Trí này không rời như thiệt
giác ngộ tất cả pháp. Giác ngộ này không rời huệ quang của hạnh vô hành vô
sanh. Huệ quang này không rời thiền trí thiện xảo quyết định quán sát.
Thiền trí này chẳng rời đa văn hay khéo.
Bồ
Tát suy gẫm như vậy rồi, đối với chánh pháp càng thêm siêng năn tu tập.
ngày đêm chỉ mong nghe được pháp, vui nơi pháp, nương với pháp, thuận theo
pháp, hiểu nơi pháp, đến pháp, trụ tại pháp và thật hành chánh pháp.
Bồ
Tát cần cầu Phật pháp như vậy, bao nhiêu của báu đều không lẫn tiếc, chẳng
thấy có vật khó được đáng trọng. Chỉ ở nơi người hay giảng thuyết Phật
pháp thời sanh lòng kính ngưỡng. Vì thế nên đối với tài vật và thân thể
của mình, Bồ Tát đều có thể xả thí để cầu Phật pháp. không có sự cung kính
nào mà chẳng làm được, không có sự kiệu mạn nào mà không bỏ được, không có
sự phụng thờ nào mà không làm được, không có sự cần khổ nào mà không chịu
được.
Nếu được nghe một câu chánh pháp chưa từng nghe, lòng Bồ Tát rất vui mừng
hơn là được trân bửu đầy cả cõi Ðại Thiên. Nếu nghe được một kệ chánh pháp
chưa từng nghe thời Bồ Tát rất vui mừng hơn là được ngôi Chuyển Luân
Vương. Nếu được nghe một kệ chánh pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, thời
xem hơn là được trăm ngàn vô lượng kiếp ở ngôi Ðế Thích Phạm Vương.
Nếu có người bảo : Tôi có một câu Phật pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát,
nếu Ngài có thể vào hầm lửa chịu nổi sự nóng cháy thời tôi sẽ cho Ngài.
Bấy giờ Bồ Tát tự nghĩ rằng : Tôi do một câu pháp của Phật nói mà được
thanh tịnh Bồ Tát hạnh, thời dầu ngọn lửa lớn đầy cõi Ðại Thiên, tôi còn
muốn từ trên trời Phạm Thiên nhảy xuống lửa để lấy được câu Phật pháp,
huống là hầm lửa nhỏ này mà vào không được. Hiện tại tôi vì Phật pháp đáng
lẽ phải lãnh lấy tất cả sự khổ nơi địa ngục, huống là sự khổ nhỏ mọn nơi
nhơn gian.
Bồ
Tát này phát tâm tinh tấn cần cầu Phật pháp như vậy, như chỗ đã được nghe
mà suy gẫm tu hành.
Bồ
Tát này khi đã nghe pháp liền nhiếp tâm an trụ nơi chỗ vắng lặng suy nghĩ
rằng : Như lời Phật dạy tu hành mới chứng được Phật pháp, chẳng phải chỉ
miệng nói mà thanh tịnh được.
Chư Phật tử ! Lúc Bồ Tát này an trụ nơi Phát Quang Ðịa liền xa lìa dục ác,
có giác có quán, ly dục sanh hỷ lạc, trụ nơi Sơ thiền. Diệt giác quán,
nhứt tâm thanh tịnh không giác quán, định sanh hỷ lạc, trụ nơi đệ Nhị
thiền. Lìa hỷ trụ nơi xả, có niệm chánh biết thân thọ lạc Chư Phật đã nói,
hay bỏ có niệm, thọ lạc trụ đệ Tam thiền. Dứt lạc, trước trừ sự khổ mừng
lo, diệt bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh tịnh trụ đệ Tứ thiền. Siêu tất cả
sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, chẳng nhớ các thứ tưởng, vào hư không vô
biên, trụ hư không vô biên xứ. Siêu tất cả hư không vô biên xứ nhập vô
biên thức, trụ thức vô biên xứ. Siêu tất cả thức vô biên xứ, nhập vô thiểu
sở hữu, trụ vô sở hữu xứ. Siêu tất cả vô sở hửu xứ, trụ phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ. Ðây chỉ do tùy thuận theo pháp lành, trọn không thích không
chấp.
Chư Phật tử ! Bồ tát này tâm tùy nơi đức từ duy nhứt rộng lớn vô lượng,
không oán, không đối, không chướng, không não, đến khắp tất cả chỗ, khắp
pháp giới hư không giới, khắp tất cả thế gian. An trụ đức bi, hỷ và xả
cũng như vậy.
Chư Phật tử ! Bồ tát này được vô lượng sức thần thông, có thể chấn động
đại địa. Một thân hiện nhiều thân, nhiều thân làm một thân, hoặc ẩn hoặc
hiển, núi vách đá các vật chướng đều qua lại vô ngại như hư không. Ở giữa
hu không ngồi kiết già bay đi như chim bay. Vào đất như vào nước, đi trên
nước như trên đất. Thân phát khói lửa như đám lửa lớn, lại tuôn nước mưa
như mây lớn. Mặt trời, mật trăng ở hư không có oai lực lớn mà có thể lấy
tay rờ rẫm bưng nắm. Thân thể tự tại cao đến Phạm Thiên.
Thiên nhĩ của Bồ Tát này thanh tịnh hơn tai người, nghe được cả tiếng
trời, người nhẫn đến tiếng muỗi mòng không luận gần hay xa.
Bồ
Tát này dùng tha tâm trí, biết tâm chúng sanh khác đúng như thật. Như
chúng sanh có tâm tham thời biết là có tâm tham, lìa tâm tham thời biết là
lìa tâm tham, có tâm sân hay tâm si, thời biết là có tâm sân hay tâm si,
lìa tâm sân hay lìa tâm si thời biết là lìa tâm sân, lìa tâm si. Nhẫn đến
tán tâm, định tâm, quảng đại tâm, vô lượng tâm, vô thượng tâm đều biết
đúng như thiệt.
Bồ
Tát này nhớ biết vô lượng đời trước sai khác nhau. Như là nhớ biết một
đời, hai đời, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn đời; kiếp thành, kiếp hoại, vô
lượng kiếp thành hoại. Thuở đó tôi từng ở xứ đó, tên họ đó, dòng họ như
vậy, ăn uốngnhư vậy, sống bao lâu khổ vui như vậy. Từ xứ đó chết sanh đến
xứ này, hình dạng như vậy, tướng mạo như vậy, tiếng nói như vậy. Quá khứ
vô lượng đời sai khác như vậy đều có thể nhớ biết.
Bồ
Tát này Thiên mhãn thanh tịnh hơn mắt người. Thấy các chúng sanh lúc sống
lúc chết, sắc tốt sắc xấu, đường lành đường dữ theo nghiệp mà đi. Nếu
chúng sanh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân, nơi lời, nơi ý tưởng, chế nhạo
Hiền Thánh, đầy đủ tà kiến và nghiệp nhơn duyên tà kiến, sau khi chết tất
đọa ác đạo, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh thân tạo nghiệp lành, lời và
ý cũng lành, chẳng khinh Hiền Thánh, đầy đủ chánh kiến và nghiệp nhơn
duyên chánh kiến, sau khi chết tất sanh thiện đạo trong loài trời, loài
người. Thiên nhãn của Bồ Tát đều thấy biết như thiệt.
Bồ
Tát này đối với các Thiền, Tam muội, Tam ma bát đề, có thể nhập, có thể
xuất, nhưng chẳng nương sức thiền định để thọ sanh, mà chỉ theo chỗ có thể
viên mãn Bồ đề phần, dùng sức ý nguyện mà thọ sanh trong đó.
Chư Phật tử ! Bồ tát này trụ bực Phát Quang Ðịa, do nguyện lực mà được
thấy nhiều đức Phật, được thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn đức
Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật. Ðều dùng quảng đại
tâm, thâm tâm để cung kính, tôn trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng
dường chúng Tăng. Bồ Tát đem thiện căn này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Ở
chỗ Ðức Phật, cung kính nghe pháp nghe xong thọ trì rồi tùy sức mà tu
hành.
Bồ
Tát này quán sát tất cả pháp nhơn duyên bất sanh bất diệt mà có kiến
phược. Trước dứt trừ tất cả dục phược, sắc phược và hữu phược, cả vo minh
phược đều càng yếu mỏng. Vì trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp
chẳng tích tập nên tham, sân, si đều được trừ diệt. Tất cả căn lành càng
thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví như chơn kim khéo luyện thời cân chẳng giảm mà càng thêm
sáng sạch.
Cũng vậy, Bồ Tát trự bực Phát Quang Ðịa này, vì chẳng tích tập nên tham,
sân, si đều dứt trừ, bao nhiêu thiện căn càng thêm sáng sạch.
Bồ
Tát này về những tâm nhẫn nhục, nhu hòa, thuận hiệp, vui đẹp, chẳng sân,
chẳng động, chẳng trược, không cao hạ, chẳng mong đền đáp, lòng báo ân,
tâm chẳng dua vạy, chẳng phỉnh dối, không thâm hiểm, càng thêm thanh tịnh.
Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về lợi hành, và thiên nhiều
về nhẫn nhục trong mười môn Ba la mật. Với những pháp môn khác tùy phần,
tùy sức mà tu tập.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Phát Quang Ðịa thứ ba này phần nhiều hiện
thân làm Ðao Lợi Thiên Vương, có thể dùng phương tiện làm cho chúng sanh
lìa bỏ tham dục. Những công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều
không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ
Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, nhẫn
đến là người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn tam
muội, được thấy trăm ngàn đức Phật, biết thần lực của trăm ngàn đức Phật,
có thể chấn động trăm ngàn thế giới, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn thân
Phật, mỗi mỗi thân Phật hiện trăm ngàn Bồ Tát làm quyến thuộc. Nếu dùng
nguyện lực thù thắng, Bồ Tát này tự tại thị hiện hơn số trên, trăm kiếp,
ngàn kiếp, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp không thể tính đếm biết
được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Thanh tịnh an trụ tâm sáng thạnh
Tâm nhàm lìa, không tham, không hại
Tâm kiên cố, dũng mãnh, rộng lớn
Bực trí dùng đây vào Tam Ðịa
Bồ Tát trụ bực Phát Quang Ðịa
Quán thấy hữu vi : khổ, vô thường
Bất tịnh, bại hoại mau tan diệt
Không bền, không dừng, không qua lại.
Xem pháp hữu vi như bịnh nặng
Buộc ràng bởi ưu bi, khổ não
Lửa mạnh tam độc hằng cháy hực
Từ vô thủy đến nay chẳng dứt
Nhàm lìa ba cõi chẳng tham chấp
Chuyên cầu Phật trí không niệm lạ
Khó nghĩ khó lường không sánh kịp
Vô lượng vô biên không bức não
Thấy Phật trí rồi thương chúng sanh
Cô độc không chỗ nương cứu hộ
Ba độc cháy hừng thường thiếu khốn
Ở ngục ba cõi luôn chịu khổ.
Phiền não cột trói mê không trí
Chí nguyện hạ liệt mất pháp bửu
Tùy thuận sanh tử sợ Niết Bàn
Tôi phải cứu họ siêng tinh tấn.
Toan cầu trí huệ lợi chúng sanh
Nghĩ phương tiện gì khiến giải thoát.
Chẳng rời Như Lai trí vô ngại
Kia lại phát khởi huệ vô sanh.
Nghĩ rằng huệ này do nghe pháp
Suy nghĩ như vậy tự siêng gắng
Ngày đêm nghe tu không xen hở
Chỉ dùng chánh pháp làm tôn trọng.
Quốc thành, tiền của, các trân bửu
Vợ con, quyến thuộc và ngôi vua
Bồ Tát vì pháp tâm cung kính
Tất cả như vậy đều thí xả
Ðầu, mắt, tai, mũi, lưỡi và răng
Tay, chân, xương, tủy, tim, máu, thịt
Thí xả tất cả chưa là khó
Chỉ cho nghe pháp là rất khó.
Dầu có ai đến nói Bồ Tát.
Nếu nhảy vào được trong hầm lửa
Tôi sẽ truyền cho Phật pháp bửu
Nghe nói vào lửa không khiếp sợ.
Dầu cho lửa đầy cõi Ðại Thiên
Thân từ trời Phạm mà nhảy vào
Vì cầu Phật pháp xem không khó
Huống là nhơn gian những khổ nhỏ.
Từ sơ phát tâm đến thành Phật
Tất cả sự khổ ngục A Tỳ
Vì nghe Phật pháp đều chịu được
Huống là sự khổ của nhơn gian.
Nghe Phật pháp rồi Chánh tư duy
Lại được Tứ thiền, Vô sắc định
Tứ đẳng, Ngũ thông lần lượt khởi
Chẳng theo định lực để thọ sanh.
Bồ Tát ở đây thấy nhiều Phật
Cúng dường nghe pháp tâm quyết định
Dứt các tà hoặc càng thanh tịnh
Như luyện chơn kim chất không giảm.
Bực này thường làm Thiên Ðế Thích
Hóa đạo vô lượng chúng cõi Trời
Khiến bỏ tâm tham ở đạo lành
Một bề chuyên cầu công đức Phật
Phật tử ở đây siêng tinh tấn
Trăm ngàn tam muội đều đầy đủ
Thấy trăm ngàn Phật thân oai nghiêm
Nếu dùng nguyện lực hơn vô lượng
Lợi ích khắp tất cả chúng sanh
Công hạnh tối thượng của Bồ Tát
Phát Quang Ðịa có như vậy thảy
Tôi y theo nghĩa đã giải thích.
(Hán bộ quyển 36)
Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn
pháp thù thắng thâm diệu đáng ưa
Lòng đều hớn hở rất mừng vui
Rải khắp hoa thơm cúng dường Phật.
Lúc Bồ Tát diễn diệu pháp này
Ðại địa, biển cả đều chấn động
Tất cả Thiên nữ đều hoan hỷ
Ðều phát diệu âm đồng ca ngợi
Tự Tại Thiên Vương rất vui mừng.
Rải ma ni bửu cúng dường Phật
Khen rằng : Phật vì ta xuất thế
Diễn nói công hạnh pháp đệ nhứt.
Nghĩa của các Ðịa như đã giải
Trong trăm ngàn kiếp rất khó gặp
Nay tôi bỗng nhiên mà được nghe
Diệu pháp thắng hạnh của Bồ Tát.
Mong lại diễn nói bực thông huệ
Ðạo hạnh quyết định của Ðịa sau
Lợi ích tất cả hành Trời, người
Ðại chúng hội này đều mong mỏi.
Dũng mãnh đại tâm Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng đại Bồ Tát :
Ðệ tam chuyển vào đệ Tứ địa
Có hành tướng gì xin tuyên nói.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử !
Ðại Bồ Tát từ Ðệ tam Phát Quang Ðịa đã khéo thanh tịnh, muốn vào Ðệ tứ
Diệm Huệ Ðịa, phải tu hành mười pháp minh môn.
Ðây là mười pháp :
Quán sát chúng sanh giới, quán sát pháp giới, quán sát thế giới, quán sát
hư không giới, quán sát thức giới, quán sát dục giới, quán sát sắc giới,
quán sát vô sắc giới, quán sát quảng tâm tín giải giới, quán sát đại tâm
tín giải giới, Bồ Tát do mười pháp minh môn này mà được vào Ðệ tứ Diệm Huệ
Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ nơi Diệm Huệ Ðịa này thời vì có thể dùng mười
pháp do trí thành thục nên được nội pháp của đệ Tứ địa sanh vào nhà Như
Lai.
Ðây là mười pháp do trí thành thục :
Vì
thâm tâm bất thối, vì trong Tam Bảo sanh tịnh tín rốt ráo chẳng hoại, vì
quán hành pháp sanh diệt, vì quán các pháp tự tánh vô sanh, vì quán thế
gian thành hoại, vì quán nhơn nơi nghiệp mà có sanh, vì quán sanh tử và
Niết Bàn, vì quán chúng sanh quốc độ nghiệp, vì quán thời gian trước thời
gian sau, vì quán vô sở hữu tận.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ Tứ địa này quán nội thân, theo thân quán
niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán ngoại thân,
theo thân quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo của thế gian. Quán
nội ngoại thân, theo thân quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Cũng vậy, quán nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ, theo thọ quán. Quán nội
tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm, theo tâm quán. Quán nội pháp, ngoại pháp,
nội ngoại pháp, theo pháp quán niệm siêng năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Bồ
Tát này đối với pháp bất thiện chưa sanh, cì cho nó chẳng sanh mà muốn
siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Với pháp bất thiện đã sanh, vì dứt nó
mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Với pháp thiện chưa sanh, vì
cho nó sanh mà muốn siêng tinh tấn phát tâm chánh hành. Với pháp thiện đã
sanh, vì cho nó còn mãi không mất càng thêm rộng lớn, mà muốn siêng tinh
tấn phát tâm chánh hành.
Bồ
Tát này tu hành dục định, dứt hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm,
y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. Tu hành tinh tấn định, tâm
định, quán định, dứt hành pháp thành tựu thần túc, y chỉ nơi yểm, y chỉ
nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ
Tát này tu hành tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn, y chỉ
nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ
Tát này tu hành tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, y chỉ
nơi yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ
Tát này tu hành niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần,
hỷ giác phận, khinh an giác phần, định giác phần, xả giác phần, y chỉ nơi
yểm, y chỉ nơi ly, y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ
Tát này tu hành chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly,
y chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ
Tát tu hành những công đức như vậy, vì chẳng bỏ chúng sanh, vì bổn nguyện
giữ gìn, vì đại bi làm đầu, vì đại từ thành tựu, vì tư niệm Nhứt thiết
chủng trí, vì thành tựu trang nghiêm Phật độ, vì thành tựu đầy đủ lực, vô
úy, bất động, tướng hảo, âm thanh của Như Lai, vì cầu đạo thượng thượng
thù thắng, vì tùy thuận Phật pháp giải thoát thậm thâm đã nghe, vì tư duy
đại trí thiện xảo phương tiện.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Diệm Huệ Ðịa này, xuất nhập nơi tất cả chấp
trước thân kiến, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, uẩn, xứ, giới, để tu duy
quán sát đối trị, tất cả sự chấp trước đều xa rời.
Bồ
Tát này nếu thấy những nghiệp nào bị đức Như Lai quở trách, bị phiền não
nhiễm ô thời đều xa lìa. Thấy những nghiệp nào được đức Như Lai khen ngợi,
thuận đạo Bồ Tát, thời đều tu hành.
Chư Phật tử ! Bồ tát này tùy phát khởi huệ phương tiện đều tu tập đạo và
trợ đạo. Vì vậy mà được tam nhuận trạch, tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận,
tâm lợi ích an lạc, tâm không tạp nhiệm, tâm cầu pháp thù thắng thượng
thượng, tâm cầu trí huệ thù thắng, tâm cứu tất cả thế gian, tâm cung kính
bực Tôn Ðức không trái lời dạy bảo, tâm khéo tu hành nơi pháp đã được
nghe.
Bồ
Tát này biết ơn, biết báo ơn, rất hòa lành đồng ở an vui, chất trực dịu
dàng, không tạp loạn, không ngã mạn, khéo lãnh lời dạy được lòng của người
nói.
Bồ
Tát này thành tựu nhẫn như vậy, thành tựu điều như vậy, thành tựu tịch
diệt như vậy, thành tựu nhẫn điều nhu tịch diệt như vậy, lúc tác ý tu tập
công hạnh của địa sau, liền được tinh tấn không thôi nghỉ, tinh tấn chẳng
tạp nhiễm, tinh tấn chẳng thối chuyển tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên,
tinh tấn hẩy hừng, tinh tấn vô đẳng đẳng, tinh tấn vô năng hoại, tinh tấn
thành thục tất cả chúng sanh, tinh tấn khéo phân biệt là đạo hay phi đạo.
Bồ
Tát này tâm giới thanh tịnh thâm tâm chẳng mất, ngộ giải sáng lanh, thiện
căn tăng trưởng, lìa cấu trược thế gian, dứt nghi lầm, đầy đủ minh đoán,
đầy đủ hỷ lạc, được chính đức Phật hộ niệm nên vô lượng chí nguyện đều
được thành tựu.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở bực đệ tứ Phát Quang Ðịa này do nguyện lực nên được
thấy nhiều đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật, đều
kính trọng, phụng thờ, cúng dường và cũng cúng dường tất cả chúng Tăng.
Ðem thiện căn này đều hồi hướng Vô thượng Chánh giác. Ở chỗ Chư Phật cung
kính nghe pháp, nghe xong thọ trì tu hành toàn vẹn. Rồi lại ở trong pháp
của đức Phật đó xuất gia tu hành. Rồi lại tu tập thâm tâm tín giải, trải
qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, cho các căn lành càng thêm sáng
sạch.
Chư Phật tử ! Ví như thợ kim hoàn luyện chơn kim làm thành đồ trang sức,
những kim khí khác không thể sánh kịp.
Cũng vậy, đại Bô` Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những
thiện căn của các bực dưới không thể sánh kịp.
Như ma ni bửu thanh tịnh hay phóng quang minh, những châu báu khác không
thể sánh kịp, gió mưa không làm hư được.
Cũng vậy, đại Bồ Tát trụ bực đệ Tứ địa này có bao nhiêu thiện căn, những
thiện căn của các bực dưới không thể so sánh kịp
Như ma ni bửu thanh tịnh hay phóng quang minh, những châu báu khác không
thể sánh kịp , gió mưa không làm hư được .
Cũng vậy, Ðại bồ tát trụ bực đệ tứ địa này, các bồ tát bực dưới không thể
sánh kịp,các ma phiền não đều không thể pháp hoại .
Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này thiên nhiều về đồng sự,trong mười môn ba
la mật thiên nhiều về tinh tấn. Với các pháp môn khác thời tuỳ phần tuỳ
sức mà tu tập .
Chư phật tử ! đây là lược nói về bồ tát đệ tứ diệm huệ địa .
Bồ
tát trụ bực này phần nhiều làm dạ ma thiên vương.Dùng thiện phương tiện
hay trừ thân kiến các thứ phiền não cho chúng sanh, khiến họ ở nơi chánh
kiến .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngư, hành , đồng sự thảy đều không rời niệm
phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến không rời nhứt thiết chủng trí .
Bồ
tát này lại nghĩ rằng : trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng là vô thượng, nhẫn đến
là bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí .
Bồ
tát này nếu siêng tinh tấn thời trong khoảng một niệm được nhập ức số tam
muội, được thấy ức số đức phật, được biết thần lực của ức số đức phật, hay
chấn động ức số thế giới, nhẫn đến hay thị hiện ức số thân phật, mỗi mỗi
thân hiện ức số bồ tát làm quyến thuộc. Nếu do nguyện lực thù thắng thời
bồ tát này tự tại thị hiện hơn số trên đây, trong trăm ngàn ức na do tha
kiếp chẳng tính đếm mà biết được .
Kim cang tạng bồ tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Bồ tát đã tịnh đệ tam địa .
Kế quán chúng sanh , thế , pháp giới ,
Không giới , thức giới và tam giới
Tâm hiểu thấu rõ hay thẳng vào .
Mới lên diệm địa thêm thế lực
Sanh nhà như lai trọn bất thối
Với phật , pháp , tăng tin sâu chắc
Quán pháp vô thượng và vô sanh
Quán thế thành hoại , nghiệp có sanh
Nghiệp có sanh tử , niết bàn cõi
Quán tiền hậu tế cũng quán tận
Tu hành như vậy sanh nhà phật .
Ðược pháp náy rồi sanh lòng từ
Càng thêm siêng tu tứ niệm xứ
Thân , thọ , tâm , pháp , nội ngoại quán
Tham ái thế gian đều trừ dứt .
Bồ tát siêng tu tứ chánh cần
Dứt trừ pháp ác , thêm thiện pháp
Thần túc , căn , lực đều khéo tu
Giác phần , chánh đạo cũng tinh tấn .
Vì độ chúng tu trợ đạo
Từ bi làm trước , bổn nguyện gìn
Cầu nhứt thiết trí và phật độ
Cũng nhớ thập lực của Như Lai
Tứ vô uý , thập bát bất cộng ,
Tướng hảo trang nghiêm tiếng thâm mỹ
Cũng cầu diệu đạo chổ giải thoát
Và công hạnh tu hành đại phương tiện .
Thân kiến làm đầu sáu mươi hai
Nga ; ngã sở vô lượng thứ
Uẩn , xứ , giới thảy những chấp trước
Trong đệ tử địa lìa tất cả .
Như lai quở trách nghiệp phiền não
Là nhơn khổ hoạn đều dứt trừ ,
Trí giả tu hành nghiệp thanh tịnh
Vì độ chúng sanh tu tất cả.
Bồ tát siêng tu chẳng giải đãi .
Liền được đầy đủ cả mười tâm
Chuyên cầu Phật đạo chẳng mỏi nhàm
Chí mong thọ chức độ muôn loại.
Kính trọng Tôn Ðức tuân lời dạy
Biết ơn, dễ bảo không hờn giận
Bỏ mạn, lìa nịnh, lòng dịu dàng
Lại thêm siêng năng chẳng thối chuyển.
Bồ Tát trụ bực Diệm Huệ này
Tâm Ngài thanh tịnh trọn không mất
Ngộ giải quyết định, thêm căn lành
Lưới nghi uế trược đều dứt hết.
Bực Tứ Ðịa : tối thắng trong người
Cúng dường na do vô lượng Phật.
Ðược nghe chánh pháp cũng xuất gia
Không phá hoại được như vàng thiệt.
Bồ Tát Tứ Ðịa đủ công đức
Dùng trí phương tiện tu đạo hạnh
Chẳng bị loài ma tâm thối chuyển
Ví như ma ni không hư hoại.
Tứ Ðịa thường làm Dạ Thiên Vương
Tự tại nơi pháp chúng tôn trọng
Ðộ khắp quần sanh trừ ác kiến
Chuyên cầu Phật trí tu thiện nghiệp.
Bồ Tát càng thêm sức tinh tấn
Ðược chứng tam muội đều số ức
Nếu dùng nguyện lực tự tại làm
Quá hơn số ức không đếm được.
Như vậy Bồ Tát Diệm Huệ Ðịa
Diệu hạnh thanh tịnh đã thật hành
Công đức nghĩa trí cùng tương ưng
Vì chư Phật tử, tôi đã nói.
Ðại chúng được nghe Diệm Huệ Hạnh
Tỏ ngộ diệu pháp lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không khen ngợi rằng :
Lành thay Ðại Sĩ Kim Cang Tạng !
Tự tại Thiên Vương cùng Thiên chúng
Nghe pháp hớn hở trụ hư không
Khắp phóng những mây sáng vi diệu
Cúng dường Như Lai lòng vui đẹp.
Chúng Thiên nữ hòa tấu Thiên nhạc
Cũng dùng lời ca khen ngợi Phật,
Ðều do Bồ Tát sức oai thần
Trong tiếng đờn ca phát lời này :
Phật nguyện lâu xa nay mới đầy,
Phật đạo lâu xa nay mới được,
Thích Ca Mâu Ni đến Thiên cung
Ðấng Thiên Nhơn Sư nay mới thấy,
Ðại hải lâu xa nay mới động,
Phật quang lâu xa nay mới phóng.
Chúng sanh lâu xa mới an vui,
Tiếng đại từ bi lâu được nghe,
Hạnh Ba la mật đều đã đến
Kiêu mạn tối tăm đều đã trừ
Cùng tột thanh tịnh như hư không
Như hoa sen chẳng nhiễm thế pháp.
Ðấng Ðại Mâu Ni hiện ra đời
Ví như Tu Di vọi trên biển
Cúng Phật có thể dứt các khổ
Cúng dường tất được Như Lai trí,
Chỗ đây đáng cúng, không gì bằng
Thế nên hoan hỷ cúng dường Phật.
Vô lượng Thiên nữ như vậy thảy
Phát diệu âm thanh ca ngợi Phật
Tất cả cung kính rất vui mừng
Chiêm ngưỡng Như Lai, đứng yên lặng.
Bấy giờ Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Lại thỉnh Ðại Sĩ Kim Cang Tạng
Hành tướng của Ðệ Ngũ Ðịa kia
Mong đại Bồ Tát vì tuyên thuyết.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử !
Ðại Bồ Tát đệ tứ Diệm Huệ Ðịa công hạnh đã khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ
Nan Thắng Ðịa, phải dùng mười thứ tâm bình đẳng thanh tịnh.
Ðây là mười tâm :
Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh
tịnh đối với Phật pháp vị lai, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp
hiện tại, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với giới, tâm bình đẳng thanh tịnh
đối với tâm, tâm bình đẳng thanh tịnh dứt trừ kiến nghi hối, tâm bình đẳng
thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo, tâm bình đẳng thanh tịnh tu hành tri kiến,
tâm bình đẳng thanh tịnh nơi thượng thượng quán sát tất cả pháp Bồ đề
phần, tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất cả chúng sanh.
Ðại bồ tát dùng mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được vào bực đệ ngũ
nan thắng địa .
Chư phật tử ! đại bồ tát đã an trụ bưực đệ ngũ địa do khéo tu pháp bồ đề
phần , do khéo tịnh thâm tâm , do cầu thêm đạo thượng thắng , do tuỳ thuận
chơn như , do nguyện lực chấp trì , do từ mẫn không bỏ tất cả chúng sanh ,
do chứa nhóm phước trí trợ đạo , do tinh tấn tu tập chẳng nghỉ , do xuất
sanh phương tiện thiện xảo , do quán sát chiếu rõ các bực trên , do được
như lai hộ niệm , do sức niệm trí chấp trì , mà được tâm bất thối chuyển
.
Chư phật tử ! đại bồ tát này biết như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật
là khổ tập thánh đế; ây là khổ diệt thánh đế, đây là diệt đạo đế .
Bồ
tát này khéo biết tục đế, khéo biết tướng đe,ᠫhéo biết sai biệt đế, khéo
biết thành lập đế, khéo biết sự đế, khéo biết sanh đế, khéo biết tận vô
sanh đế,ᠫhéo biết nhập đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành
tựu đế nhẫn đến khéo biết Như Lai trí thành tựu đế .
Bồ
tát này vì tuỳ lòng sở thích của chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên biết
tục đế . Vì thông đạt nhứt thiết tướng nên biết đệ nhứt nghĩa đế . Vì tỏ
thấu tự tướng cộng tướng của các pháp nên biết tướng đế . Vì rõ phần vị
sai biệt của các pháp nên biết sai biệt đế . Vì khéo phân biệt uẩn xứ giới
nên thành lập đế . Vì tỏ ngộ các loài sanh tương tục nên biết sanh đế . Vì
tất cả nhiệt não rốt ráo diệt nên biết tận vô sanh trí đế . Vì xuất sanh
vô nhị nên biết nhập đạo trí đế . Vì chánh giác ngộ tất cả hành tướng nên
biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến biết Như Lai trí thành
tựu đế .
Ðây là dùng sức tín giải trí mà biết chẳng phải dùng sức cứu cánh trí .
Chư phật tử! Ðại bồ tát này được các đế trí thời biết như thiệt tất cả
pháp hửu vi hư vọng dối trá gạt phỉnh kẻ ngu , vì thế nên đối với tất cả
chúng sanh càng tăng thêm quang minh đại bi và đại từ .
Chư phật tử ! đại bồ tát được trí lực như vậy chẳng bỏ một chúng sanh ,
thường cầu phật trí , quán sát như thiệt tất cả hạnh hửu vi về tiến tế và
hậu tế : rõ biết từ tiền tế vô minh , ái , hửu mà sanh , do đây sanh tử
lưu chuyển . Nơi các nhà ngũ uẩn không thể thoát ra , thêm lớn sự khổ ,
không ngã , không thọ giả , không gì kẻ dưỡng dục , không gì là kẻ luôn
thọ lấy than loài sau , rời ngã và ngã sở .
Như tiền tế , hậu tế cũng như vậy . đều là vô sở hửu , hư vọng tham trước
, dứt hết thời được giải thoát . Hoặc có hoặc không điều biết như thiệt .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát này lại nghĩ rằng : hàng phàm phu này ngu si vô
trí thật là đáng thương . Có vô số thân đã mất , nay mất , sẽ mất . Diệt
mất như vậy mà chẳng thể đối với thân có quan niệm nhàm lìa , lại thêm lớn
cơ quan khổ sở , theo dòng sanh tử chẳng trở lại được . Nơi những nhà ngũ
uẩn chẳng cầu thoát khỏi , chẳng biết lo sợ bốn rắn độc lớn , không nhổ
đượcnhững mũi tên kiêu mạn kiến chấp , không dập tắt được ngọn lưởi tham ,
sân , si , không pháp tan được màn vô minh , không làm khô cạn được biển
lớn ái dục . Họ chẳng biết cầu đấng đại thánh đạo sư đủ mười trí lực , mà
vào trong rừng rậm ma ý . Ở trong biển sanh tử họ bị lượng sóng giác quán
cuốn trôi nhận chìm .
Chư phật tử ! đại bồ tát này lại nghĩ rằng : những chúng sanh này thọ khổ
như vậy , có cùng khốn đốn , không chổ nương , không ai cứu , không đất ,
không nhà , không mắt , không người dẫn dắt . Họ bị vô minh che loà , màn
tối chụp trùm .
Nay tôi vì họ mà tu hành những pháp trợ đạo phước trí . Ðơn độc pháp tâm
chẳng cầu bè bạn . Ðem công đức này làm cho chúng sanh được rốt ráo thanh
tịnh , nhẫn đến chứng được mười trí kực vô ngại của Như Lai .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát này dùng trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy
, đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh , lợi ích tất cả chúng sanh , thương xót
tất cả chúng sanh , thành tựu tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng
sanh , thành tựu tất cả chúng sanh , giải thoát tất cả chúng sanh nhiếp
thọ tất cả chúng sanh , khiến tất cả chúng sanh lìa những khổ não , khiến
tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh , khiến tất cả chúng sanh đều được
điều phục , khiến tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn .
Chư phật tử ! Ðại bồ tát an trụ bực đệ ngũ nan thắng địa , gọi là " niệm"
là vì chẳng quên chánh pháp , gọi là " trí " là vì hay khéo nói quyết rõ ,
gọi là " hửu trí" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp , gọi là " tàm
quý" là vì hộ mình hộ người , gọi la "ên cố" là vì chẳng bỏ giới hạnh ,
gọi là "giác" là vì hay quán sát thị xứ phi xứ , gọi là " tuỳ trí" là vì
chẳng tuỳ nơi khác , gọi là " tuỳ huệ" là vì khéo biết câu sai biệt đúng
nghĩa hay chẳng đúng nghĩa , gọi là " thần thông" , là vì khéo tu thiền
định , gọi là " phương tiện thiện xảo" là vì có thể thật hành theo thế
gian , gọi là " vô yểm túc " là vì khéo chứa phước đức , gọi là " bất hưu
tức " là vì thường cầu trí huệ , gọi là " bất bì quyện " là vì chứa đại từ
bi , gọi là " siêng tu vì người " là vì muốn cho tất cả chúng sanh chứng
nhập niết bàn , gọi là " cần cầu chẳng giải đãi" là vì cầu trí lực , vô uý
, bất cộng pháp của Như Lai , gọi là " mống ý hay làm" là vì thành tựu
trang nghiêm phật độ , gọi là " siêng tu công hạnh lành" là vì hay đầy đủ
tướng hảo , gọi là " thường siêng tu tập" là vì cầu trang nghiêm thân ,
ngữ , ý Như Lai , gọi là " rất tôn trọng cung kính phá" là vì đúng như lời
dạy của tất cả đại bồ tát mà thật hành , gọi là " tâm không chướng ngại"
là vì dùng đại phương tiện thường du hành thế gian , gọi là " ngày đêm xa
lìa những tâm khác" là vì thích giáo hoá chúng sanh .
Chư Phật tử ! lúc đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy , dùng Bố thí để giáo
hoá chúng sanh , dùng ái ngữ lợi hành và đồng sự để giáo hoá chúng sanh .
Thị hiện sắc thân để giáo hoá chúng sanh , diễn thuyết các pháp để giáo
hoá chúng sanh . khai thị Bồ Tát hạnh để giáo hoá chúng sanh . Hiển thị
lỗi lầm khổ sở của sanh tử để giáo hoá chúng sanh . Khen ngợi trí huệ lợi
ích của Như Lai để giáo hoá chúng sanh . Hiện sức đại thần thông để giáo
hoá chúng sanh . Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sanh . Dùng các
môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh . Dùng các môn phương tiện để giáo
hoá chúng sanh
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này có thể siêng năng phương tiện như vậy để giáo
hoá chúng sanh . lòng luôn tương tục thẳng đến phật trí . Thiện căn đã tu
không hề thối chuyển . Thường siêng tu học những pháp hành thù thắng .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này vì lợi ích chúng sanh nên gồm học tập tất cả
kỹ nghệ thế gian , thông đạt cả những môn văn tự , toán số , đồ thơ , ấn
loát , các sách luận về địa , thuỷ , hoả phong. Lại giỏi phương thuốc trị
lành các bịnh : điên cuồng , càn tiêu , quỷ mị , cổ độc . lại giỏi những
thứ văn bút , tấn vịnh , ca vũ, kỷ nhạc,diễu cười, đàm luận.Biết rành cách
thức kiến thiết thành trì,thôn ấp,nhà cửa,vườn tược, suối ao, cây cỏ, hoa
trái, dược thảo.Biết những nơi có mõ vàng, bạc, châu, ngọc.Giỏi xem biết
rành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim hót, địa chấn, chiêm bao tốt xấu,
thân tướng sang hèn.Những môn trì giới, nhập thiền định,vô lượng thần
thông,tứ vô sắc và tất cả việc thế gian khác,nếu là những sự không làm tổn
chúng sanh mà đem lại lợi ích thời đều khai thị cho họ,lần đưa họ đến phật
phápvô thượng .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát trụ bực Nan thắng này , do nguyện lực được thấy
nhiều Ðức phật , nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức phật , nhẩn đến
thấy trăm ngàn ức na do tha đức phật , đều kính trọng cúng dường,cũng cúng
dường tất cả chúng tăng . Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề .
nơi Chư Phật cung kính nghe pháp , nghe xong thọ trì tuỳ sức tu hành.Sau
đó xuất gia lại nghe Phật pháp được đà la ni làm qua trăm kiếp nhẫn đến vô
lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp,những thiện căn đã có càng thêm sáng
sạch .
Chư Phật tử ! ví như chơn kim dùng ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm
sáng sạch .
Cũng vậy, Bồ Tát này dùng Phương tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn
đã có càng thêm sáng sạch .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực nan thắng địa dùng tiện trí thành tựu công
đức,những thiện căn của bực dưới không thể sánh kịp .
Chư Phật tử ! như mặt trời mặt trăng cung điện quang minh do sức gió chấp
trì nên không bị chướng ngăn phá hoại, cũng chẳng phải sức gió khác làm
khuynh động được .
Cũng vậy , những thiện căn của bực Bồ Tát này , do phương tiện trí theo
dõi quán sát nên không bị ngăn hoại, cũngchẳng phải thiện căn của tất cả
độc giác, thanh văn và thế gian làm khuynh động được .
Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về thiền ba la mật, với
các môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức .
Chư Phật tử ! đây là lược nói về đệ ngũ nan thắng địa Bồ Tát .
Bồ
Tát ở bực này thường làm đâu suất thiên vương .Ðối với chúng sanh đều được
tự tại.Dẹp trừ tất cả ngoại đạo tà kiến, có thể làm cho chúng sanh trụ
trong thiệt đế .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm
phật, niệm pháp,niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhứt thiết chủng
trí .
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : tôi sẽ ở trong chúng sanh làm thượng thủ, làm
thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu , làm vô thượng nhẫn đến làm
bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí .
Bồ
Tát này nếu phát cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được ngàn ức tam
muội,thấy ngàn ức Ðức Phật , biết thần lực của ngàn ức Ðức Phật,có thể
chấn động ngàn ức thế giới,nhẫn đến thị hiện ngàn ức thân phật , mỗi mỗi
thân hiện ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc .
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn vô số trên đây ,
nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm được .
Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Bồ Tát tứ địa đã thanh tịnh
Tư duy tam thế phật bình đẳng
Giới,tâm,trừ nghi,đạo phi đạo ,
Quán sát như vậy vào ngũ địa .
Niệm xứ làm cung ,căn làm tên .
Chánh cần làm ngựa , xe : thần túc ,
Giáp sắt ngũ lực phá oán địch ,
Mạnh mẽ bất thối vào ngũ địa ,
Tàm quý y phục, hoa giác phần
Tịnh giới y phục, hoa giác phần
Tịnh giới làm hương, thiền hương thoa
Trí huệ phương tiện diệu trang nghiêm
Vào rừng tổng trì, vườn tam muội .
Như ý làm chân,cổ chánh niệm ,
Từ bi làm mắt, răng trí huệ ,
Ðấng sư tử vô ngã rống vang động .
Phá giặc phiền não vào ngũ địa
Bồ Tát trụ bực đệ ngũ này
Chuyển tu thắng thượng đạo thanh tịnh
Chí cầu Phật pháp chẳng bất thối chuyển
Gẩm nhớ từ bi không nhàm mõi .
Chứa nhóm phước trí thắng công đức
Tinh tấn phương tiện quán bực trên
Phật lực gia hộ đủ niệm huệ
Rõ biết tứ đế như thiệt .
Khéo biết thế đế , thắng nghĩa đế
Tướng đế , sai biệt thành lập đế ,
Sự đế, sanh , tận và đạo đế.
Nhẫn đến Như Lai vô ngại đế.
Quán đế như vậy đầu vi diệu
Chưa được vô ngại thắng giải thoát .
Do đây hay sanh thắng công đức .
Cho nên vượt hơn thế trí huệ .
Ðã quán đế rồi biết hửu vi .
Thể tánh hư dối không bền chắc
Ðược phần từ quang của chư phật
vì lợi chúng sanh cầu phật trí .
Quán pháp hửu vi thuở trước sau
Vô minh tối tăm , ái ràng buộc
Lưu chuyển xoắn trong quả khổ
Không ngã, không nhơn, không thọ mạng .
Ái thủ làm nhơn thọ khổ sau
Muốn tìm ngằn mé không thể được ,
Mê vọng trôi chìm không thuở về
Bọn này đáng thương tôi phải độ .
Nhà : uẩn, rắn : cõi, mũi tên : chấp
Tâm hoả hừng hực, si tối nặng
Sông ái cuốn trôi chẳng rảnh xem
Biển khổ dật dờ không người dắt .
Rõ biết như vậy siêng tinh tấn
Chổ làm đều vì độ chúng sanh
Gọi là người có niệm có huệ
Nhẫn đến có giác giải phương tiện .
Tu tập phước trí không nhàm đủ
Cung kính đa văn chẳng mõi nhàm
Cõi nước tướng hảo đều trang nghiêm
Như vậy đều ví chúng sanh cả
Vì muốn giáo hoá các thế gian
Giỏi biết thơ số cách ấn loát
Và cũng biết rành các phương thuốc
Chửa trị bịnh tật đều được lành .
Văn từ , ca vũ đều khéo giói
Nhà cửa,vườn ao đều an ổn .
Mõ vàng , bạc ngọc đều pháp hiện
Vô lượng chúng sanh nhờ lợi ích .
Nhựt, nguyệt, tinh tú và địa chấn
Nhẫn đến thân tướng cũng quán sát
Tứ thiền,vô sắc và thần thông
Vì lợi thế gian đều hiển thị .
Trí giả trụ bực nan thắng này
Cúng vô lượng phật và nghe pháp
Như dùng diệu bửu trau chơn kim
Thiện căn đã có càng sáng sạch .
Ví như tinh tú ở hư không
Phong lực chấp trì không tổn động .
Cũng như hoa sen không dính nước
Bồ Tát độ đời cũng như vậy .
Bực này thường làm đâu suất vương
Hay dẹp ngoại đạo các phật trí
Nguyện được thập lực độ tận chúng sanh
Ngài tu hành đại tinh tấn
Liền được cúng dường ngàn ức phật
Ðắc định, động cõi cũng ngàn ức
Nếu là nguyện lực lại hơn đây .
Bồ Tát đệ ngũ nan thắng địa
Chơn đạo tối thượng trong nhơn gian
Tôi cùng các môn phương tiện lực
Vì Chư Phật đã tuyên thuyết .
(Hán bộ quyển 37)
Bồ Tát đã nghe những thắng hạnh
Lòng rất hoan hỷ rải hoa thơm
Phóng tịnh quang minh rải bửu châu
Cúng duờng Như Lai khen nói giỏi .
Trăm ngàn thiên chúng đều vui mừng
Ðồng ở hư không rải các báu :
Tràng hoa, chuổi ngọc và tràng phan
Lọng báu , hương thoa đều cúng phật .
Tự tại thiên vương cùng quyến thuộc
Lòng sanh hoan hỷ trụ hư không
Rải báu thành mây dùng cúng dường
Khen rằng Phật tử khéo tuyên thuyết !
Vô lượng thiên nữ ở hư không
Ðồng tấu nhạc âm ca ngợi phật
Trong tiếng ca nhạc đều nói rằng
Lời phật hay trừ bịnh phiền não ,
Pháp tánh bổn tịch không hình tướng
Dường như hư không chẳng phân biệt
Ngoài những chấp trước , tuyệt nói phô
Chơn thiệt bình đẳng thường thanh tịnh .
Nếu muốn thông đạt các pháp tánh
Nơi có , nơi không lòng chẳng động
Vì muốn cứu đời siêng tu hành
Từ miệng phật sanh chơn Phật tử .
Bố thí vẫn không thấy có tướng ,
Vốn đứt điều ác gìn giử tịnh giới ,
Hiểu pháp không hại , thường nhẫn nhịn ,
Biết pháp tánh ly , chuyên tinh tấn ,
Ðã hết phiền não vào thiền định ,
Khéo đạt tánh không,phan biệt pháp
Ðầy đủ trí lực ,hay cứu rộng
Diệt trừ điều ác xưng đại sĩ .
Diệu âm như vậy ngàn vạn thứ
Khen rồi đứng yên chiêm ngưỡng phật .
Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử ! đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa
muốn vào đệ lục hiện tiền địa phải quán sát mười pháp bình đẳng
Ðây là mười pháp :
Tất cả pháp vì vô tướng nên bình đẳng vì vô thế nên bình đẳng , vì vô sanh
nên bình đẳng,vì vô diệt nên bình đẳng , vì bổn lai thanh tịnh nên bình
đẳng , vì không hý luận nên bình đẳng,vì không thủ xã nên bình đẳng,vì
tịch tịnh nên bình đẳng.Vì như huyễn,như mộng,như bóng, như vang, như
trăng trong nước, như tượng trong gương , như dương diệm, như biến hoá nên
bình đẳng , vì có không bất nhị nên bình đẳng .
Bồ
Tát quán sát các pháp như vậy , tự tánh thanh tịnh , tuỳ thuận không trái
được vào đệ lục hiện tiền địa , được minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô
sanh pháp nhẫn .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này quán như vậy rồi , lại lấy đại làm đầu , đại
bi tăng thượng , đại bi đầy đủ , quán thế gian sanh diệt mà nghĩ rằng:
Thế gian thọ sanh đều do chấp ngã.Nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sanh .
Lại nghĩ rằng : phàm phu không trí huệ chấp lấy ngã thường tìm có không ,
suy xét bất chánh, khởi vọng hạnh, làm đạo tà, nghiệp tội, nghiệp bất động
tích tập thêm lớn.Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hửu lậu hữu
thú, lại khởi hậu hữu : sanh và lão tử.Chính là : nghiệp làm đồng ruộng,
thức làm hột giống, vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới bón,
lưới chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi ngũ
căn , các căn đối nhau sanh ra xúc, xúc đối sanh có thọ, sau khi thọ rồi
mong cầu sanh có ái , ái tăng thêm sanh ra thủ, thêm lớn thủ sanh ra hữu,
đã sanh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là sanh,suy biển
gọi là lão,chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sanh ra những nhiệt não .Do
nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp lại .Ðây là do duyên mà
tập họp chớ không có cái tập họp.Lần lượt mà diệt chớ không có cái diệt .
Bồ
Tát tuỳ thuận quán sát tương duyên khởi như vậy .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng : vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhứt
nghĩa đế nên gọi là vô minh . nghiệp quả là hành .sơ tâm của hành y chỉ là
thức. Bốn uẩn cùng thức sanh chung là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là
lục nhập .Căn , cảnh, thức ba thứ hòa hiệp là xúc. Xúc sanh chung mà có
thọ. Nhiễn trước nơi thọ là ái .Thêm lớn ái thành ra thủ. Nghiệp hữu lậu
do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp khởi ra uẩn là sanh. Uẩn chín mùi là
lão. Uẩn hư hoại là tử .Lúc mê tham luyến trong lòng phiền muộn là sầu.
Rơi lệ than thở là thán .Tại năm căn là khổ .Tại ý tưởng là ưu . Ưu khổ
càng nhiều là não .
Như thế thì chỉ có cây khổ làm tăng trưởng , trọn không ngã không ngã sở,
không tác giả, không thọ giả .
Lại nghĩ rằng : nếu có tác giả thời có tác sự .Nếu không tác giả thời
không tác sự .Trong đệ nhứt nghĩa đế hoàn toàn bất khả đắc .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này lại nghĩ rằng : toàn cả tam giới chỉ có nhứt
tâm .Ơ 73;ây đức Như Lai phân biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhứt
tâm mà an lập như vậy .
Tại sao vậy ? vì theo sự tham dục cùng tâm sanh chung .Tâm là thức, sự là
hành .Mê lầm nơi hành là vô minh .Cùng vô minh và tâm sanh chung là danh
sắc .Tăng trưởng danh sắc là lục nhập .Lục nhập ba phần là xúc .Xúc sanh
chung là thọ .Thọ không nhàm đủ là ái .Ái nhiếp chẳng bỏ là thủ .Các hữu
chi sanh là hữu .Của hữu phát khởi gọi là sanh .Sanh thục là lão .Lão hoại
là tử
Chư Phật tử ! trong đây vô minh có hai thứ nghiệp : một là làm cho chúng
sanh mê nơi cảnh sở duyên, hai là làm nhơn sanh khởi cho hành .
Hành cũng có hai thứ nghiệp : một là có thể sanh ra báo vị lai, hai là làm
nhơn sanh khởi cho thức .
Thức cũng có hai thứ nghiệp : một là khiến các hữu nối tiếp,hai là làm
nhơn sanh khởi cho danh sắc .
Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp : một là trợ thành lẫn nhau,hai là làm
nhơn sanh khởi cho lục nhập .Lục nhập cũng có hai thứ nghiệp : một là đều
riêng lấy cảnh giới của tự mình, hai là làm nhơn sanh khởi cho xúc .
Xúc cũng có hai thứ nghiệp : một là hay xúc cảnh sơ ên, hai là làm nhơn
sanh khởi cho thọ .
Thọ cũng có hai nghiệp : một là hay lãnh thọ các sự yêu ghét , hai là làm
nhơn sanh khởi cho ái .
Ái
cũng có hai nghiệp : một là nhiễm trước sự khả ái, hai là làm nhơn sanh
khởi cho thủ .
Thủ cũng có hai nghiệp : một là làm cho các phiền não nối tiếp, hai là làm
nhơn sanh khởi cho hữu .
Hữu cũng có hai nghiệp : một là hay làm cho sanh trong các loài, hai là
làm nhơn sanh khởi cho sanh .
Sanh cũng có hai nghiệp : một là hay khởi các uẩn, hai là làm nhơn sanh
khởi cho lão .
Lão cũng có hai nghiệp : một là làm cho các căn biến đổi, hai là làm nhơn
sanh khởi cho tử .
Tử
cũng có hai thứ nghiệp : một là hay làm hoại cách hành, hai là vì chẳng
giác tri nên nối tiếp chẳng dứt .
Chư Phật tử ! trong đây vô minh,duyên hành, nhẫn đến sanh duyên lão tử .Do
vô minh làm duyên, nhẫn đến sanh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử
chẳng dứt , vì nó trợ thành vậy .
Vô
minh diệt thời hành diệt, nhẫn đến sanh diệt thời lão tử diệt .Do vô minh
chẳng làm duên nhẫn đến sanh chẳng làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão
tử dứt diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy .
Chư Phật tử ! trong đây vô minh ái và thủ chẳng dứt là phiền não đạo .
Hành và hữu chẳng dứt là nghiệp đạo .Những phần khác chẳng dứt là khổ đạo.
Tiền tế hậu tế phân biệt dứt diệt thời ba đạo dứt diệt .
Ba
đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở, chỉ có sanh diệt dường như bó lau .
Lại vô minh duyên hành là quán quá khứ .Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại
. Ái nhẫn đến hữu là quán vị lai .Từ đây về sau xoay vần tiếp nối .
Vô
minh diệt, hành diệt, đó là quán chờ dứt diệt .
Lại mười hai hữu chi gọi là tam khổ .Trong đây vô minh , hành đến lục nhập
là hành khổ .Xúc , thọ là khổ khổ . Những chi khác là hoại khổ .
Vô
minh diệt, hành diệt đó là ba khổ dứt .
Lại vô minh duyên hành là vô minh làm nhơn hay sanh các hành .Các chi khác
cũng vậy .
Vô
minh diệt hành diệt đó là do không vô minh thời hành cũng không .Các chi
khác cũng không . Các chi khác cũng vậy .
Lại vô minh duyên hành đó là sanh phược .vô minh diệt hành diệt đó là diệt
hệ phược .Các chi khác cũng vậy .
Lại vô minh duyên hành đó là tùy thuận vô sở hữu quán .vô minh diệt hành
diệt đó là tùy thuận tận diệt quán .Các chi khác cũng vậy .
Chư Phật tử ! đại Bồ Tát quán nghịch thuận các duyên khởi có mười cách như
vậy là vì hữu chi nối tiếp , vì nhiếp tại nhứt tâm, vì tự nghiệp sai biệt
, vì tam đạo chẳng dứt , vì quán quá khứ, hiện tại, vị lai , vì ba khổ tụ
tập,vì nhơn duyên sanh diệt, vì sanh diệt hệ phược , vì vô sở hữu quán và
tận quán .
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng mười tướng như vậy quán các duyên khởi biết
là vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tánh không, chẳng có tác giả, không có
thọ giả, liền được môn không giải thoát hiện tiền .
Quán các hữu chi đều là tự tánh diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút
pháp tướng sanh, liền được môn vô tướng giải thoát hiện tiền .
Nhập không , vô tướng rồi, không nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo
hoá chúng sanh , liền được môn vô nguyện giải thoát hiện tiền .
Bồ
Tát tu ba môn giải thoát như vậy , lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng
thọ giả, lìa tưởng hữu vô
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này đại bi càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì
chưa viên mãn pháp Bồ đề phần nên làm cho viên mãn .
Bồ
Tát nghĩ rằng : tất cả hữu vi, có hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp
thời không chuyển. Duyên nhóm thời chuyển, duyên không nhóm thời chẳng
chuyển. Tôi biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như vậy , nay phải dứt nhơn
duyên hoà hiệp này . Nhưng vì phải thành tựu chúng sanh nên cũng chẳng dứt
các công hạnh .
Chư Phật tử ! Bồ Tát như vậy quán sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác,
không có tự tánh, không sanh không diệt mà hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng
sanh , liền được bát nhã ba la mật hiện tiền, gọi là vô chướng ngại trí
quang minh .
Thành tựu trí quang minh như vậy rồi, dầu tu tập Bồ đề phần nhơn duyên mà
chẳng trụ trong hữu vi, dầu quán pháp hữu vi tự tánh tịch diệt, cũng chẳng
trụ trong tịch diệt. Vì pháp Bồ đề phần chưa viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này, được nhập không tam muội,
tự tánh không tam muội, đệ nhứt không tam muội , hiệp không tam muội, khởi
không tam muội , như thiệt bất phân biệt không tam muội , bất xã ly không
tam muội .
Bồ
Tát này được mười môn không tam muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn
không tam muội đều hiện tiền cả .
Mười môn vô tướng không tam muội, mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm
đầu , kế đó trăm ngàn môn vô tướng, vô nguyện đều hiện tiền cả .
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực hiện tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất
khả hoại, tâm quyết định , tâm thuần thiện, tâm thậm thâm, tâm , tâm bất
thối chuyển, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm bất hưu tức,
tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm cầu trí, tâm phương tiện huệ tương ưng,
tất cả đều viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ Tát dùng mười tâm này thuận phật Bồ đề , chẳng sợ dị
luận, vào các trí địa, lìa đạo nhị thừa, thẳng đến Phật trí, các ma phiền
não không trở lại hư hoại được, trụ nơi Bồ Tát trí huệ quang minh. Trong
pháp không, vô tướng, vô nguyện đều khéo tu tập, trí huệ phương tiện luôn
chung tương ưng, pháp Bồ đề phần thường thật hành chẳng bỏ .
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ trong bực hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh
bát nhã ba la mật , được đệ tam minh lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không
trái với tướng như thiệt của các pháp .
Chư Phật tử ! Bồ tát đã an trụ nơi bực hiện tiền địa này, do nguyện lực
nên được thấy nhiều Ðức Phật , nhẫn đén thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức
Phật đều dùng tâm quãng đại, thâm tâm để cúng dường cung kính tôn trọng
tán thán, cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng
vô thượng Bồ đề .
Nơi Chư Phật ,Bồ Tát này cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như
thiệt tam muội trí huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ .
Lại được pháp tạng thậm thâm của Chư Phật . Trải qua vô lượng trăm ngàn ức
na do tha kiếp , những thiện căn đã có lại càng sáng sạch .
Ví
như chơn kim,. Dùng báu tỳ lưu ly luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch
.
Cũng vậy , Bồ Tát đệ lục địa này dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát,
những thiện căn đãđược càng thêm sáng sạch, càng thêm tịch diệt , hkông gì
che khuất được .
Ví
như ánh sáng của mặt trăng chiếu đến thân chúng sanh làm cho được mát mẽ,
bốn thứ phong luân không ngăn hoại được .
Cũng vậy, những thiện căn của bực Bồ Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền
não của vô lượng trăm ngàn ứu na do tha chúng sanh . Bốn thứ ma đạo không
phá hoại được
Trong mười môn ba la mật , Bồ Tát này thiên nhiều về bát nhã ba la mật,
ngoài ra tuỳ sức tuỳ phần tu các môn khác .
Chư Phật tử ! đây là lược nói về đại Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát
an trụ nơi bực này thường hiện làm thiện hóa thiên vương, việc làm tự tại.
Tất cả sự vấn nạn của hàng thanh văn không làm thối khuất được. Có thể làm
cho chúng sanh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm
phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết
chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : với tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, nhẫn đến bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức
tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị
hiện trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thị hiện tự tại thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na
do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi
Quán pháp vô tướng cũng vô tánh
Vô sanh vô diệt vốn thanh tịnh
Không có hỷ luân không thủ xả.
Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy
Hữu vô bất nhị rời phân biệt
Tùy thuận pháp tánh quán như vậy
Trí này được thành nhập Lục Ðịa.
Ðầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn
Quán sát thế gian tướng sanh diệt
Do sức si tối có thế gian
Si tối diệt mất không thế gian.
Quán các nhơn duyên không thiệt tánh
Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp dụng
Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ
Hành pháp như mây nổi khắp nơi .
Chẳng biết chơn đế gọi vô minh
Gây tạo tư : nghiệp,ngu si : quả .
Thức khởi sanh chung gọi là danh sắc ,
Như vậy nhẫn đến những khổ tụ,
Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm
Mười hai nhơn duyên cũng nương tâm
Sanh tử đều do tâm làm ra
Tâm nếu diệt dứt, sanh tử hết.
Vô minh công dụng có hai thứ :
Mê lầm sở duyên, làm thành nhơn,
Như vậy nhẫn đến lão và tử
Do đây quả khổ không cùng tận .
Vô minh làm duyên chẳng thể dứt,
Duyên đó nếu dứt tất cả dứt,
Ngu si, ái,thủ : phiền não chi
Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác : khổ.
Si đến lục nhập là hành khổ,
Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,
Còn những chi khác là hoại khổ,
Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.
Vô minh cùng hành thuộc quá khứ,
Thức đến xúc, thọ thuộc hiện tại
Ái, thủ, hữu sanh khổ vị lai.
Quán đãi nếu dứt : biên tế dứt .
Vô minh làm duyên : là sanh phược
Rời được nơi duyên phược mới hết
Từ nhơn sanh quả, lìa thời dứt,
Quán sát nơi đây biết tánh không .
Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi .
Nếu không tuỳ thuận ba cõi dứt,
Có đây có kia, không cũng vậy
Mười cách tư duy tâm lìa chấp.
Hữu chi tiếp nói nhiếp nhứt tâm
Tự nghiệp chẳng rời và tam đạo,
Tam tế, tam khổ nhơn duyên sanh
Hệ phược khởi diệt thuận vô tận ,
Như vậy , quán khắp pháp duyên khởi
Vô tác, vô thọ, không chơn thiệt
Như huyễn, như mộng, như bóng vang
Như kẻ ngu chay theo dương diệm.
Quán sát như vậy vào nơi không
Biết duyên tánh ly được vô tướng
Rõ pháp hư vọng không nguyện cầu
Chỉ có từ mẫn độ muôn loại.
Ðại sĩ tu hành môn giải thoát
Càng thêm đại bi cầu phật pháp
Biết các hữu vi hòa hiệp làm
Chí nguyện quyết định siêng hành đạo .
Môn không tam muội đủ trăm ngàn
Vô tướng, vô nguyện cũng như vậy
Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng
Giải thoát trí huệ được viên mãn .
Lại dùng thâm tâm cúng nhiều phật
Ở trong phật giáo tu tập đạo
Ðược Phật pháp tạng thêm thiện căn
Như vàng dùng lưu ly trau sáng .
Như trăng sáng mát lợi muôn loài .
Bốn phong luân không ngăn hoại được,
Bực Bồ Tát này siêu ma đạo
Dứt trừ phiền não cho quần sanh .
Bực này thường làm thiên hóa vương
Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn
Công hạnh đều cầu nhứt thiết trí
Ðều đã vượt hơn đạo Thanh văn .
Bồ Tát bực này siêng tinh tấn
Ðược môn tam muội trăm ngàn ức
Cũng thấy trăm ngàn ức đức phật
Ví như mặt nhựt ngày thạnh hạ .
Tậm thâm vi diệu khó thấy biết
Thanh văn, độc giác không rõ được
Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa
Tôi vì Phật tử đã lược nói .
Bấy giờ thiên chúng lòng hoan hỷ
Rải hoa thành mây dừng hư không
Khắp nơi pháp âm thanh diệu mầu
Thưa cùng đắng tối thắng thanh tịnh :
Rõ thấu thắng nghĩa trí tự tại
Thành tựu công đức trăm ngàn ức
Không chấp trước, như sen không nhiễm
Vì lợi chúng sanh nói thâm hạnh .
Tự tại Thiên Vương ở hư không .
Phóng đại quang minh chiếu thân phật
Cũng rải mây thơm tối thượng diệu
Cúng khắp đắng sạch trừ phiền não
Bấy giờ thiên chúng đều vui mừng .
Ðều phát tiếng hay đồng ca ngợi :
Chúng tôi được nghe hiện tiền địa
Thời là đã được nhiều lợi lành .
Thiên nữ lúc ấy lòng mừng vui
Cùng trổi âm nhạc ngàn muôn điệu
Ðều do thần lực của Như Lai
Trong tiếng hòa nhạc thành lời nói :
Oai nghi tịch tịnh không sánh kịp
Ðiều ngự chúng sanh đời nên cúng
Ðã siêu tất cả những thế gian
Mà vào thế gian truyền diệu đạo .
Dầu hiện nhiều loại vô lượng thân
Biết thân mỗi mỗi vô sở hữu
Khéo dùng ngôn từ nói các pháp
Chẳng chấp tướng văn tự âm thanh .
Qua đến trăm ngàn các quốc độ .
Dùng những thượng cúng cúng dường phật
Trí huệ tự tại không chấp trước
Chẳng sanh niệm tưởng cõi phật ta
Dầu siêng giáo hóa các chúng sanh .
Mà không nhơn ngã tất cả tâm
Dầu đã tu thành hạnh quảng đại
Mà nơi hạnh lành chẳng chấp trước .
Bởi thấy tất cả các thế gian
Lửa tham, sân, si thường cháy hực
Nơi các tưởng niệm thảy đều lìa
Phát khởi đại bi sức tinh tấn .
Tất cả chư thiên và thiên nữ
Cúng dường nhiều thứ khen ngợi rồi
Tất cả đồng thời đứng lặng yên
Chiêm ngưỡng thế tôn mong nghe pháp .
Giải thoát nguyệt vì chúng lại thưa :
Cả đại chúng đây lòng thanh tịnh
Những hành tướng trong đệ thất địa
Trông mong Bồ Tát thương giảng giải .
Kim cang tạng Bồ Tát nói với giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử
! đại Bồ Tát đã tròn đủ công hạnh của đệ lục địa muốn vào đệ thất viễn
hành địa, phải tu mười môn phương tiện huệ phát khởi đạo thù thắng .
Ðây là mười đạo thù thắng :
Dầu khéo tu không, vô tướng, vô nguyện tam muội mà từ bi chẳng bỏ chúng
sanh .Dầu được pháp bình đẳng của chư phật mà thích thường cúng dường
phật. Dầu nhập môn quán không trí mà siêng chứa phước đức .Dầu xa rời tam
giới mà trang nghiêm tam giới . Dầu rốt ráo dập tắt ngọn lửa phiền não mà
có thể vì tất cả chúng sanh khởi hạnh diệt tắt ngọn lửa phiền não tham,
sân, si. Dầu biết các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như
dương diệm, như biến hóa, như trăng dưới nước, như tượng trong gương, tự
tánh bất nhị, mà tuỳ tâm tác động vô lượng sai khác. Dầu biết tất cả quốc
độ dường như hư không mà hay dùng diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm phật
độ . Dầu biết pháp thân của Chư Phật bổn tánh không thân mà dùng tướng hảo
trang nghiêm thân mình . Dầu biết âm thanh của chư phật tánh không tịch
diệt chẳng thể ngôn thuyết, mà có thể tuỳ tất cả chúng sanh phát ra các
thứ âm thanh thanh tịnh sai khác.Dầu tùy Chư Phật rõ biết tam thế chỉ là
nhứt niệm, mà tùy ý giải sai biệt của chúng sanh , dùng các loại tướng,
các thứ thời gian , các thứ kiếp số để tu tập công hạnh .
Bồ
Tát dùng môn Phương tiện huệ phát khởi hạnh thù thắng này, từ đệ lục hiện
tiền địa vào đệ thất viễn hành địa. Lúc vào đệ thất địa rồi thời các hạnh
này thường hiện tiền, gọi là an trụ nơi đệ thất viễn hành địa.
Phật tử ! đại Bồ Tát an trụ đệ thất địa này rồi, thời vào vô lượng chúng
sanh giới, vào vô lượng công nghiệp giáo hóa chúng sanh của Chư Phật , vào
vô lượng thế giới võng, vào vô lượng quốc độ thanh tịnh của Chư Phật, vào
vô lượng pháp sai biệt, vào vô lượng hiện giác trí của Chư Phật, vào vô
lượng kiếp số, vào vô lượng trí giác liễu tam thế của Chư Phật, vào vô
lượng tín giải sai biệt của chúng sanh, vào vô lượng các loại thân danh
sắc của Chư Phật thị hiện, vào vô lượng căn tánh sở thích sai biệt của
chúng sanh, vào vô lượng ngữ ngôn âm thanh làm cho chúng sanh hoan hỷ của
chư phật,vào vô lượng các loại tâm hành của chúng sanh, vào vô lượng trí
rõ biết rộng lớn của Chư Phật, vào vô lượng tín giải của thinh văn thừa,
vào vô lượng trí đạo của Chư Phật dạy khiến tín giải, vào vô lượng pháp
thành tựu của bích chi phật, vào vô lượng môn terí huệ thâm thâm của chư
phật dạy khiến thẳng vào, vào vô lượng hạnh phương tiện của chư Bồ Tát,
vào vô lượng sự tập thành của đại thừa của Chư Phật dạy làm cho Bồ Tát
được vào .
Bồ
Tát này nghĩ rằng : vô lượng cảnh giới của Như Lai như vậy, nhẫn đến trăm
ngàn ức na do tha như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể
biết được .Tôi đều phải dùng tâm vô công dụng, vô phân biệt để thành tựu
viên mãn .
Chư Phật tử ! Bồ tát này dùng thâm trí huệ quán sát như vậy .Thường siêng
tu tập Phương tiện huệ khởi đạo thù thắng an trụ bất động, không một niệm
thôi nghỉ phế bỏ. Ði, đứng, ngồi, nằm, nhẫn đến lúc ngũ chiêm bao cũng
chưa từng tương ưng với cái chướng. Luôn không hề bỏ những quán niệm trên
đây.
Trong mỗi niệm, Bồ Tát này thường có thể đầy đủ mười ba la mật.
Tại sao vậy ? vì mỗi niệm, Bồ Tát này đều lấy đại bi làm trước để tu hành
Phật pháp hướng đến phật trí. Những thiện căn đã có đều vì cầu phật trí mà
bố thí cho chúng sanh, đây gọi là đàn ba la mật. Hay diệt trừ những lửa
phiền não, đây gọi là thi la ba la mật. Từ bi làm dđầu không tổn hại chúng
sanh, đây gọi là sằn đề ba la mật. Cầu pháp thắng thiện không nhàm đủ, đây
gọi là tỳ lê gia ba la mật. Nhứt thiết trí đạo thường hiện tiền chưa từng
tán loạn, đây gọi là thiền na ba la mật. Hay nhẫn thọ các pháp bất sanh
bất diệt, đây gọi là bát nhã ba la mật. Hay xuất sanh vô lượng trí, đây
gọi là phương tiện ba la mật, hay cầu thượng thượng thắng trí, đây gọi là
nguyện ba la mật. Tất cả dị luận và các ma chúng không trở hoại, đây gọi
là lực ba la mật. Rõ biết các pháp đúng thật đây gọi là trí ba la mật.
Chư Phật tử ! mười môn ba la mật này, trong mỗi niệm Bồ Tát đều đã đầy đủ
.
Cũng vậy, bốn nhiếp pháp, bốn pháp trì, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn
giải thoát, lược nói nhẫn đến tất cả pháp Bồ đề phần, trong mỗi niệm, Bồ
Tát này đều viên mãn cả.
Bấy giờ giải thoát nguyện Bồ Tát hỏi kim cang tạng Bồ Tát rằng : thưa Phật
tử ! Bồ Tát chỉ ở trong đệ thất địa này đầy đủ tất cả pháp Bồ đề phần, hay
là trong các địa cũng có thể đầy đủ ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! Bồ Tát ở trong mười địa đều có
thể đầy đủ pháp Bồ đề phần, nhưng đệ thất địa thù thắng hơn.
Tại sao vậy ? vì đệ thất địa công dụng viên mãn thời được vào trí huệ tự
tại hạnh.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở trong bực sơ địa vì duyên tất cả Phật pháp để
nguyện cầu nên đây đủ pháp Bồ đề phần. Vì đệ nhị địa lìa tâm cấu nhơ. Vì
đệ tam địa nguyện cầu càng tăng trưởng được pháp quang minh. Vì đệ tứ địa
nhập đạo. Vì đệ ngũ địa thuận thế gian mà tu tập. Vì đệ lục địa nhập pháp
môn thậm thâm. Vì đệ thất địa phát khởi tất cả Phật pháp. Tất cả địa đều
cũng đầy đủ pháp Bồ đề phần .
Tại sao vậy ? Bồ Tát từ sơ địa đến đệ thất địa thành tựu trí công dụng
phần. Do công lực này, từ đệ bát địa đến đệ thập địa vô công dụng hạnh đều
được thành tựu .
Chư Phật tử ! ví như có hai thế giới : một thời tạp nhiễm, một thời thuần
tịnh. Chặng giửa của hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bực Bồ Tát có
đại thần thông phương tiện nguyện lực.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở các địa cũng như vậy : có tạp nhiễm hạnh, có thanh
tịnh hạnh. Chẳng giửa của hai hạnh này khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại
nguyện lực Phương tiện trí huệ mới có thể qua được .
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! bảy địa Bồ Tát này là nhiễm
hạnh hay là tịnh hạnh ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! từ sơ địa đến thất địa, công
hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng vô thượng Bồ đề , vì
phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa gọi là hạnh siêng phiền não.
Chư Phật tử ! như chuyển luân thánh vương ngự tượng bửu du hành tứ thiên
hạ, biết có người bần cùng khốn khố嬠mà không bị lây những sự hoạ hoạn đó,
nhưng chưa được gọi là siêu nhơn loại. Nếu bỏ thân chuyển luân vương sanh
lên trời phạm thế, ngự thiên cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế
giới, thị hiện quang minh oai đức của phạm thiên mới gọi là siêu nhơn loại
.
Chư Phật tử ! Bồ tát cũng như vậy. Ban đầu từ bực sơ địa đến bực đệ thất
địa, ngự xe ba la mật du hành thế gian , biết quá hoạn phiền não của thế
gian. Vì ngự chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm,
nhưng chưa gọi là siêu phiền não hạnh. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng,
tư đệ thất địa vào đệ bát địa, ngự xe Bồ Tát, thanh tịnh du hành thế gian,
biết phiền não lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là siêu phiền não hạnh,
vì được siêu quá hết tất cả
Chư Phật tử ! Bồ tát đệ thất địa này siêu quá hết những phiền não đa tham,
đa sân v.v … mà an trụ. Bực này chẳng gọi là có phiền não, cũng chẳng gọi
là không phiền não .
Tại sao vậy ? vì ở bực này, tất cả phiền não chẳng hiện hành nên gọi chẳng
gọi là có. Vì cầu phật trí tâm chưa mãn toại nên chẳng gọi là không.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa dùng tâm thâm tịnh mà thành
tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp và thành tựu ý nghiệp. Tất cả những nghiệp đạo
bất thiện bị phật quở trách đều đã lìa bỏ. Tất cả thiện nghiệp mà Phật
khen thời thường khéo tu hành . Tất cả kinh, thơ, kỷ thuật của thế gian
như đã nói ở đệ ngũ địa đều tự nhiên thật hành thông thạo chẳng cần dụng
công.
Bồ
Tát ở trong đại thiên thế giới làm đại minh sư. Chỉ trừ đức Như Lai và từ
đệ bát địa trở lên, thâm tâm diệu hạnh của các Bồ Tát khác đều không bằng
được.
Ở
bực này, những thiền tam muội, thần thông giải thoát đều được hiện tiền.
Nhưng là do tu tập mà thành, chẳng phải báo đắc thành như bực đệ bát địa.
Bực Bồ Tát này trong mỗi niệm tu tập đầy đủ Phương tiện trí lực, và tất cả
pháp Bồ đề phần đều càng viên mãn hơn.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực này nhập tam muội Bồ Tát thiện quán trạch,
tam muội thiện trạch nghĩa, tam muội tối thắng huệ tam muội phân biệt
nghĩa tạng, tam muội như thiệt phân biệt nghĩa, tam muội thiện trụ kiên cố
căn, tam muội trí huệ thần thông môn, tam muội pháp giới nghiệp, tam muội
Như Lai thắng lợi, tam muội chủng chủng nghĩa tạng sanh tử Niết Bàn môn.
Nhập trăm ngàn tam muội đầy đủ môn đại trí thần thông như vậy, tu tập
thanh tịnh các trí địa.
Vì
Bồ Tát này được nhập các tam muội trên đây khéo tu tập thanh tịnh phương
tiện huệ, đại bi lực nên vượt hơn bực nhị thưa, được qán sát trí huệ địa.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực này khéo tu tịnh vô lượng thân nghiệp vô
tướng hành, ý nghiệp vô tướng hành nên được quang minhvô sanh pháp nhẫn.
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ sơ địa đến bực này
có vô lượng thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp há chẳng vượt hơn háng nhị
thừa ư ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa phật tử ! các bực đó đều vượt hơn, nhưng
chỉ là do nguyện cầu Phật pháp, chẳng phải là sức tự trí quán sát. Nay
trong bực đệ thất địa này do tự trí lực nên tất cả nhị thừa chẳng kịp
được.
Ví
như vương tử sanh ở cung vua, do vương hậu sanh có đủ vương tướng. Khi
sanh ra thời đã hơn tất cả các quan, nhưng chỉ do đức lực của nhà vua chớ
chẳng phải tự lực, khi thân trưởng thành, toàn vẹn tất cả nghề nghiệp oai
đức, thời mới là do tự lực mà hơn tất cả thần dân.
Ðại Bồ Tát cũng vậy. Lúc sơ pháp tâm, do vì chí cầu đại pháp nên vượt hơn
tất cả Thanh văn, duyên giác.Nay an trụ bực đệ thất địa do tự lực trí huệ
nên vượt lên trên tất cả nhị thừa.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ bực đệ thất địa này được viễn ly vô hành thậm
thâm, thường tu hành thân, khẩu, ý, siêng cầu đạo vô thượng chẳng bỏ rời.
Thế nên Bồ Tát này dầu đi nơi thiệt tế mà chẳng tác chứng .
Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ địa nào lên đến
địa nào có thể nhập được diệt định ?
Kim cang tạng Bồ Tát nói : thưa Phật tử ! Bồ Tát từ đệ lục địa trở lên có
thể nhập diệt định. Nay an trụ nơi đệ thất địa này thời có thể mỗi niệm
nhập diệt định, cũng mỗi niệm xuất, nhưng không tác chứng.Thế nên Bồ Tát
này gọi là thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp bất tư nghì, đi nơi thiệt tế mà
chẵng tác chứng.
Ví
như có người ngồi thuyền vào biển, do sức thiện xảo nên không bị tai nạn.
Cũng vậy Bồ Tát ở bực này ngồi thuyền ba la mật đi trong biển thiệt tế, do
nguyện lực nên chẳng chứng diệt.
Chư Phật tử ! Bồ tát này được tam muội trí lực như vậy, do đại phương
tiện, dầu thị hiện sanh tử mà luôn trụ Niết Bàn, dầu quyết thuộc vây quanh
mà thường thích xa lìa, dầu do nguyện lực thọ sanh trong ba cõi mà chẳng
nhiễm thế pháp, dầu thường tịch diệt do sức phương tiện mà lại phừng cháy,
dầu đốt nhưng chẳng cháy, dầu tùy thuận phật trí mà thị hiện vào bực thanh
văn bích chi phật, dầu được phật cảnh giới mà thị hiện ở cảnh giới ma, dầu
thị hiệnđồng với ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật pháp,dầu thị hiện tùy thuận
tất cả thế gian mà thường thật hành tất cả pháp xuất thế.
Bồ
Tát này chỗ có tất cả sự trang nghiêm vượt hơn tất cả sự trang nghiêm của
trời, rồng, bát bộ, người, phi nhơn. Tứ thiên vương , đế thích chánh pháp.
Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy trụ bực viễn hành địa do
nguyện lực nên được thay nhiều đức phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do
tha Ðức Phật, đều kính trọng tán thán cúng dường với tâm quãng đại, tâm
tăng thắng.Cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng
vô thượng Bồ đề. Lại ở chổ chư phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ
trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tùy thuận tu hành hộ trì
chánh pháp. thường được Chư Phật hoan hỷ khen ngợi. Hàng nhị thừa không
thể vấn nạn làm thua được.Bồ Tát này làm lợi ích chúng sanh pháp nhẫn
thanh tịnh. Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp những
thiện căn đã có càng thêm tăng thắng.
Ví
như chơn kim, dùng các thứ châu báu cẩn xen vào càng làm cho chơn kim sáng
chói hơn, những vật trang nghiêm khác không thể sánh được.
Những thiện căn của Bồ Tát đệ thất địa này cũng như vậy, do sức phương
tiện huệ càng sáng sạch hơn, chẳng phải hàng nhị thừa sánh kịp được.
Chư phật tử ! ví như ánh sáng mặt trời,những ánh sáng của trăng sao
v.v…đều không sánh được. Những chổ sình lầy nơi đại địa, ánh sáng mặt trời
có thể làm khô ráo
Bồ
Tát viễn hành địa này cũng như vậy, tất cả hàng nhị thừa không khéo kịp,
được có thể làm cạn khô sình lầy phiền não của tất cả chúng sanh .
Bồ
Tát này thiên nhiều về Phương tiện ba la mật. Chín môn ba la mật kia thời
tùy sức tùy phần mà tu tập.
Chư Phật tử ! Ðây là lược nói đại Bồ Tát Ðệ Thất Viễn Hành Ðịa.
Bồ
Tát an trụ bực này thường làm tự tại Thiên Vương, khéo vì chúng sanh mà
nói pháp chứng trí, khiến họ chứng nhập.
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng
trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh làm thượng thủ,
là thắng, nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu phát cần tinh tấn, thời trong khoảng một niệm được trăm ngàn
ức na do tha tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát để
làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn
đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Ðệ nhứt nghĩa trí tam muội đạo
Lục Ðịa tu hành tâm đầy đủ
Tức thời thành tựu phương tiện huệ
Bồ Tát dùng đây vào Thất Ðịa.
Dầu chứng tam thoát nhưng từ bi,
Dầu đồng Như Lai nhưng cúng Phật,
Dầu quán không nhưng chứa phước đức
Bồ Tát do đây lên Thất Ðịa.
Xa rời tam giới mà trang nghiêm,
Dứt trừ lửa phiền mà khởi lửa,
Biết pháp bất nhị nhưng siêng tu
Rõ cõi không hư mà nghiêm độ,
Hiểu thân bất động, đủ các tướng,
Thấu thinh tánh ly, khéo khai diễn,
Thâm nhập nhứt niệm, hành nhiều việc,
Bực trí do đây lên Thất Ðịa.
Quán sát pháp này được rõ ràng
Rộng vì chúng sanh làm lợi ích,
Vào chúng sanh giới không biên tế
Công nghiệp giáo hóa cũng vô lượng.
Quốc độ, các pháp cùng kiếp số
Giải, dục, tâm hành đều hay vào
Thuyết pháp tam thừa cũng vô hạn
Như thế giáo hóa các quần sanh.
Bồ Tát siêng cầu đạo tối thắng
Ðộng nghĩ, chẳng bỏ phương tiện huệ
Mỗi mỗi hồi hướng Phật Bồ đề
Niệm niệm thành tựu Ba la mật.
Phát tâm hồi hướng là bố thí,
Dứt hoặc là giới, chẳng hại : nhẫn,
Cầu lành không nhàm là tinh tấn,
Nơi đạo chẳng động tức tu thiền,
Nhẫn thọ vô sanh là Bát Nhã,
Hồi hướng phương tiện là nguyện độ,
Không bị phá : lực, khéo rõ : trí,
Thập độ như vậy đều thành mãn,
Sơ Ðịa phan duyên công đức đủ,
Nhị Ðịa Ly Cấu tam nghiệp tịnh,
Tứ Ðịa nhập đạo, Ngũ thuận hành,
Ðệ Lục vô sanh trí quang chiếu,
Ðệ Thất Bồ đề công đức toàn
Tất cả đại nguyện đều đầy đủ,
Do đây hay khiến bực nhập Ðịa
Tất cả c⮧ hạnh đều thanh tịnh.
Ðịa này khó qua, trí mới siêu
Ví như chặng giữa hai thế giới
Cũng như Thánh Vương không lây nghèo
Nhưng chưa được gọi : Tổng siêu độ.
Nếu trụ trong Ðệ Bát Trí Ðịa
Mới là vượt qua tâm cảnh giới
Như Phạm Thiên Vương siêu nhơn loại
Như sen ở nước chẳng tanh bùn.
Ðệ Thất dầu siêu các phiền não
Chẳng gọi có hay không phiền não
Chẳng có vì không hoặc hiện hành
Chẳng không vì tâm cầu Phật trí.
Bao nhiêu kỷ nghệ ở thế gian
Kinh sách từ luận đều rành cả
Thiền định, tam muội và thần thông
Tất cả tu hành đều thành tựu.
Bồ Tát tu hành đạo Thất Ðịa
Vượt hơn tất cả hạnh Nhị thừa,
Sơ Ðịa nguyện thành, đây do trí,
Ví như Vương tử đủ oai lực,
Thành tựu thậm thâm vẫn tiến tu
Tâm tâm tịch diệt chẳng tác chứng
Ví như ngồi thuyền vào trong biển
Ở nước chẳng bị nước nhận chìm.
Phương tiện huệ hành đủ công đức
Tất cả thế gian không rõ được
Cúng dường nhiều Phật tâm càng sáng
Như dùng diệu bửu trang nghiêm vàng.
Thất Ðịa Bồ Tát trí rất sáng
Như sáng mặt trời khô nước ái
Thường làm Tự Tại vua cõi Trời
Hóa đạo quần sanh tu chánh trí.
Nếu do dũng mãnh tinh tấn lực
Ðược nhiều tam muội thấy nhiều Phật
Trăm ngàn ức số na do tha
Nguyện lực tự tại lại hơn đây.
Ðây là Bồ Tát Viễn Hành Ðịa
Phương tiện trí huệ thanh tịnh đạo
Tất cả thế gian trời và người
Thanh văn, độc giác không biết được.
(Hán bộ quyển 38)
Bấy giờ Thiên Vương và thiên chúng
Nghe thắng hạnh này đều hoan hỷ
Vì muốn cúng dường lên Như Lai
Và cùng đại chúng chư Bồ Tát,
Rải hoa, tràng hoa, phan, tràng, lọng,
Hương thơm chuổi ngọc và bửu y,
Vô lượng , vô biên ngàn vạn thứ
Ðều dùng ma ni để nghiêm sức.
Thiên nữ đồng thời tấu thiên nhạc.
Khắp phát các thứ diệu âm thanh
Cúng dường cho phật và Phật tử
Ðồng nói lời này để tán thán:
Phước trí viên mãn thấy tất cả
Phật thương chúng sanh hiện thần lực,
Khiến cho thứ thiên nhạc trên không
Phát diệu âm thanh khắp được nghe.
Trong một chân long trăm ngàn ức
Na do tha cõi vi trần số
Vô lượng Như Lai như vậy thấy
An trụ trong đó thuyết diệu pháp
Trong một chân lông vô lượng cõi
Ðều có bốn châu và đại hải
Tu di, thiết vi và bửu sơn
Ðều thấy ở trong, không chặt hẹp.
Chổ một chân lông có sáu loài:
Ba loài ác đạo và trời, người
Các chúng long thần, a tu la
Ðều theo tự nghiệp thọ quả báo.
Nơi trong tất cả cõi nuớc kia
Ðều có Như Lai diễn diệu âm
Tuỳ thuận tất cả tâm chúng sanh
Vì chuyển tối thượng tịnh pháp luân.
Trong cõi các loài thân chúng sanh
Trong thân lại có các loại cõi
Trời người các loài đều riêng khác
Phật đều biết rồi đem giảng dạy.
Cõi lớn tùy niệm biến thành nhỏ
Cõi nhỏ tùy niệm cũng biến lớn
Thần thông như vậy số vô lượng
Thế gian chung kể không thể hết.
Khắp pháp diệu âm vô lượng tiến
Ca ngợi Như Lai công đức rồi
Chúng hội hoan hỷ ngồi yên lặng
Nhứt tâm chiêm nguỡng muốn nghe pháp.
Ngài giải thoát nguyệt lại thưa rằng:
Nay đây chúng hội đều tịch tịnh
Mong giải thích hành tướng thứ đệ
Nhập đệ bát bất động trí địa.
Kim cang tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử !
đại Bồ Tát ở trong thất viễn hành địa, khéo tu tập phương tiện huệ, khéo
thanh tịnh các đạo, khéo tu tập pháp trợ đạo, do đại nguyện lực nhiếp trì,
được phật lực gia hộ, tự thiện lực giử gìn, thường tưởng nhớ, lực, vô úy,
bất cộng của Như Lai, khéo thanh tịnh thâm tâm tự giác, có thể thành tựu
phước đức trí huệ, đại từ đại bi chẳng bỏ chúng sanh,vào vô lượng trí đạo,
vào tất cả pháp bổn lai vô sanh, vô khởi, vô tướng, vô thành, vô hoại, vô
chuyển, vô tánh, lay đây làm tánh ba thuở sơ, trung, hậu thảy đều bình
đẳng vô phân biệt, là chổ nhập của như như trí, lìa tất cả tưởng phân biệt
tâm ý thức, không chổ chấp lấy dường như hư không, vào tất cả pháp như
tánh hư không, đây gọi là được vô sanh pháp nhẫn.
Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu nhẫn này liền được nhập đệ bát bất động
địa.
Bực này là thâm hạnh Bồ Tát, khó biết được, vô sai biệt. Lìa tất cả tướng,
tất cả tưởng,tất cả chấp trước. Vô lượng vô biên tất cả thanh văn, bích
chi phật không thể kịp được.
Bực này xa lìa những huyên náo tránh luận, tịch diệt thường hiện tiền.
Ví
như tỳ kheo đầy đủ thần thông được tâm tự tại tuần tự nhẫn đến nhập diệt
tận định, tất cả động tâm ức tưởng phân biệt thảy đều dừng dứt.
Ðại Bồ Tát này cũng như vậy, trụ động địa liền bỏ tất cả công dụng hạnh,
được pháp vô công dụng, thân, khẩu, ý nghiệp niệm sự đều dứt, trụ nơi báo
hạnh.
Ví
như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn
nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại
phương tiện nên liền được thức tỉnh. Khi đã thức giấc thời những việc làm
trong giấc mơ liền dứt cả.
Cũng vậy, Bồ Tát thấy thân chúng sanh ở trong tứ lưu, vì cứu họ mà phát
đại dũng mãnh khởi đại tinh tấn. Do dũng mãnh tinh tấn nên đến bực bất
động địa này. Ðã đến bực này tất cả công dụng đều dứt cả. Hành tướng của
hai hạnh đều chẳng hiện tiền.
Chư Phật tử ! như sanh trời phạm thế, những phiền não của dục giới đều
chẳng hiện tiền.
Bồ
Tát trụ bất động địa cũng như vậy, tất cả tâm ý thức đều chẳng hiện tiền.
Ðại Bồ Tát này còn chẳng hiện khởi tâm Bồ Tát, tâm phật, tâm Bồ đề, tâm
Niết Bàn, huống là còn khởi tâm thế gian .
Chư Phật tử ! Bồ tát này do sức bổn nguyện nên chư phật thế tôn đích thân
hiện ra trước mặt ban cho Như Lai trí, khiến bực này được vào trong môn
pháp lưu. Chư Phật bảo ! trí nhẫn này đệ nhứt thuận các Phật pháp. nhưng
này thiện nam tử ! thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng của chư phật, nay
ông chưa được. Ông phải vì được thành tựu những Phật pháp ấy mà phát khởi
tinh tấn, chớ có bỏ nơi môn trí nhẫn này.
Lại này thiện nam tử ! ông đầu được tịch diệt giải thoát, nhưng hàng phàm
phu chưa chứng được, họ còn đủ các thứ phiền não, bị các thứ giác quán xâm
hại nhau.ông phải thương những chúng sanh đó.
Lại này thiện nam tử ! ông phải nhớ lại bổn thệ nguyện làm lợi ích khắp
tất cả chúng sanh đều làm cho họ được vào môn trí huệ bất tư nghì.
Lại này thiện nam tử ! những pháp,pháp tánh này, hoặc phật xuất thế hay
không xuất thế, luôn thường trụ không khác. Chư Phật chẳng do được pháp
này mà gọi là Như Lai. Tất cả hàng nhị thừa cũng có thể được pháp vô phân
biệt này.
Lại này thiện nam tử ! ông xem Chư Phật chúng ta đây : thân tướng vô lượng
trí huệ vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô
lượng.Ông phải thành tựu những pháp này.
Này thiện nam ử ! nay ông vừa được một pháp minh này, chính là tất cả pháp
vô sanh phân biệt.
Này thiện nam tử ! pháp minh của Như Lai vô lượng nhập, vô lượng tác, vô
lượng chuyển, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được.
Ông phải tu hành thành tựu pháp này.
Này thiện nam tử ! ông quán mười phương vô lượng quốc độ chúng sanh, vô
lượng pháp, khác nhau vô lượng, đều phải thông đạt tất cả đúng như thiệt.
Chư Phật tử ! Chư Phật thế tôn trao cho Bồ Tát này vô lượng môn khởi trí
như vậy, khiến Bồ Tát này có thể khởi vô lượng vô biên trí nghiệp sai biệt
.
Chư Phật tử ! nếu Chư Phật chẳng ban môn khởi trí này cho Bồ Tát, thời Bồ
Tát này liền nhập cứu cánh Niết Bàn rời bỏ tất cả công hạnh, lợi ích chúng
sanh .
Do
Chư Phật ban vô lượng vô biên khởi trí môn như vậy nên khoảng một niệm Bồ
Tát này phát sanh trí nghiệp, đem công đức hạnh tu hành trí nghiệp, đem
công hạnh tu hành từ sơ phát tâm đến bực đệ thất địa để so sánh thời trăm
phần không bằng một, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha phần không bằng một,
vô số phần, ca la phần, phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu ba ni sa đà
phần cũng chẳng bằng một.
Tại sao vậy ? Chư Phật tử ! Bồ Tát này trước kia dùng một thân khởi hạnh.
Nay trụ bực này được vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vì làm cho tất cả
chúng sanh, vô lượng trí huệ, vô lượng thọ sanh, vô lượng tịnh quốc, giáo
hoá vô lượng chúng sanh, cúng dường vô lượng Chư Phật, nhập vô lượng pháp
môn, đủ vô lượng thần thông, có vô lượng chúng hội đạo tràng sai biệt, trụ
vô lượng thân, ngữ, ý, nghiệp, tập họp tất cả hạnh Bồ Tát. Vì do pháp bất
động vậy.
Chư Phật tử ! ví nhu ngồi thuyền buồm muốn vào biển lớn. khi chưa đến thời
phải dùng nhiều công lực. Nếu đã đến biển chỉ theo gió mà thuyền đi chẳng
cần nhơn lực. Ðem sự thuyền đi khi chưa đến biển sánh sao kịp với lúc đã
vào biển.
Cũng vậy, đại bồ tát chứa nhóm tư lương thiện căn rộng lớn, ngồi thuyền
đại thừa đến biển Bồ Tát hạnh. Trong khoảng một niệm dùng trí vô công dụng
nhập cảnh giới nhứt thiết chủng trí. Những hạnh hữu công dụng trước kia
dầu trãi qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng sánh kịp được.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ bát địa dùng trí đại phương tiện thiện
xảo, phát khởi vô công dụng giác huệ quán cảnh sở hành nhứt thiết chủng
trí. Như là quán thế gian thành, thế gian hoại, do nghiệp này họp mà
thành, do nghiệp này hết hoại, bao nhiêu thời gian thành, bao nhiêu thời
gian hoại, bao nhiêu thời gian thành trụ, bao nhiêu thời gian hoại trụ,
đều biết đúng như thiệt. Lại rõ biết địa giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô
lượng tướng, sai biệt tướng. Biết thủy, hỏa, phong giới nhỏ lớn v.v… cũng
như vậy.biết vi trần tướng vi tế, tướng sai biệt, vô lượng tướng sai biệt.
Tùy trong thế giới nào có nhóm vi trần và vi trần tướng sai biệt đều biết
như thiệt. Tùy trong thế giới nào có bao nhiêu địa, thủy, hoả, phong giới
đều có bao nhiêu vi trần, thân chúng sanh có bao nhiêu vi trần, thân quốc
độ có bao nhiêu vi trần đều biết như thiệt. Biết thân lớn thân nhỏ của
chúng sanh đều có bao nhiêu vi trần thành. Biết thân địa ngục, thân súc
sanh, thân ngạ quỷ, than a tu la, thân trời người đều có bao nhiêu vi trần
họp thành. Ðược trí biết vi trần sai biệt như vậy. Lại biết dục giới, sắc
giới, vô sắc giới thành, dục, sắc, vô sắc giới hoại. Biết dục, sắc, vô sắc
giới tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt. Ðược trí quán
tam giới sai biệt như vậy .
Chư Phật tử ! Bồ tát này lại khởi trí minh giáo hoá chúng sanh. Như là
khéo biết thân sai biệt của chúng sanh, khéo phân biệt thân chúng sanh,
khéo quán sát chổ sanh ra, tuỳ chổ đáng độ mà hiện thân giáo hoá cho họ
được thành thục.
Bực Bồ Tát này nơi tam thiên đại thiênthế giới, tùy chúng sanh thân tín
giải sai khác, dùng trí quang minh khắp hiện thọ sanh. Như thế hoặc hai
hoặc ba nhẫn đến trăm ngàn cho đến bất khả thuyết đại thiên thế giới, tùy
chúng sanh thân tín giải sai khác thị hiện thọ sanh khắp trong đó.
Vì
Bồ Tát này thành tựu trí huệ như vậy nên ở nơi một cõi phật, thân ngài bất
động, nhẫn đến trong chúng hội ở bất khả thuyết cõi Phật đều hiện có thân
ngài.
Chư Phật tử ! Bồ tát này các chúng sanh thân tâm tín giải các loại sai
khác, ở trong chúng hội của cõi Phật đó mà hiện thân. Như là ở trong chúng
sa môn thời thị hiện thân sa môn. Trong chúng bà la môn thời thị hiện thân
bà la môn. Trong chúng sát lợi thời thị hiện thân sát lợi. Như vậy trong
chúng tỳ xá, thủ đà, cư sĩ, tứ thiên vương, đao lợi thiên, dạ ma thiên,
đâu suất thiên, hoá lạc thiên, tha hoá tự tại thiên, ma vương chúng, phạm
thiên chúng nhẫn đến chúng sắc cứu cánh thiên, đều theo chúng ấy mà tu
hiện thân.
Lại người đáng được độ bởi thân thanh văn thời Bồ Tát này hiện thân thanh
văn. Người đáng được độ bởi thân bích chi phật thời hiện thân bích chi
phật.người đáng được độ bởi thân Bồ Tát thời hiện thân Bồ Tát. Người đáng
độ bởi thân phật thời hiện thân Phật .
Chư Phật tử ! Bồ tát này ở trong tất cả thân tướng sai biệt, trụ nơi bình
đẳng .
Bồ
Tát này biết thân chúng sanh, thân quốc độ, thân nghiệp báo, thân thanh
văn, thân độc giác, thân Bồ Tát, thân Như Lai, trí thân, pháp thân,hư
không thân.
Bồ
Tát này biết tâm sở thích của các chúng sanh, có thể dùng thân chúng sanh
làm thân mình, cũng làm thân quốc độ, thân nghiệp báo nhẫn đến thân hư
không.
Lại biết tâm sở thích của các chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy quốc độ
thân làm thân mình, cũng làm thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân
nghiệp báo, nhẫn đến thân hư không.
Lại biết tâm sở thích của chúng sanh, Bồ Tát này có thể lấy thân nghiệp
báo làm thân mình, cũng làm thân chúng sanh, thân quốc độ nhẫn đến thân hư
không .
Lại biết tâm sở thích của chúng sanh, có thể lấy tự thân làmthân chúng
sanh, thân quốc độ, nhẫn đến thân hư không.
Tùy tâm sở thích của chúng sanh chẳng đồng, nên ở nơi thân này, Bồ Tát
hiện những thân như vậy .
Bồ
Tát này biết chúng sanh : thân tập nghiệp, báo thân, phiền não thân, sắc
thân, vô sắc thân. Lại biết thân quốc độ : tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô
lượng, tướng nhiễm, tướng tịnh , tướng rộng, tướng đảo trụ, tướng chánh
trụ, tướng phổ nhập, tướng phương võng sai biệt.
Biết thân nghiệp báo là giả danh sai biệt. Biết thân thanh văn, thân độc
giác, thân Bồ Tát là giả danh sai biệt.
Biết thân Như Lai có Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực trì thân,
tướng hảo trang nghiêm thân,ý sanh thân, phước đức thân, pháp thân, trí
thân.
Biết trí thân tướng khéo suy lường, tướng quyết đoáng thânđúng thiết,
tướng nhiếp về quả hành, tướng sai biệt của thế gian và xuất thế gian,
tướng sai biệt của tam thừa, cộng tướng, bất cộng tướng, xuất ly tướng,
học tướng, vô học tướng.
Biết pháp thân tướng bình đẳng, tướng bất hoại, tướng tùy thời tùy tục giả
danh sai biệt, tướng chúng sanh phi chúng sanh pháp sai biệt, tướng phật,
pháp, tăng sai biệt.
Biết thân hư không tướng vô lượng tướng châu biến, tướng vô hình, tướng vô
dị, tướng vô biên, tướng hiển hiện sắc thân
Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu thân trí như vậy rồi, được mạng tự tại, tâm
tự tại, tài tựtại, nghiệp tự tại, sanh tự tại, nguyện tự tại, giả tự tại,
như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại .
Vì
được mười môn tự tại này, thời là bực trí bất tư nghì, bực trí vô lượng,
bực trí quãng đại, bực trí vô năng hoại.
Bồ
Tát này nhập như vậy rồi, thành tựu như vậy rồi thời được thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp rốt ráo không lỗi. Thân ngữ ý luôn hiện hành theo
trí. Bát nhã ba An Lạc mật tăng thượng, đại bi làm đầu, phương tiện thiện
xảo, khéo hay phân biệt,khéo khởi đại nghuyện, Phật lực gia hộ, thường
siêng tu tập trí lợi ích chúng sanh, ở khắp vô biên thế giới sai khác.
Chư Phật tử ! tóm lại, Bồ Tát an trụ bực đệ bát bất động địa này, thân,
ngữ, ý có chổ làm, đều có thể chứa họp tất cả Phật pháp .
Chư Phật tử ! Bồ tát này được khéo trụ thâm tâm vì tất cả phiền não chẳng
hiện hành. Ðược khéo trụ thắng tâm lực vì chẵng rời nơi đạo. Ðược khéo trụ
đại bi lực vì chẳng bỏ lợi ích chúng sanh. Ðược khéo trụ từ lực vì cứu hộ
tất cả thế gian. Ðược khéo trụ đà la ni lực vì chẳng quên nơi pháp, được
khéo trụ biện tài lực vì khéo quán sát phân biệt tất cả pháp. Ðược khéo
trụ thần thông lực vì qua khắp vô biên thế giới. Ðược khéo trụ thần thông
lực vì qua khắp vô biên thế giới. Ðược khéo trụ đại nguyện lực vì chẳng bỏ
công hạnh của Bồ Tát. Ðược khéo trụ ba la mật lực vì thành tựu tất cả Phật
pháp. được Như Lai hộ niệm lực vì Nhứt thiết chủng trí hiện tiền.
Bồ
Tát này được trí lực như vậy, có hiện tất cả việc làm, trong công việc
không có lỗi lầm.
Chư Phật tử ! trí địa của Bồ tát này gọi là bất động địa không bị trở
hoại. Gọi là bất thoái chuyển địa vì trí huệ bất thối. Gọi là nan đắc vì
tất cả thế gian không lường được. Gọi là đồng chơn địa lìa tất cả lỗi lầm.
Gọi là sanh địa vì tùy thích tự tại. Gọi là thành địa vì không còn sở
tác.gọi là cứu cánh địa vì trí huệ quyết định. Gọi là biến hoá địa vì tùy
nguyện thành tựu. Gọi là lực trì địa vì người khác chẳng làm động được.Gọi
là công dụng địa vì trước đã thành tựu.
Chư Phật tử ! Bồ tát thành tựu trí huệ như vậy nhập phật cảnh giới, phật
công đức chiếu đến, thuận phật oai nghi, phật cảnh hiện tiền, thường được
phật hộ niệm. phạm vương, thiên đế, tứ thiên vương, kim cang lực sĩ thường
theo thị vệ.
Bồ
Tát này luôn chẳng bỏ lìa các đại tam muội, có thể hiện vô lượng thân sai
khác. Mỗi thân có thế lực lớn, báo đắc thần thông tam muội tự tại. Tùy nơi
nào có chúng sanh đáng được hóa độ thời thị hiện thành chánh giác.
Chư Phật tử ! Bồ tát này nhập hội đại thừa, được đại thần thông, phóng đại
quang minh, nhập vô ngại pháp giới, biết thế giới sai biệt, thị hiện tất
cả những công đức lớn tùy ý tự tại, khéo thông đạt tiền tế, hậu tế dẹp
phục tất cả đạo ma tà, thâm nhập cảnh giới của chư phật nơi vô lượng quốc
độ tu Bồ Tát hạnh. Bởi được pháp bất thối chuyển, nên gọi là trụ bất động
địa.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực bất động địa này rồi, do sức tam muội, thường
được hiện thấy vô lượng Chư Phật, thường chẳng rời bỏ phụng thờ cúng
dường.
Bồ
Tát này nơi mỗi mỗi kiếp, mỗi mỗi thế giới thấy vô lượng trăm Phật, vô
lượng ngàn Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha phật, đều kính
trọng cúng dường .
Ở
chổ Chư Phật được pháp tạng thậm thâm của Như Lai. Thọ được vô lượng pháp
thế giới sai biệt thảy.
Nếu có ai đến vấn nạn những sự như thế giới sai biệt v.v.. không ai khuất
phục Bồ Tát này được.
Như vậy trải qua vô lượng trăm kiếp, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do
tha kiếp những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .
Ví
như chơn kim đem làm mão báu, đặt trên đầu thánh vương diêm phù đề, những
món trang nghiêm của tất cả thần dân không thể sánh kịp.
Cũng vậy, những thiện căn của bực bồ tát này hơn tất cả những thiện căn
của nhị thừa nhẫn đến đệ thất địa bồ tát.
Bởi Bồ Tát trụ bực này, đại trí quang minh diệt trừ tối tăm phiền não của
khắp chúng sanh, vì khéo hay khai môn huệ.
Chư Phật tử ! ví như đại phạm thiên vương chủ ngàn thế giới, có thể khắp
vận từ tâm, khắp phóng quang minh đầy ngàn thế giới,
Cũng vậy, Bồ Tát này hay phóng quang minh chiếu khắp trăm vạn phật sát vi
trần số thế giới, làm cho chúng sanh đập tắt lửa phiền não mà được thanh
lương .
Trong mười môn la la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về nguyện ba la mật, các
món khác thời tùy sức, phần mà tu tập.
Ðây gọi là nói lược về Bồ Tát đệ bát bất động địa. Nếu nói rộng thời trải
vô lượng kiếp cũng không thể cùng tận.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm đại phạm thiên vương
chủ ngàn thế giới, tối thắng tự tại, giỏi giảng thiết các nghĩa. Có thể
ban đạo ba la mật cho hàng thanh văn, bích chi phật, chư Bồ Tát .
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, đều chẳng rời niệm
phật, nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát hảy lại nghĩ rằng : tôi sẽ ở trong tất cả chúng sanh là thượng thủ, là
thắng nhẫn đến là bực y chỉ của Nhứt thiết chủng trí,
Bồ
Tát này nếu dùng sức phát khởi đại tinh tấn trong khoảng một niệm được
trăm vạn đại thiên thế giới vi trần số tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm
vạn đại thiên thế giới vi trần Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng để thị hiện thời hơn số trên đây,
nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.
Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà kệ rằng:
Thất địa tu hành phương tiện huệ
Khéo chứa trợ đạo đại nguyện lực
Lại được Chư Phật chổ nhiếp trì
Vì cầu thắng trí nhập bát địa
Công đức thành tựu thường từ mẫn
Trí huệ rộng lớn đồng hư không
Nghe pháp hay sanh quyết định lực
Ðây là tịch diệt vô sanh nhẫn.
Biết pháp tướng vô sanh vô khởi
Vô thành, bình đẳng tuyệt phân biệt
Siêu các tâm hành như hư không .
Thành tựu nhẫn này siêu hý luận .
Thậm thâm bất động luôn tịch diệt
Tất cả thế gian không thảy đều lìa .
Trụ ở bực này chẳng phân biệt
Ví như tỳ kheo nhập diệt định
Như mộng lội sông, thức thời không
Như sanh phạm thiên tuyệt ái dục .
Do bổn nguyện lực được phật khuyên
Khen trí nhẫn cao quán đảnh cho
Bảo rằng Phật pháp của chúng ta
Nay ông chưa được phải tinh tấn.
Dầu ông đã tắt lửa phiền não
Phiền não thế gian vẫn hẩy hừng
Phải nhớ bổn nguyện độ sanh
Ðều khiến tu nhơn đến giải thoát .
Pháp tánh chơn thường lìa tâm niệm
Nơi đây nhị thừa cũng được vậy
Chẳng do cớ này làm thế tôn
Chỉ do thậm thâm vô ngại trí.
Chư phật thế tôn thiên nhơn sư
Ban cho trí huệ bảo quán sát
Vô biên Phật pháp đều được thành
Một niệm vượt hơn công hạnh trước
Bồ Tát an trụ địa này
Thời được sức thần thông quảng đại
Một niệm phân thân khắp mười phương
Như thuyền vào biển nhờ gió thổi.
Tâm vô công dụng, trí nhậm vận
Ðều biết quốc độ : thành, hoại, trụ
Các cõi chủng loại đều khác lạ
Lớn nhỏ vô lượng đều biết được.
Ðại thiên thế giới tứ đại chúng
Lục đạo chúng sanh thân đều khác
Và cùng châu báu vi trần số
Dùng trí xem biết không còn thừa.
Bồ Tát hay biết không còn thừa.
Bồ Tát hay biết tất cả thân
Vì độ chúng sanh hiện thân đồng
Cõi nước vô lượng nhiều loại khác
Ðều vì nhựt nguyệt ở hư không .
Tất cả trong nước đều hiện bóng
Trụ ở pháp giới không bị động
Tùy tâm hiện bóng cũng như vậy
Tùy tâm sở thích của chúng sanh .
Trong các chúng hội đều hiện thân
Thanh văn, độc giác cùng Bồ Tát
Nhẫn đến thân phật đều hiện cả.
Chúng sanh, quốc độ, nghiệp báo thân,
Các bực thánh nhơn trí pháp thân
Hư không thân tướng đều bình đẳng
Vì khắp chúng sanh mà thị hiện.
Mười môn thánh trí khắp quán sát
Lại thuận từ bi làm công hạnh
Tất cả Phật pháp đều thành tựu
Trì giới bất động như tu di.
Thập lực thành tựu chẳng động lay
Tất cả ma chúng không chuyển được
Chư Phật hộ niệm, thiên vương kính
Mật tích kim cang thường thị vệ.
Bực này công đức vô biên tế
Ngàn vạn ức kiếp nói chẳng hết
Thiện căn cúng Phật càng sáng sạch
Như bửu quang trên đảnh thánh vương.
Bồ Tát trụ bực đệ bát địa
Thường làm phạm vương chủ ngàn cõi
Diễn thuyết tam thừa không tận cùng
Từ quang soi khắp trừ phiền não
Tam muội chứng được trong một niệm
Số đến trăm vạn cỏi trần
Công hạnh ra làm cũng số đó
Nguyện lực thị hiện lại hơn đây ,
Bồ Tát đệ bát bất động địa
Tôi vì đại chúng đã nói lược
Nếu muốn thứ đệ nói rộng ra
Trải trăm ức kiếp nói chẳng hết.
Kim cang tạng nói đệ bát địa
Như Lai hiện tại thần thông lực
Chấn động các cõi nước mười phương
Vô lượng ức số khó bàn nghĩ,
Ðắng vô thượng tôn chánh đẳng giác
Thân Phật khắp phóng đại quang minh
Chiếu soi vô lượng vi trần cõi
Ðều khiến chúng sanh được an lạc
Bồ Tát vô lượng trăm ngàn ức
Ðồng thời hiện đứng giửa hư không
Ðồ cúng thượng diệu hơn chư thiên
Cúng dường đấng tối thắng vô thượng .
Ðại tự tại vương, tự tại thiên
Ðều cùng đồng tâm mừng vô lượng
Ðều đem các thứ đồ cúng dường
Dâng lên đấng thậm thâm công đức .
Lại có thiên nũ đồng vạn ức
Thân tâm vui mừng kể không xiết
Hòa tấu nhạc âm vô lượng thứ
Cúng dường nhơn thiên đại đạo sư.
Bấy giờ nhạc âm đồng hòa tấu
Trăm ngàn vạn ức vô lượng thứ
Ðều do Như Lai oai thần lực
Diễn xuất diệu âm mà tán thán :
Tịch tịnh, điều nhu, không nhơ hại
Tùy bực đã nhập khéo tu tập
Tâm như hư không đến mười phương
Nói rộng Phật đạo độ quần sanh
Thiên thượng nhơn gian tất cả chổ
Ðều hiện vô đẳng diệu trang nghiêm
Do Phật công đức mà sanh ra
Khiến người xem thấy ưa phật trí.
Chẳng rời một cõi đến chúng sanh
Như trăng hiện khắp soi thế gian
Âm thanh tâm niệm đều diệt cả
Dường như hang núi dội tiếng vang.
Nếu có chúng sanh tâm hạ liệt
Vì họ diễn nói hạnh thanh văn,
Nếu tâm minh lợi thích độc giác,
Thời vì họ giảng đạo trung thừa
Nếu có từ bi thích độ sanh
Vì họ giảng dạy Bồ Tát hạnh ,
Nếu có tối thắng tâm trí huệ
Thời dạy Như Lai pháp vô thượng .
Ví như thuật gia làm các sự
Nhiều loại hình tướng đều chẳng thiệt
Bồ Tát trí huyễn cũng như vậy
Dầu hiện tất cả rời hửu vô
Âm thanh ngàn thứ vang như vậy
Ca ngợi Phật rồi đứng lặng yên.
Giải thoát nguyệt lại vì chúng thỉnh
Xin nói công hạnh đệ cửu địa.
Kim cang tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng : thưa Phật tử !
đại bồ tát dùng vô lượng trí như vậy tư duy quán sát muốn cầu tịch diệt
giải thoát hơn , liền tu tập Như Lai huệ : nhập các môn đà la ni tam muội
Như Lai bí mật pháp quán sát bất tư nghì đại trí tánh thanh tịnh .
Có
đủ thần thông quảng đại vào thế giới sai biệt,tu tập thập lực, vô uý, bất
cộng. Theo chư Phật chuyển pháp luân. Chẳng bỏ đại bi bổn nuyện lực. Ðược
nhập Bồ Tát đệ cửu thiện huệ địa.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này, đúng như thiệt mà biệt các
pháp hành thiện, bất thiện, vô ký, hửu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế, tư
nghì, bất tư nghì, định, bất định, thanh văn, độc giác Bồ Tát, Như Lai và
pháp hành hữu vi, vô vi.
Bồ
Tát này dùng trí huệ như vậy, đúng thiệt mà biết những rừng rậm của chúng
sanh : tâm, phiền não, nghiệp, căn, giải, tánh, dục lạc, tùy miên, thọ
sanh, tập khí tương tục và rừng rậm tam tụ sai biệt.
Bồ
Tát này đúng thiệt mà biết tâm của chúng sanh có các thứ hình tướng. Như
những tướng : tạp khởi, tốc chuyển, hoại, bất hoại, vô minh chất, vô biên
tế, thanh tịnh, cấu, vô cấu, phược, bất phược, huyễn sở tác, theo các loài
mà đến thọ sanh, trăm ngàn muôn ức vô lượng tướng của tâm chúng sanh như
vậy đều biết đúng thiệt.
Lại biết các thứ tướng của phiền não.Như những tướng lâu xa hiện hành, vô
biên dẫn khởi, sanh chung chẳng bỏ, núp và khởi một nghĩa, cùng tâm tưong
ưng, chẳng cùng tâm tương ưng, tùy loài thọ sanh mà trụ, ba cõisai khác,
ái kiến si mạn họa hại như mũi tên cấm sâu, ba nghiệp nhơn duyênchẳng
tuyệt. Lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn tướng phiền não đều biết đúng
thiệt.
Lại biết những tướng của ba nghiệp, như những tướng : thiện, bất thiện, vô
ký, có biểu thị, không có biểu thị, cũng tâm đồng sanh chẳng rời, nhơn tự
tánh sát na hoại mà thứ đệ nhóm quả chẳng mất, có báo, không báo, thọ các
đen tối, như ruộng vô lượng, phàm thánh sai khác hiện, thọ, sanh thọ hậu
thọ, thừa phi thừa, bất định. Lược nói nhẫn đến tám muôn bốn ngàn tướng
của nghiệp đều biết đúng thiệt.
Lại biết tướng hạ, trung, thượng của các căn tánh, tướng tiên tế, hậu tế,
sai biệt, vô sai biệt, tướng phiền não câu sanh chẳng rời nhau, tướng thừa
phi thừa, định bất định, tướng thuần thục điều nhu, tướng tùy căn nhẹ đến
hoại, tướng thối bất sai biệt, tướng xa rời, cùng sanh chẳng đồng. Lược
nói đến tám muôn bốn ngàn tướng đều biết đúng thiệt.
Lại biết những tướng thượng, trung, hạ của trí giải, thượng, trung, hạ của
các tánh, thượng, trung , hạ của lạc dục, đều lược nói nhẫn đến tám muôn
bốn ngàn.
Lại biết các tướng của tùy miên : tướng cùng thâm tâm đồng sanh, tướng
cùng tâm đồng sanh, tướng tâm tương ưng bất tương ưng sai biệt, tướng lâu
xa hiện hành, tướng vô thủy chẳng trừ, tướng chống trái với tất cả thiền
định, giải thoát, tam muội, tam ma bát đề, thần thông, tướng ba cõi thọ
sanh hệ phược, tướng khiến vô biên tâm tương tục hiện khởi, tướng mở cửa
các xứ, tướng cứng chắc khó trị, tướng địa xứ thành tựu bất thành tựu,
tướng chỉ do thánh đạo mới nhổ được.
Lại biết các loại tướng thọ sanh. Tướng theo nghiệp thọ sanh, tướng sáu
loài sai khác, tướng có sắc không sắc sai khác, tướng có tưởng không tưởng
sai khác, nghiệp tướng làm ruộng, nước ái thấm nhuần, vô minh che rợp,
thức làm chủng tử sanh mầm hậu hữu, tướng danh sắc sanh chung chẳng rời
nhau, tướng si ái mong cầu các thân, tướng muốn thọ muốn sanh vô thủy tham
chấp, tướng tham cầu vọng cho rằng thoát ba cõi.
Lại biết các tướng của tập khí. Những là tướng hành bất hành sai khác,
tướng tùy chúng sanh hành huân tập, tướng tùy nghiệp phiền não huân tập,
tướng thiện, bất thiện, vô ký huân tập, tướng tùy nhập hậu hữu huân tập,
tướng thứ đệ huân tập, tướng chẳng dứt phiền não lâu xa chẳng bỏ huân tập,
tướng thiệt phi thiệt huân tập, tướng thấy nghe gần gũi thanh văn, độc
giác Bồ Tát Như Lai huân tập .
Lại biết tướng chúng sanh chánh định, tà định, bất định. Những là tướng
chánh kiến, chánh định, tà kiến, tà định, nhị câu bất định, tướng ngũ
nghịch tà định, ngũ căn chánh định, nhị câu bất định, tướng bất tà tà
định, chánh tánh chánh định, nhị câu ly bất định, tướng sâu chấp tà pháp
tà định, tập hành thánh đạo chánh định, nhị câu xả bất định.
Chư Phật tử ! Bồ tát tùy thuận trí huệ như vậy gọi là trụ thiện huệ địa.
Ðã
trụ bực này, biết rõ những hành sai biệt của chúng sanh mà giáo hoá điều
phục cho được giải thoát.
Chư Phật tử ! Bồ tát này có thể khéo diển thuyết pháp thanh văn thừa, pháp
độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa, pháp Như Lai địa.
Tất cả công hạnh lấy trí huệ làm trước, tất cả chổ đi trí đều đi theo, nên
có thể tùy căn tánh dục giải của chúng sanh, sở hành sai khác, các loài
sai khác, cùng tùy thọ sanh phiền não miên phược các nghiệp tập khí mà
thuyết pháp cho thọ sanh tín giải thêm lớn trí huệ, đều ở nơi thừa của
mình mà được giải thoát.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực thiện huệ địa này làm đại pháp sư, đủ hạnh
pháp sư, khéo hay giữ gìn pháp tạng của Như Lai, dùng vô lượng trí thiện
xảo khởi tứ vô ngại biện. Dùng ngôn từ Bồ Tát mà thuyết pháp.
Bồ
Tát này thường tùy tứ vô ngại trí mà chuyển không tạm bỏ lìa.
Những gì là bốn ? chính là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí , từ vô
ngại trí, lạc thuyết vô ngại trí.
Bồ
Tát này đúng pháp vô ngại trí biết tự tướng của các pháp. Dùng nghĩa vô
ngại trí biết tướng sai biệt của các pháp. Dùng từ vô ngại trí nói không
sai lầm. Dùng lạc thuyết vô ngại trí thuyết pháp vô đoạn vô tận .
Lại dùng pháp vô ngại trí biết tự tánh của các pháp. nghỉa vô ngại trí
biết sanh diệt của các pháp. từ vô ngại trí thuyết an lập tất cả pháp
chẳng dứt. Lạc thuyết vô ngại trí tùy chổ an lập chẳng hoại thuyết pháp vô
biên.
Lại dùng pháp vô ngại trí biết pháp hiện tại sai biệt. Nghĩa vô ngại trí
biết pháp quá khứ, vị lai sai biệt. Từ vô ngại trí nơi các quá khứ, hiện
tại, vị lai nói không sai lầm. Lạc thuyết vô ngại trí nơi vô biên pháp
trong mỗi đời đều nói rõ ràng.
Lại dùng pháp vô ngại trí biết pháp sai biệt. Nghĩa vô ngại trí biết nghĩa
sai biệt, từ vô ngại trí tùy ngôn âm của mọi loài mà nói. Lạc thuyết vô
ngại trí tùy tâm ưa thíchcủa họ mà nói.
Lại pháp vô ngại trí dùng pháp trí biết sai biệtb chẳng khác. Nghĩa vô
ngại trí biết sai biệt như thiệt. Từ vô ngại trí dùng thế trí sai biệt mà
thuyết pháp. lạc thuyết vô ngại trí dùng đệ nhứt nghĩa trí thiện xảo
thuyết pháp.
Lại pháp vô ngại trí biết các pháp nhứt tướng chẳng hoại. Nghĩa vô ngại
trí biết uẩn, xứ, giới, đế, duyên khởi thiện xảo. Từ vô ngại trí dùng tất
cả âm thanh, văn tự mỹ diệu mà thế gian để hiểu đế thuyết pháp. lạc thuyết
vô ngại trí dùng vô biên pháp minh tăng thắng đế thuyết pháp. lại pháp vô
ngại trí biết nhứt thừa bình đẳng tánh. Nghĩa vô ngại trí biết các thừa
sai biệt tánh. Từ vô ngại trí nói tất cả thừa vô sai biệt. Lạc thuyết vô
ngại trí nói mỗi mỗi thừa vô biên pháp.
Lại pháp vô ngại trí biết tùy chứng tất cả hạnh Bồ Tát trí hành, pháp
hành. Nghĩa vô ngại trí biết thập địa phần vị nghĩa sai khác. Từ vô ngại
trí thuyết địa đạo tướng vô sai biệt. Lạc thuyết vô ngại trí thuyết mỗi
mỗi địa có vô biên hành tướng.
Lại pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai một niệm thành chánh giác. Nghĩa
vô ngại trí biết các thời gian, các xứ sở đều sai khác. Từ vô ngại trí
thành chánh giác sai biệt. Lạc thuyết vô ngại nơi mỗi câu pháp vô lượng
kiếp nói chẳng hết.
Lạc pháp vô ngại trí biết tất cả Như Lai những ngữ ngôn, trí lực, vô úy,
bất cộng pháp, đại từ, đại bi, hiện tại, phương tiện, chuyển pháp luân,
Nhứt thiết trí, , tùy chứng trí. Nghĩa vô ngại trí bíet Như Lai tùy tám
vạn bốn ngàn tâm hành căn giải âm thanh sai biệt của chúng sanh. Từ vô
ngại trí tùy tất cả chúng sanh hạnh dùng âm thanh sai biệt của Như Lai để
thuyết pháp. lạc thuyết vô ngại trí tùy tín giải của chúng sanh dùng trí
thanh tịnh hạnh viên mãn của Như Lai để thuyết pháp.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ đệ cửu địa được trí vô ngại thiện xảo như vậy,
được Phật pháp tạng làmđại pháp sư, được nghĩa đà la ni, pháp đà la ni,
trí đà la ni, quang chiếu đà la ni, thiện huệ đà la ni,chúng tài đà la ni,
oai đức đà la ni, vô ngại môn đà la ni, vô biên tế đà la ni, chủng chủng
nghĩa đà la ni, trăm vạn a tăng kỳ môn đà la ni, như vậy đều được viên
mãn, dùng trăm vạn vô số môn thiện xảo âm thanh biện tài mà thuyết pháp.
Bồ
Tát này được trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy rồi, nơi chổ vô lượng Ðức
Phật, trước mỗi Ðức Phật, đều dùng trăm vạn vô số môn đà la ni như vậy để
nghe chánh pháp, nghe rồi chẳng quên, dùng vô lượng môn sai biệt diễn
thuyết cho đại chúng khác.
Bồ
Tát này mới thấy Phật liền cúi đầu đảnh lễ. Ở chổ Phật liền được vô lượng
pháp môn.
Pháp môn đã được đây, hàng văn trí đại thanh văn trong trăm ngàn kiếp
chẳng lãnh thọ được.
Bồ
Tát này được đà la ni như vậy, vô ngại trí như vậy, ngồi trên pháp tòa mà
thuyết pháp.
Chúng sanh khắp trong đại thiên thế giới, đều tùy tâm sở thích sai khác
của họ mà thuyết pháp :
Chỉ trừ Chư Phật và chư Bồ Tát đã thọ chức, các chúng hội khác không thể
sánh kịp oai đức quang minh với Bồ Tát này.
Bồ
Tát này ngồi trên pháp toà, muốn dùng một âm thanh khiến các đại chúng đều
được hiểu rõ thời kiền được hiểu rõ.
Hoặc có lúc muốn dùng các thứ âm thanh làm cho cá đại chúng đều được khai
ngộ.
Hoặc có lúc tâm muốn phóng đại quang minh diễn thuyết pháp môn.
Hoặc có lúc tâm muốn ở trên thân mình, mỗi chân lông đều diễn pháp âm.
Hoặc có lúc tâm muốn nhẫn đến đại thiên thế giới có bao nhiêu vật hữu
hình, vô hình đều diễn ra ngôn âm diệu pháp.
Hoặc có lúc tâm phát một ngôn âm khắp cả pháp giới đều hiểu rõ.
Hoặc có lúc tâm muốn tất cả ngôn âm đều làm pháp âm thường trụ bất diệt.
Hoặc có lúc tâm muốn tất cả thế giới những ống tiêu, sáo, chuông trống tất
cả tiếng nhạc và ca ngâm đều diễn pháp âm.
Hoặc có lúc tâm muốn trong một chử, tất cả pháp cú, ngôn âm sai biệt thảy
đều đầy đủ .
Hoặc có lúc tâm muốn làm cho bất khả thuyết vô lượng thế giới, trong tứ
đại địa, thủy, hỏa, phong, có bao nhiêu vi trần trong mỗi vi trần thảy đều
diễn xuất bất khả thuyết pháp môn.
Tất cả đều muốn như vậy đều tùy tâm hiển hiện thành màn cả.
Chư Phật tử ! giả sử đại thiên thế giới, tất cả chúng sanh đều đến trước
Bồ Tát này, mỗi mỗi chúng sanh đều dùng vô lượng ngôn âm khác nhau để vấn
đề nạn tất cả . vấn nạn đều chẳng đồng nhau. Trong nguyện tất cả chúng
sanh khoảng một niệm. Bồ Tát đều lành thọ tất cả vẫn dùng một âm thanh mà
giải thích khắp tất cả, khiến họ đều vui thích, như vậy nhẫn đến tất cả
chúng sanh trong bất khả thuyết thế giới, trong bất khả thuyết thế giới.
Bồ Tát đều không có thể tuỳ tâm sở thích, căn, giải của họ mà thuyết pháp.
thừa thần lực của Phật rộng làm Phật sự, vì khắp tất cả mà làm chổ nương
tựa.
Chư Phật tử ! Bồ tát này lại phát tinh tấn thành tựu trí minh, giả sử nơi
một chân lông có bất khả thuyết thế giới vi trần số Chư Phật chúng hội,
mỗi chúng hội có bất khả thuyết thế giới vi trần số chúng sanh, mỗi chúng
sanh có bất khả thuyết thế giới vi trần số tánh dục. Chư Phật đó tuỳ theo
tánh dục của chúng sanh mà đều ban cho pháp môn.
Như nơi một chân lông, tất cả chổ khắp phá[p giới đều như vậy cả. Vô lượng
pháp môn của Chư Phật đã nói như vậy, trong khoảng một niệm, Bồ Tát đều
lãnh thọ được cả, không hề quên mất.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực đệ cứu địa này ngày đêm tinh tấn , trọn không
xen niệm gì khác, chỉ nhập Phật cảnh giới thân cận Như Lai, nhập chư Bồ
Tát thậm thâm giải thoát, thường ở chánh định, thường thấy Chư Phật chưa
từng bỏ lìa, trong mỗi mỗi kiếp thấy vô lượng Phật, vô lượng trăm ngàn
Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật, đều kính trọng cúng
dường, hỏi pháp. được thuyết pháp đà la ni bao nhiêu thiện căn đã có càng
thêm sáng sạch.
Ví
như chơn kim, thợ giỏi khéo dùng làm bửu quang đế chuyển luân thánh vương
đội, tất cả đồ trang nghiêm của thần dân và các tiểu quốc vương không sánh
kịp được.
Thiện căn của bực Bồ Tát đệ cửu địa cũng như vậy.những thiện căn của thanh
văn, độc giác và các Bồ Tát bực dưới không thể bằng được.
Chư Phật tử ! ví như đại phạm thiên vương chủ của nhị thiên thế giới, thân
phóng quang minh có thể chiếu thấu chổ tối, chổ xa của tất cả nhị thiên
thế giới.những thiện căn của Bồ Tát này cũng như vậy. Có thể phóng quang
minh, chiếu tâm chúng sanh trừ sạch phiền não tăm tối.
Trong mười môn ba la mật, với Bồ Tát này, lực ba la mật là hơn cả các môn
kia thời tùy sức tùy phần. Chư Phật tử ! đây là lược nói đại Bồ Tát đệ cửu
thiện huệ địa. Nếu nói rộng thời vô lượng kiếp nói cũng không hết.
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực đệ cửu địa này thường làm đại phạm thiên
vương chủ nhị thiên thế giới. Thống trị giỏi, tự tại làm lợi ích. Hay vì
hàng thanh văn, độc giác và chư Bồ Tát mà giảng giải hạnh ba la mật. Hay
tùy tâm của chúng sanh. Không bị khuất phục vì vấn nạn.
Những công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật,
nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này lại nghĩ rằng : ở trong tất cả chúng sanh, tôi sẽ là thượng thủ,
là thắng, nhẫn đến là bực y chỉ nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát này nếu phát tinh tấn trong khoảng một niệm được trăm vạn vô số quốc
độ vi trần số tam muội nhẫn đến thị hiện trăm vạn vô số quốc độ vi trần số
Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số này. nhẫn đến
trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được .
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Vô lượng trí lực khéo quan sát.
Tối thượng vi diệu đời khó biết
Vào khắp chỗ bí mật của Phật
Lợi ích chúng sanh vào Cửu Ðịa.
Tổng trì tam muội đều tự tại
Ðược đại thần thông vào các cõi
Lực, trí, vô úy, bất cộng pháp
Nguyện, lực, bi tâm vào Cửu Ðịa.
Trụ nơi bực này trì pháp tạng
Rõ thiện, bất thiện, và vô ký
Hữu lậu, vô lậu, thế, xuất thế
Tư, bất tư nghì đều khéo biết.
Nếu pháp quyết định chẳng quyết định
Tam thừa tu tập đều quán sát
Hữu vi, vô vi hạnh sai biệt
Biết rõ như vậy nhập thế gian.
Nếu muốn biết rõ tâm chúng sanh
Thời hay dùng trí biết như thiệt,
Các thứ chuyển tốc, hoại, chẳng hoại,
Những tướng vô chất, vô biên thảy,
Phiền não vô biên thường sanh chung
Phục, khởi một nghĩa nối các loại.
Nghiệp táng chủng loại đều riêng khác
Nhơn hoại quả nhóm đều biết được
Căn tánh các loại hạ trung thượng
Tiên tế hậu tế khác vô lượng.
Giải, tánh, lạc dục cũng như vậy
Tám vạn bốn ngàn đều biết cả,
Chúng sanh hoặc kiến luôn tùy chuyển
Rừng rậm vô thỉ chưa cắt trừ
Với chí vhung cùng tâm đều sanh
Thường ràng rịt nhau chẳng đoạn tuyệt.
Chẳng phải vật thiệt, chỉ vọng tưởng
Chẳng rời khỏi tâm không xứ sở
Thiền định cảnh trừ nhưng thối chuyển
Kim cang đạo diệt mới rốt ráo.
Sáu loài thọ sanh đều sai khác
Ruộng nghiệp, ái nhuận, vô minh che
Thức làm chủng tử, mầm danh sắc
Ba cõi vô thỉ luôn tiếp nối.
Hoặc, nghiệp, tâm tập sanh các loại
Nếu lìa hoặc nghiệp chẳng còn sanh
Chúng sanh ở trong hoặc, nghiệp, tâm
Hoặc chìm kiến chấp, hoặc thành đạo.
Bực Bồ Tát này khéo quán sát
Tùy tâm sở thích và căn giải
Ðều dùng vô ngại diệu biện tài
Theo chỗ đáng độ mà thuyết pháp.
Ngồi trên pháp tọa như sư tử,
Cũng như ngưu vương, bửu sơn vương,
Lại như Long Vương bủa mây dầy
Tuôn mưa cam lộ đầy biển lớn.
Khéo biết pháp tánh và áo nghĩa
Tùy thuận ngôn từ hay biện thuyết
Vô số trăm vạn đà la ni
Dường như biển lớn chứa nước mưa
Tổng trì tam muội đều thanh tịnh
Trong khoảng một niệm thấy nhiều Phật
Nơi mỗi mỗi Phật đều nghe pháp
Lại dùng diệu âm để diễn thuyết.
Nếu muốn khắp Ðại Thiên thế giới
Giáo hóa tất cả các quần sanh
Như mây bủa khắp mọi nơi chỗ
Tùy theo căn dục đều khiến mừng,
Ðầu lông Phật chúng đông vô số
Chúng sanh sở thích cũng vô cực
Ðều xứng tâm họ cho pháp môn
Tất cả pháp giới đều như vậy.
Bồ Tát siêng thêm sức tinh tấn
Lại được công đức càng thêm hơn
Văn trì vô lượng các pháp môn
Như đất hay gìn tất cả giống.
Mười phương vô lượng các chúng sanh
Ðều đến thân cận ngồi trong hội
Một niệm tùy tâm đều vấn nạn
Một lời đối khắp đều thỏa mãn.
Trụ ở bực này làm Pháp Vương
Tùy cơ dạy bảo không nhàm mỏi
Ngày đêm thấy Phật chưa từng bỏ
Nhập thâm tịch diệt trí giải thoát.
Cúng Phật thiện căn càng thêm sáng
Như mão diệu bửu trên đầu vua
Nhờ đây chúng sanh dứt phiền não
Như quang chiếu khắp của Phạm Vương.
Bực này thường hiện Ðại Phạm Vương.
Ðem pháp tam thừa độ chúng sanh
Thiện nghiệp tu hành khắp lợi ích
Nhẫn đến sẽ thành nhứt thiết trí.
Một niệm đã nhập các tam muội.
Vô số thế giới vi trần số
Thấy Phật thuyết pháp, số cũng vậy
Nguyện lực thị hiện lại hơn đây.
Ðây là đệ cửu Thiện Huệ Ðịa
Chỗ tu hành của đại Bồ Tát
Thậm thâm vi diệu khó thấy được
Tôi vì Phật tử đã tuyên thuyết.
(Hán bộ quyển 39)
Na do tha chúng Tịnh Cư Thiên
Nghe những thắng hạnh trong Cửu Ðịa
Trên không hớn hở lòng hoan hỉ
Ðều cùng cung kính cúng dường Phật.
Bất khả tư nghì chúng Bồ Tát
Cũng ở hư không rất hoan hỉ
Ðồng thắp hương duyệt ý tối thượng
Huân khắp chúng hội khiến thanh tịnh.
Tự tại Thiên Vương cùng thiên chúng
Vô lượng ức số ở hư không
Rải khắp thiên y cúng dường Phật
Trăm ngàn muôn thứ phất phới rơi.
Thể nữ cõi trời số vô lượng
Tất cả mừng vui cúng dường Phật
Ðều tấu các thứ âm nhạc hay
Ðều dùng lời nầy để ca ngợi :
Phật thân an tọa một quốc độ
Tất cả thế giới đều hiện thân
Thân tướng đoan nghiêm vô lượng ức
Pháp giới rộng lớn đều khắp đầy.
Nơi một chân lông phóng quanh minh
Khắp dứt thế gian phiền não tối
Thế giới vi trần biết được số
Quag minh nầy số chẳng lường được.
Hoặc thấy Như Lai đủ tướng hảo
Chuyển chánh pháp luân thắng vô thượng,
Hoặc thấy du hành các cõi Phật.
Hoặc thấy vắng lặng an bất động,
Hoặc hiện ở tại cung Ðâu Suất,
Hoặc hiện hạ sanh nhập thai mẹ,
Hoặc hiện trụ thai hoặc xuất thai,
Ðều khiến trong vô lượng cõi thấy,
Hoặc hiện xuất gia tu thế đạo
Hoặc hiện đạo tràng thành chánh giác
Hoặc hiện thuyết pháp hoặc Niết bàn
Khiến khắp mười phương đều xem thấy.
Ví như huyễn sư biết huyễn thuật
Ở trong đại chúng hiện nhiều việc,
Trí huệ Như Lai cũng như vậy
Ở trong thế gian khắp hiện thân.
Phật trụ thậm thâm chơn pháp tánh
Tịch diệt vô tướng đồng hư không
Mà ở trong đệ nhứt thiệt nghĩa
Thị hiện công hạnh nhiều sự việc.
Hạnh lợi chúng sanh Phật đã làm
Ðều nương pháp tánh mà được có
Tướng và vô tướng không sai khác
Vào đến rốt ráo đều vô tướng.
Nếu có muốn được Như Lai trí
Phải rời tất cả vọng phân biệt
Thông đạt hữu vô đều bình đẳng
Mau làm Nhơn Thiên Ðại Ðạo Sư.
Vô lượng vô biên chúng thiên nữ
Ca nhạc ngôn âm khen ngợi rồi
Thân tâm tịch tịnh đều an lạc
Chiêm ngưỡng Như Lai đứng yên lặng.
Liền đó Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát
Biết các chúng hội đều tịch tịnh
Hướng Kim Cang Tạng mà thỉnh rằng :
Bực Ðại Vô Úy Chơn Phật Tử !
Từ Ðệ Cửu Ðịa vào Thập Ðịa
Bao nhiêu công đức các hành tướng
Nhẫn đến thần thông trí biến hóa
Mong vì đại chúng mà tuyên thuyết.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử !
Ðại Bồ Tát từ Sơ Ðịa đến Ðệ Cửu Ðịa dùng vô lượng trí huệ quán sát giác
liễu như vậy rồi, khéo tư duy tu tập, khéo đầy đủ thiện pháp, nhóm vô biên
pháp trợ đạo, thêm lớn đại phước đức trí huệ, rộng thi hành đại bi, biết
thế giới sai biệt, vào rừng rậm chúng sanh giới, nhập cảnh giới Như Lai,
tùy thuận hạnh tịch diệt của Như Lai, thường quán sát trí lực, vô úy, bất
cộng pháp của Như Lai, gọi là được nhứt thiết chủng trí thọ chức vị.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng trí huệ như vậy nhập bực Thọ Chức Ðịa rồi
liền được ly cấu tam muội, nhập pháp giới sai biệt tam muội, trang nghiêm
đạo tràng tam muội, nhứt thiết chủng hoa quang tam muội, hải tạng tam
muội, hải ấn tam muội, hư không giới quảng đại tam muội, quán nhứt thiết
pháp tự tánh tam muội, tri nhứt thiết chúng sanh tâm hành tam muội, nhứt
thiết Phật giai hiện tiền tam muội, trăm vạn vô số tam muội như vậy đều
hiện tiền. Bồ Tát nầy ở nơi các môn tam muội trên đây hoặc nhập, hoặc xuất
đều được thiện xảo. Cũng khéo rõ biết tất cả tam muội việc làm sai biệt.
Tam muội tối hậu tên là thọ nhứt thiết trí thắng chức vị.
Lúc tam muội nầy hiện tiền, bỗng nhiên xuất sanh đại bửu liên hoa. Liên
hoa nầy rộng lớn bằng trăm vạn Ðại Thiên thế giới, trang nghiêm với các
thứ diệu bửu, vượt hơn tất cả cảnh giới thế gian, do thiện căn xuất thế
sanh khởi, do những hạnh biết các pháp như huyễn tánh làm thành, thường
phóng quang minh chiếu khắp pháp giới, các cõi trời chẳng có được.
Liên hoa nầy, cọng bằng tỳ lưu ly ma ni bửu, đài bằng chiên đàn vương, tua
bằng ngọc mã não, cánh bằng vàng Diêm phù đàn, các báu làm tạng, lưới báu
che giăng. Hoa nầy thường phóng vô lượng quang minh, có mười Ðại Thiên thế
giới vi trần số liên hoa làm quyến thuộc.
Bấy giờ, Bồ Tát này ngự trên liên hoa, thân tướng cân xứng với hoa. Vô
lượng quyến thuộc Bồ Tát ngồi trên các liên hoa kia, mỗi vị đều được trăm
vạn tam muội, đồng hướng về đại Bồ Tát nhứt tâm chiêm ngưỡng.
Chư Phật tử ! Lúc đại Bồ Tát này và quyến thuộc ngồi trên liên hoa, thời
quang minh và ngôn âm khắp đến thập phương pháp giới. Tất cả thế giới đều
chấn động, ác đạo khỏi khổ, cõi nước nghiêm tịnh, đồng hạnh Bồ Tát đều vân
tập đến, âm nhạc của nhơn thiên đồng thời trổi tiếng, tất cả chúng sanh
đều được an vui, đem bất tư nghì đồ cúng dường dâng lên chư Phật. Chư Phật
chúng hội thảy đều hiển hiện.
Chư Phật tử ! Lúc Bồ Tát nầy ngồi trên tòa đại liên hoa, thời nơi dưới hai
chân phóng trăm vạn vô số quanh minh chiếu khắp các đại địa ngục ở mười
phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi hai gối phóng trăm vạn vô số quang
minh chiếu khắp mọi loài súc sanh ở mười phương diệt khổ cho chúng sanh.
Nơi rún phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp cõi Diêm La Vương ở
mười phương diệt khổ cho chúng sanh. Nơi hai bên hông phóng trăm vạn vô số
quang minh chiếu khắp tất cả nhơn gian ở mười phương diệt khổ cho chúng
sanh. Nơi giữa hai tay phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả
cung điện của chư Thiên và A Tu La ở mười phương. Nơi trên hai vai phóng
trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp tất cả Thanh Văn ở mười phương. Nơi
cổ và lưng phóng trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp thân Bích Chi Phật ở
mười phương. Nơi mặt trăm vạn vô số quang minh chiếu khắp hàng Bồ Tát sơ
phát tâm đến bực Ðệ Cửu Ðịa. Từ giữa hai chặng mày phóng trăm vạn vô số
quang minh chiếu khắp hàng Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương. Quang minh nầy
làm cho cung điện của Ma Thảy đều chẳng hiện.
Nơi đảnh đầu phóng trăm vạn vô số Ðại Thiên thế giới vi trần số quanh minh
chiếu khắp các đạo tràng chúng hội của chư Phật ở tất cả thế giới trong
mười phương, hữu nhiễu mười vòng rồi đứng lại trên hư không thành lưới
quang minh tên là Xí Nhiên Quang Minh, phát khởi các đồ cùng dường để cúng
Phật. Chư Bồ Tát khác, từ sơ phát tâm đến Ðệ Cửu Ðịa, có những đồ cúng
dường đều không sánh được.
Lưới quanh minh nầy, ở trước chúng hội của mỗi đức Phật trong mười phương,
mưa nhữnf hương tốt, tràng hoa, y phục, tràng phan, bửu cái, các thứ trang
nghiêm bằng châu ma ni, để cúng dường lên Phật.
Ðồ
cúng trên đây đều tử thiện căn xuất thế sanh ra, vượt hơn tất cả cảnh giới
thế gian. Nếu có chúng sanh thấy biết sự nầy thời đều được bất thối chuyển
nơi đạo vô thượng giác.
Chư Phật tử ! Ðại quang minh nầy hiện sự cúng dường như vậy xong, lại
nhiễu tất cả thế giới mười phương nơi đạo tràng của chư Phật đủ mười vòng
rồi lại từ dưới chân của Phật mà vào. Lúc đó chư Phật và chư Bồ Tát biết
nơi thế giới ấy, có đại Bồ Tát ấy có thể làm hạnh quảng đại như vậy đến
bực Thọ Chức.
Chư Phật tử ! Bấy giờ mười phương vô lượng vô biên Bồ Tát nhẫn đến bực Ðệ
Cửu Ðịa đều vân tập vây quanh cung kính cúng dường Ðại Bồ Tát nầy, nhứt
tâm quán sát. Ðương lúc quán sát, chư Bồ Tát liền đều chứng được mười ngàn
tam muội.
Lúc đó, những Bồ Tát Thọ Chức ở mười phương đều ở trong đức tướng nơi ngực
kim cang trang nghiêm phóng đại quanh minh tên Năng Hoại Ma Oán, có trăm
vạn vô số quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương hiện vô lượng
thần thông biến hóa, sau đó quang minh nầy, trở về nhập vào trong ngực kim
cang trang nghiêm của đại Bồ Tát. Khi quang minh nhập vào xong, những trí
huệ thế lực của đại Bồ Tát nầy thêm lớn trăm ngàn lần.
Bấy giờ thập phương chư Phật, từ chặng mày phóng quang minh thanh tịnh tên
Tăng Ích Nhứt Thiết Trí Thần Thông, có vô số quang minh làm quyến thuộc
chiếu khắp thế giới mười phương, hữu nhiễu mười vòng, thị hiện sự tự tại
quảng đại của Như Lai khai ngộ cho vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng
Bồ Tát. Chấn động khắp cả cõi Phật, diệt trừ tất cả khổ của các ác đạo,
che ẩn tất cả cung điện của Ma, hiển thị tất cả chỗ của chư Phật chứng Bồ
đề và đạo tràng chúng hội oai đức trang nghiêm.
Quang minh nầy chiếu khắp tận hư không biến pháp giới tất cả thế giới rồi
lại đến trên pháp hội của đại Bồ Tát nầy hữu nhiễu bao vòng hiển hiện
những sự trang nghiêm. Hiện xong, nhập vào trên đảnh đầu của đại Bồ Tát
nầy. Những quang minh quyến thuộc cũng đều nhập vào đảnh đầu của chư Bồ
Tát.
Ðương lúc quanh minh của chư Phật nhập vào đầu, Ðại Bồ Tát nầy chứng được
trăm vạn tam muội mà trước kia chưa được. Ðây gọi là đã được bực Thọ Chức
vào cảnh giới Phật đầy đủ thập lực dự ở số chư Phật.
Chư Phật tử ! Như Chuyển Luân Thánh Vương sanh Thái Tử, mẹ là chánh hậu.
Lúc Thái Tử thân tướng trưởng thành đầy đủ, nhà vua bảo Thái Tử ngồi tòa
diệu kinh trên bạch tượng bửu, trương màn lưới lơn, dưng trang pha to,
thắp hương, rải hoa, trổi các âm nhạc, lấy nước bốn biển đựng trong bình
vàng. Nhà vua cầm bình vàng này rưới nước bốn biển lên đầu Thái Tử. Ðây
gọi là lễ Thái Tử lãnh thọ vương chức, dự ở hàng quán đảnh sát đế lợi
vương. Liền có thể thật hành đầy đủ mười thiện đạo, cũng được gọi là
Chuyển Luân Thánh Vương.
Ðại Bồ Tát Thọ Chức cũng như vậy : Vì trí thủy của chư Phật rưới vào đầu
nên gọi là Thọ Chức, vì đầy đủ mười trí lực của Như Lai nên dự vào hàng
chư Phật.
Chư Phật tử ! Ðây gọi là Bồ Tát thọ chức đại trí. Bồ Tát do chức đại trí
này nên có thể làm vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha hạnh khó làm, thêm
lớn vô lượng trí huệ công đức, gọi là an trụ bực Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở bực Pháp Vân Ðịa nầy, đúng thiệt mà biết dục
giới tập, sắc giới tập, vô sắc giới tập, thế giới tập, pháp giới tập, hữu
vi giới tập, vô vi giới tập, chúng sanh giới tập, thức giới tập, hư không
giới tập, niết bàn giới tập, kiến chấp phiền não hành tập, thế giới thành
hoại tập, Thanh Văn hạnh tập, Ðộc Giác hạnh tập, Bồ Tát hạnh tập, Như Lai
trí lực vô úy sắc thân pháp thân tập, nhứt thiết chủng trí tập, thị hiện
thành Phật chuyển pháp luân tập, trí quyết định phân biệt tất cả pháp tập.
Tóm lại, đại Bồ Tát nầy dùng nhứt thiết trí mà biết tất cả tập.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nầy, dùng giác huệ thượng thượng như vậy đúng
thiệt mà biết chúng sanh nghiệp hóa, phiền não hóa, kiến chấp hóa, thế
giới hóa, pháp giới hóa, Thanh Văn hóa, Ðộc Giác hóa, Bồ Tát hóa, Như Lai
hóa, tất cả phân biệt vô phân biệt hóa.
Lại đúng thiệt mà biết Phật trì, Pháp trì, Tăng trì, nghiệp trì, phiền não
trì, nguyện trì, cúng dường trì, hành trì, kiếp trì, trí trì.
Lại đúng thiệt mà biết chư Phật nhập vi tế trí. Những là tu hành vi tế
trí. Mạng chung vi tế trí, thọ sanh vi tế trí, xuất gia vi tế trí, hiện
thần thông vi tế trí, trụ thọ mạng vi tế trí, nhập niết bàn vi tế trí,
giáo pháp trụ vi tế trí.
Ðại Bồ Tát nầy lại nhập Như Lai bí mật xứ. Những là thân bí mật, ngữ bí
mật, tâm bí mật, thời phi thời tư lương bí mật, thọ Bồ Tát ký bí mật,
nhiếp chúng sanh bí mật, chủng chủng thừa bí mật, tất cả chúng sanh căn
hành sai biệt bí mật, nghiêm sở hành bí mật, đắc Bồ đề hạnh bí mật. Những
sự nầy đều biết đúng thiệt.
Lại biết những nhập kiếp trí của chư Phật. Những là một kiếp vào vô số
kiếp, vô số kiếp vào một kiếp, hữu số kiếp vào vô số kiếp, vô số kiếp vào
hữu số kiếp, một niệm vào kiếp, kiếp vào một niệm, kiếp vào phi kiếp, phi
kiếp, vào kiếp, hữu Phật kiếp vào vô Phật kiếp, vô Phật kiếp vào hữu Phật
kiếp, quá khứ vị lai kiếp vào hiện tại kiếp, hiện tại kiếp vào quá khứ vị
lai kiếp, quá khứ kiếp vào vị lai kiếp, vị lai kiếp vào hiện tại kiếp,
trường kiếp vào đoản kiếp, đoản kiếp vào trường kiếp.
Lại biết những kiếp sở nhập của Như Lai. Những là nhập mao đạo trí, nhập
vi trần trí, nhập quốc độ thân chánh giác trí, nhập chúng sanh thân chánh
giác trí, nhập chúng sanh tâm chánh giác trí, nhập chúng sanh hạnh chánh
giác trí, nhập tùy thuận nhứt thiết xứ chánh giác trí, nhập thị hiện biến
hành trí, nhập thị hiện thuận hành trí, nhập thị hiện nghịch hành trí,
nhập thị hiện tư nghì bất tư nghì thế gian liễu tri bất liễu tri hành trí,
nhập thị hiện Thanh Văn trí, Ðộc giác trí, Bồ Tát hạnh trí, Như Lai hạnh
trí. Tất cả như vậy đều biết đúng thiệt.
Chư Phật tử ! Tất cả chư Phật có những trí huệ quảng đại vô lượng, bực Bồ
Tát nầy đều có thể chứng nhập.
Ðại Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa nầy liền được Bồ Tát bất tư nghì giải
thoát, vô chướng ngại giải thoát, tịnh quán sát giải thoát, phổ chiếu minh
giải thoát, thông đạt tam thế giải thoát, pháp giới tạng giải thoát, quang
minh luân giải thoát, vô dư cảnh giới giải thoát. Mười môn giải thoát nầy
làm đầu, lại có vô lượng trăm ngàn vô số môn giải thoát đến vô lượng trăm
ngàn vô số môn tam muội, vô lượng trăm ngàn vô số môn đà la ni, vô lượng
trăm ngàn vô số môn thần thông, bực nầy đều thành tựu cả.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nầy thần thông đạt trí huệ như vậy, tùy thuận vô
lượng Bồ đề, thành tựu thiện xảo niệm lực.
Mười phương chư Phật có vô lượng đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp
vũ, Bồ Tát nầy trong khoảng một niệm đều có thể an, có thể thọ, có thể
nhiếp, có thể trì tất cả.
Ví
như Ta Dà La Long Vương làm mưa lớn, chỉ trừ đại hải, ngoài ra tất cả chỗ
khác đều không thể chứa thọ nhiếp trì nước mưa đó.
Cũng vậy, chỉ trừ bực Ðệ Thập Ðịa Bồ Tát, ngoài ra tất cả chúng sanh,
Thanh Văn, Ðộc Giác, nhẫn đến Ðệ Cửu Ðịa Bồ Tát đều không thể an thọ nhiếp
trì tạng bí mật đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ của đức Như
Lai.
Ví
như đại hải có thể an thọ nhiếp trì trận mưa lớn của một Long Vương, hoặc
hai, hoặc ba, nhẫn đến vô lượng Long Vương đồng thời làm mưa lớn. Vì đại
hải rộng lớn vô lượng.
Cũng vậy đại Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa có thể an thọ nhiếp trì đại pháp
minh, pháp chiếu, pháp vũ của một đức Phật nhẫn đến của vô lượng đức Phật,
đầu trong khoảng một niệm chư Phật đồng thời diễn thuyết. Vì thế nên bực
Bồ Tát nầy hiệu là Pháp Vân Ðịa.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi : Thưa Phật tử ! Trong khoảng một niệm, đại
Bồ Tát nầy có thể an thọ nhiếp trì đại pháp minh, pháp chiếu, pháp vủ của
bao nhiêu đức Phật ?
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : Thưa Phật tử ! Chẳng thể đếm tính biết được.
Tôi sẽ dùng ví dụ để trình bày việc ấy.
Thưa Phật tử ! Ví như mười phương, trong mỗi phương đều có mười bất khả
thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới. Trong thế giới
đó, mỗi mỗi chúng sanh đều được văn trì đà la ni làm thị giả của Phật đa
văn bực nhứt trong hàng Thanh Văn, như Tỳ Kheo Ðại Thắng, thị giả của đức
Kim Cang Liên Hoa Thượng Phật. Những pháp của một chúng sanh đã thọ, các
chúng sanh khác không thọ trùng. Những pháp của tất cả chúng sanh nầy thọ
được có số lượng chăng ?
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói : Số đó rất nhiều vô lượng vô biên.
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : Tôi xin nói để Phật tử được rõ. Bực Pháp Vân
Ðịa Bồ Tát, trong khoảng một niệm, an thọ nhiếp trì đạo pháp minh, pháp
chiếu, pháp vũ tam thế pháp tạng của một đức Phật nhiều hơn những pháp của
tất cả chúng sanh trên kia đã được nhiếp trì trăm phần không kịp một phần
nhẫn đến ví dụ dũng chẳng kịp được.
Như nơi một đức Phật, nơi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát
vi trần thế giới chư Phật, lại hơn số nầy vô lượng vô biên, nơi mỗi mỗi
đức Như Lai có bao nhiêu pháp minh, pháp chiếu, pháp vũ, tam thế pháp
tạng, Bồ Tát nầy đều có thể an thọ nhiếp trì trọn vẹn, nên hiệu là Pháp
Vân Ðịa.
Chư Phật tử ! Bực Bồ Tát nầy dùng tự nguyện lực nổi mây phước đức đại bi,
chấn sấm đại pháp, nháng chớp trí huệ vô úy, hiện các loại thân, khoảng
một niệm, qua khắp mười phương trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần số
quốc độ mà diễn thuyết đại pháp xô dẹp quân ma.
Lại hơn số trên đây, nơi vô lượng trăm ngàn ức na do tha thế giới vi trần
số quốc độ, tùy tâm sở thích của chúng sanh mà tuôn mưa đại pháp dập tắt
lửa phiền hoặc. Do đây hiệu là Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ Tát ở bực này, nơi một thế giới từ Ðâu Suất Thiên gián
sanh nhẫn đến Niết bàn, tùy theo tâm của chúng sanh đáng được độ mà thị
hiện Phật sự.
Hoặc nơi hai thế giới, ba thế giới nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do
tha thế giới vi trần số quốc độ cũng đều như vậy. Thế nên bực nầy gọi là
Pháp Vân Ðịa.
Chư Phật tử ! Bực Bồ Tát này trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, tùy tâm
niệm của mình, có thể đem thế giới hẹp làm thế giới rộng, thế giới rộng
làm thế giới hẹp, thế giới cấu uế làm thế giới thanh tịnh, thế giới thanh
tịnh làm thế giới cấu, những thế giới loạn trụ thứ trụ, đảo trụ, chánh
trụ, tất cả vô lượng thế giới như vậy đều có thể đổi làm lẫn nhau.
Hoặc tùy tâm niệm nơi trong một vi trần để một thế giới núi Tu Di, sông,
biển, v.v… mà thể tướng của vi trần kia vẫn như cũ, trong đó tất cả thế
giới đều hiện rõ.
Hoặc tùy tâm niệm ở trong một thế giới thị hiện hai thế giới trang nghiêm,
nhẫn đến bất khả thuyết thế giới trang nghiêm.
Hoặc ở trong một thế giới trang nghiêm thị hiện hai thế giới nhẫn đến bất
khả thuyết thế giới.
Hoặc tùy tâm niệm đem chúng sanh trong bất khả thuyết thế giới để trong
một thế giới. Hoặc đem chúng sanh trong một thế giới để trong bất khả
thuyết thế giới, đối với chúng sanh không làm tổn hại.
Hoặc tùy tâm niệm nơi một lỗ chân lông thị hiện tất cả sự trang nghiêm của
cảnh giới Phật.
Hoặc trong một niệm thị hiện bất khả thuyết thế giới vi trần số thân, mỗi
mỗi thân thị hiện ngần ấy số tay, mỗi mỗi tay đều cầm hằng hà sa số hộp
hoa, trấp hương, tràng phan, bửu cái, cùng khắp mười phương cúng dường đức
Phật. Mỗi mỗi thân lại hiện ngần ấy số đầu, mỗi mỗi đầu hiện ngần ấy số
lưỡi, ở trong mỗi niệm tán thán công đức của Phật cùng khắp mười phương.
Hoặc tùy tâm niệm, ở trong một niệm, khắp cùng mười phương thị hiện thành
chánh giác nhẫn đến niết bàn và cùng cõi nước những sự trang nghiêm.
Hoặc hiện thân mình cùng khắp tam thế mà ở trong thân có vô lượng chư Phật
và quốc độ những sự trang nghiêm, thế giới thanh hoại đều hiển hiện cả.
Hoặc trong một chân lông nơi thân phát ra tất cả luồng gió, nhưng vẫn
không tổn hại chúng sanh.
Hoặc tùy tâm niệm đem vô biên thế giới làm một đại hải, trong biển nầy
hiện đại liên hoa sáng chói tốt đẹp, trùm khắp vô lượng vô biên thế giới,
ở trong đó thị hiện những sự trang nghiêm của cội cây đại Bồ đề, nhẫn đến
thị hiện thành nhứt thiết chủng trí.
Hoặc ở nơi thân mình hiện thập phương thế giới tất cả quang minh ma ni bửu
châu, nhựt nguyệt tinh tú mây chớp các thứ ánh sáng.
Hoặc dùng miệng hà hơi có thể động thập phương vô lượng thế giới, mà chẳng
làm cho chúng sanh có quan niệm kinh sợ.
Hoặc hiện thập phương phong tai, hỏa tai và thủy tai.
Hoặc tùy tâm sở thích của chúng sanh thị hiện sắc thân đầy đủ sự trang
nghiêm.
Hoặc ở nơi tự thân thị hiện Phật thân, hoặc ở Phật thân mà hiện tự thân.
Hoặc ở Phật thânh hiện quốc độ của mình, hoặc ở quốc độ mình mà hiện Phật
thân.
Chư Phật tử ! Pháp Vân Ðịa Bồ Tát này có thể hiện như vậy, và còn vô lượng
trăm ngàn ức na do tha thần lực tự tại.
Bấy giờ trong chúng hội, chư Bồ Tát và Thiên, Long, bát bộ, hộ thế Tứ
Thiên Vương, Thiên Ðế, Phạm Vương, Tịnh Cư Thiên, Ðại Tự Tại Thiên Vương,
các hàng Thiên Tử đều nghĩ rằng : Nếu Bồ Tát mà thần thông trí lực dường
ấy thời đức Phật lại thế nào ?
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng hội, bèn bạch Kim Cang
Tạng Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Nay đại chúng nầy nghe nòi thần thông
trí lực của bực Ðệ Thập Ðịa Bồ Tát mà sanh lòng nghi. Xin Ngài thị hiện
chút ít sự trang nghiêm thần lực của Bồ Tát để dứt lòng nghi cho đại
chúng.
Kim Cang Tạng Bồ Tát liền nhập Nhứt thiết Phật độ thể tánh tam muội.
Lúc Bồ Tát nhập tam muội, tất cả Bồ Tát và đại chúng đều thấy thân mình ở
trong thân của Kim Cang Tạng Bồ Tát, trong đây thấy rõ cõi Ðại Thiên có
bao nhiêu sự trang nghiêm, cả ức kiếp nói cũng chẳng hết. Lại nơi đây thấy
cây Bồ đề chu vi mười muôn Ðại Thiên thế giới, cao trăm muôn Ðại Thiên thế
giới, nhánh là che trùm cũng như vậy. Có tòa sư tử xứng với thân cây. Trên
tòa có đức Phật Nhứt Thiết Trí Thông Vương ngự. Tất cả đại chúng đều thấy
đức Phật ngự, đủ tất cả tướng hảo trang nghiêm dầu đến ức kiếp kể cũng
không hết.
Hiện thần lực như vậy rồi, Kim Cang Tạng Bồ Tát làm cho đại chúng trở lại
như cũ.
Bấy giờ đại chúng được thấy sự chưa từng có cho là rất đặc biệt lạ lùng,
ngồi yên lặng nhứt tâm chiêm ngưỡng Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát bạch Kim Cang Tạng Bồ Tát rằng : "Thưa Phật tử !
Nay tam muội nầy rất là hi hữu, có thế lực lớn, tên gọi là gì ?"
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : " Tam muội này tên là Nhứt thiết Phật độ thể
tánh".
Lại hỏi : " Cảnh giới của tam muội nầy thế nào ?"
Ðáp : " Nếu Bồ Tát tu tam muội nầy thời tùy tâm sở niệm, có thể ở trong
thân mình hiện ta hằng hà sa thế giới vi trần số cõi Phật, lại có thể hiện
hơn số nầy vô lượng vô biên.
Chư Phật tử ! Vì Bồ Tát trụ nơi bực Pháp Vân Ðịa nầy được vô lượng trăm
ngàn môn đại tam muội như vậy, nên thân và thân nghiệp, ngữ và ngữ nghiệp,
ý và ý nghiệp của Bồ Tát nầy đều chẳng thể lường biết được. Thần thông tự
tại quán sát tam thế, cảnh giới của tam muội, cảnh giới của trí huệ, du hí
tất cả môn giải thoát. Biến hóa làm ra, thần lực làm ra, quang minh làm
ra, lược nói nhẫn đến cắt chân, hạ chân tất cả việc làm ta, dầu là bực
Pháp Vương Tử Thiện Huệ Ðịa Bồ Tát cũng đều chẳng biết được.
Chư Phật tử ! Cảnh giới của Pháp Vân Ðịa Bồ Tát lược nói như vậy, nếu nói
rộng ta thời dầu nói suốt vô lượng trăm ngàn vô số kiếp cũng chẳng hết
được.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi : Thưa Phật tử ! Nếu Bồ Tát thần thông cảnh
giới như vậy, thần thông của Phật lại thế nào ?
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : Thưa Phật tử ! Ví như có người lấy được cục đất
nơi bốn châu thiên hạ rồi nói rằng cục đất nầy là nhiều hay là đất của vô
biên thế giới là nhiều ?
Tôi xem lời của Ngài vừa hỏi cũng như vậy.
Trí huệ cảnh giới của đức Như Lai vô biên vô đẳng, thế nào lại đem so sánh
với Bồ Tát.
Lại như lấy chút ít đất nơi bốn châu thiên hạ, thời đâu có thể đem so sánh
với cả bốn châu.
Thần thông trí huệ của bực Pháp Vân Ðịa Bồ Tát, dầu nói suốt vô lượng kiếp
cũng chỉ được một ít phần, huống là Như Lai địa.
Thưa Phật tử ! Nay tôi đem sự chứng minh để Ngài được rõ cảnh giới của Như
Lai.
Giả sử mười phương, mỗi phương đều có vô biên thế giới vi trần số Phật độ,
mỗi Phật độ đều có đông đầy bực Pháp Vân Ðịa Bồ Tát nầy như mía, tre, lau,
lúa, mè, rừng rậm. Tất cả Bồ Tát đều tu hạnh Bồ Tát trong trăm ngàn ức na
do tha kiếp phát sanh trí huệ, đem so sánh với cảnh giới trí huệ của một
đức Như Lai, thời không bằng một phần trăm nhẫn đến không bằng một phần ưu
ba ni sa đà.
Chư Phật tử ! Bực Bồ Tát này trụ trí huệ như vậy chẳng khác đức Như Lai,
thân, ngư,253; chẳng rời tam muội lực của Bồ Tát. Trong vô số kiếp thừa
sự cúng dường tất cả chư Phật. Trong mỗi mỗi kiếp dùng tất cả thứ cúng
dường để dâng lên chư Phật. Ðược thần lực của tất cả chư Phật gia hộ, trí
huệ quang minh lại càng tăng thắng. Ở trong pháp giới, khéo giải thích các
điều vấn nạn, không ai khuất phục được.
Chư Phật tử ! Ví như thợ kim hoàn, dùng chơn kim thật tốt làm đồ trang
sức, dùng báu ma ni cẩn xem trong vàng. Tự Tại Thiên vương tự mang đồ
trang sức này vào mình. Tất cả đồ trang sức của trời người đều không thể
sánh kịp.
Bực Bồ Tát cũng như vậy. Từ Sơ Ðịa đến Cửu Ðịa Bồ Tát, tất cả trí hạnh đều
không sánh kịp được Ðệ Thập Ðịa Bồ Tát.
Trí huệ quang minh của bực Bồ Tát nầy có thể làm cho chúng sanh tăng tiến
đến chứng nhập nhứt thiết chủng trí. Những trí huệ quang minh của các bực
Bồ Tát khác đều không được như vậy.
Chư Phật tử ! Ví như Ma Hê Thủ La Thiên Vương quang minh, hay làm cho thân
của chúng sanh được mát mẻ, quang minh khác không kịp được.
Bồ
Tát ở bực này cũng như vậy, trí huệ quang minh có thể làm cho chúng sanh
đến được thanh lương nhẫn đến trụ nơi nhứt thiết chủng trí. Trí huệ quang
minh của tất cả Thanh Văn Duyên Giác cho đến bực Ðệ Cửu Ðịa Bồ Tát đều
không sánh được.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này đã có thể an trụ trí huệ như vậy. Chư Phật
Thế Tôn lại vì các Ngài mà thuyết tam thế trí, pháp giới sai biệt trí,
biến nhứt thiết thế giới trí, chiếu nhứt thiết thế giới trí, từ niệm nhứt
thiết chúng sanh trí nhẫn đến thuyết chứng đắc nhứt thiết chủng trí.
Trong mười môn ba la mật, bực Bồ Tát này tăng thượng nơi trí ba la mật.
Các môn khác thời tùy sức tùy phần.
Chư Phật tử ! Ðây là nói lược về bực Bồ Tát Ðệ Thập Pháp Vân Ðịa. Nếu nói
rộng thời dầu nói suốt vô lượng vô số kiếp cũng không hết.
Chư Phật tử ! Bồ Tát ở bực nầy phần nhiều làm Ma Hê Thủ La Thiên Vương tự
tại nơi các pháp, hay truyển thọ hạnh ba la mật cho tất cả Thanh Văn Duyên
Giác và tất cả Bồ Tát. Ở giữa pháp chúng không bị khuất phục vì sự chất
vấn.
Tất cả công hạnh như bố thí ái ngữ, lợi hành đồng sự đều chẳng rời niệm
Phật, nhẫn đến chẳng rời niệm viên mãn nhứt thiết chủng trí.
Bồ
Tát nầy lại tự nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng sanh tôi sẽ là thượng thủ, là
thắng, nhẫn đến là chỗ y tựa cho bực nhứt thiết chủng trí.
Nếu Bồ Tát này tăng gia tinh tấn, trong khoảng một niệm được mười bất khả
thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số tam muội, nhẫn đến thị
hiện ngần ấy số Bồ Tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng
để thị hiện thời hơn số trên đây, cho đến trăm ngàn ức no do tha kiếp
chẳng thể đếm biết được.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này lúc hành tướng thập địa thứ đệ hiện tiền thời
có thể chứng nhập nhứt thiết chủng trí.
Ví
như ao A Nậu Ðạt là nguồn nước của các sông lớn chảy khắp Diêm Phù Ðề,
nước ao đã không khô cạn mà lại nhiều thêm, nhẫn đến chảy vào biển làm cho
nước nơi đây được sung mãn.
Cũng vậy, Bồ Tát từ tâm Bồ đề lưu xuất thiện căn đại nguyện, dùng bốn
nhiếp pháp nhiếp độ tất cả chúng sanh đã không cùng tận lại thêm tăng
trưởng, nhẫn đến vào nơi biển nhứt thiết chủng trí và làm cho nơi đây được
sung mãn.
Chư Phật tử ! Bồ Tát thập địa, vì do Phật trí mà có sai, như nhơn đại địa
mà có mười núi lớn. Những là Tuyến Sơn, Hương sơn, Tý Ðà Lê Sơn, Thần Tiên
Sơn, Do Càn Ðà Sơn. Mã Nhĩ Sơn, Ni Dân Ðà La Sơn, Chước Yết La Sơn, Kế Ðô
Mạt Ðể Sơn, Tu Di Sơn.
Chư Phật tử ! Như Hương Sơn, tất cả thứ hương đều chứa đủ trong đó, lấy
không thể hết. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Ly Cấu Ðịa, tất cả giới hạnh oai
nghi của Bồ Tát đều ở cả nơi đây, nói không thể hết.
Chư Phật tử ! Như Tỳ Ða Lê Sơn thuần bằng chất báu, tất cả bửu chất châu
ngọc đủ cả nơi đây, lấy không thể hết. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Phát Quang
Ðịa, tất cả thế gian thiền định, thần thông, giải thoát tam muội, tam ma
bát đề đủ cả ở bực nầy, nói không hết được.
Chư Phật tử ! Như Thần Tiên Sơn thuần bằng châu báu, ngũ thông Thần Tiên
luôn có trong đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Diệm Huệ Ðịa, tất
cả trí huệ thù thắng đều đủ nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử ! Như Do Càn Ðà Sơn thuần bằng chất báu, Thần Dạ Xoa đều ở
trong đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Nan Thắng Ðịa, tất cả tự
tại như ý thần thông đều ở trong đây nói chẳng thể hết.
Chư Phật tử ! Như Mã Nhĩ Sơn thuần bằng chất báu, trong đây đủ tất cả trái
cây, lấy không hết được. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Hiện Tiền Ðịa, quả chứng
nhập lý duyên khởi Thanh Văn đều ở trong đây nói không hết được.
Như Ni Dân Ðà La Sơn thuần bằng chất báu, đại lực Long Thần đều ở nơi đây
không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát ở bực Viễn Hành Ðịa, phương tiện trí huệ
Ðộc Giác quả chứng đều đủ nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử ! Như Chước Yết La Sơn thuần bằng chất báu, chúng Tự Tại đều ở
trong núi nầy không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Bất Ðộng Ðịa, tất
cả Bồ Tát tự tại sai biệt thế giới đều ở trong đây nói không hết được.
Chư Phật tử ! Như Kế Ðô Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức A Tu La Vương
đều ở trong đó không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Thiện Huệ Ðịa tất
cả trí hành sanh diệt thế gian đều ở nơi đây nói không thể hết.
Chư Phật tử ! Như Tu Di Sơn thuần bằng chất báu, đại oai đức chư Thiên đều
ở trong đây không cùng tận. Cũng vậy, Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa, Phật
trí lực, vô sở úy, bất cộng pháp, tất cả Phật sự đều ở trong đây tuyên nói
không hết được.
Chư phật tử ! Mười Bửu Sơn nầy đồng ở trong đại hải mà có tên sai khác.
Thập Ðịa Bồ Tát cũng như vậy, đồng ỡ trong nhứt thiết chủng trí mà có danh
hiệu sai khác.
Chư Phật tử ! Ví như đại hải do có mười tướng mà được gọi là đại hải không
bị đổi tên. Ðây là mười tướng : một là tuần tự sâu lần ; hai là chẳng chứa
tử thi ; ba là các dòng nước chảy vào đều mất bổn danh ; bốn là phổ đồng
một vị ; năm là có vô lượng trân bửu ; sáu là không ai đến tận đây được ;
bảy là rộng lớn vô lượng ; tám là loài thân to lớn ở ; chín là thủy triều
chẳng quá hạn ; mười là chứa khắp hết nước mưa to mà vẫn không tràn.
Cũng vậy, Bồ Tát hạnh do mười tướng mà được gọi là Bồ Tát hạnh không bị
đổi tên. Ðây là mười tướng : Hoan hỉ Ðịa xuất sanh đại nguyện lần lần càng
sâu : Ly Cấu Ðịa chẳng chứa tất cả thây phá giới ; Pháy Quang Ðịa bỏ rời
sanh tự giả của thế gian ; Diệm Huệ Ðịa đồng một vị với công đức của Phật
; Nan Thắng Ðịa xuất sanh vô lượng phương tiện thần thông làm thành những
trân bửu của thế gian ; Hiện Tiền Ðịa quán sát lý duyên sanh rất sâu ;
Viễn Hành Ðịa giác huệ rộng lớn khéo quán sát ; Bất Ðộng Ðịa thị hiện sự
trang nghiêm rộng lớn ; Thiện Huệ Ðịa được thâm giải thoát du hành thế
gian biết đúng như thiệt chẳng quá hạn ; Pháp Vân Ðịa có thể lãnh thọ tất
cả đại pháp của Như Lai không hề nhàm đủ.
Chư Phật tử ! Ví như châu đại ma ni có mười đặc tánh hơn hẳn các thứ châu
báu khác. Ðây là mười đặc tánh : Một là xuất sanh từ đại hải ; hai là thợ
khéo trau dồi ; ba là tròn đầy không thuyết ; bốn là trong sạch không bợn
; năm là trong ngoài sáng suốt ; sáu là dùi lỗ rất khéo ; bảy là xỏ bằng
dây báu ; tàm là đặt trên tràng cao bằng lưu ly ; chín là phóng ra đủ loại
ánh sáng chiếu khắp nơi ; mười là có thể theo ý nhà vua ma mưa các loại
châu báu và vật dụng làm thỏa mãn tâm nguyện của nhơn dân.
Chư Phật tử ! Bồ Tát đây cũng như vậy, vì có mười sự nên hơn các bực thánh
khác. Ðây là mười sự : Một là phát nhứt thiết trí ; hai là trì giới đầu đà
chánh hạnh sáng sạch ; ba là các thiền tam muội viên mãn không khuyết ;
bốn là đạo hạnh thanh bạch lìa các cầu uế ; năm là phương tiện thần thông
trong ngoài sáng suốt ; sáu là duyên khởi trí huệ hay khéo dùi xỏ ; bảy là
xâu bằng giây phương tiện trí ; tám là để trên tràng cao tự tại ; chín là
quán hạnh chúng sanh mà phóng quang minh văn trì ; mười là thọ chức Phật
trí dự ở hàng Phật có thể vì chúng sanh mà rộng làm Phật sự.
Chư Phật tử ! Ðây là Bồ Tát hạnh pháp môn phẩm nhóm họp công đức nhứt
thiết chủng, nhứt thiết trí. Nếu chúng sanh chẳng vun trồngthiện căn thời
chẳng được nghe.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi : "Nghe pháp môn nầy thời được bao nhiêu
phước ?".
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói : "Như phước đức của nhứt thiết trí tập họp, nghe
pháp môn này phước đức cũng như vậy".
Vì
chẳng phải nghe công đức pháp môn này mà có thể tin hiểu thọ trì đọc tụng,
huống là tinh tấn tu hành đúng như lời.
Do
đây nên biết rằng cần phải được nghe tập họp nhứt thiết trí công đức pháp
môn này mới có thể tin hiểu thọ trì tu tập, rồi sau mới đến bực nhứt thiết
trí.
Bấy giờ do thần lực của Phật và do pháp như vậy, nên mười phương đều có
mười ức Phật độ vi trần số thế giới chấn động đủ mười tám tướng. Những là
động, biến động, đẳng biến động nhẫn đến kích, biến kích, đẳng biến kích.
Trên không khắp nơi mưa thiên hoa, thiên man, thiên y, thiên bửu trang
nghiêm, thiên tràng phan, thiên tắng cái. Nhạc trời hòa tấu âm thanh hòa
nhã, đồng thời phát ra tiếng ca ngợi công đức của bực nhứt thiết trí.
Tất cả thế giới khắp mười phương cũng đồng diễn thuyết pháp trên đây như ở
Vương cung Tha Hóa Tự Tại Thiên nơi thế giới này.
Lại do thần lực của Phật, ngoài mười ức Phật sát vi trần số thế giới ở
mười phương, có mười ức Phật sát vi trần số Bồ Tát đến đại hội này đồng
nói như vầy : "Lành thay ! Lành thay ! Kim Cang Tạng Bồ Tát hay nói pháp
này. Chúng tôi cũng đồng tên Kim Cang Tạng, ở thế giới khác nhau nhưng
đồng tên Kim Cang Ðức, Phật đồng hiệu Kim Cang Tràng. chúng tôi ở tại bổn
quốc đều thừa oai lực của Như Lai mà nói ph1p này, hội chúng đều đồng như
đây, văn tự cú nghĩa cũng không khác. Chúng tôi đều nương thần lực của
Phật đồng đến đây để chứng minh cho ngài".
Kim Cang Tạng Bồ Tát quan sát tất cả hội chúng khắp mười phương pháp giới,
muốn tán thán phát tâm nhứt thiết chủng trí, muốn thị hiện cảnh giới Bồ
Tát, muốn tu tập hạnh lực của Bồ Tát, muốn thuyết nhiếp thủ đạo nhứt thiết
chủng trí, muốn trừ diệt tất cả cấu nhiễm thế gian, muốn ban cho nhứt
thiết trí, muốn thị hiện sự trang nghiêm của trí bất tư nghì, muốn hiển
thị những công đức của tất cả Bồ Tát, muốn cho ý nghĩa của thập địa đây
càng thêm sáng tỏ, nên thừa thần lực của Phật mà nói kệ rằng :
Tâm đó tịch diệt hằng điều thuận
Bình đẳng vô ngại như hư không
Lìa thân cấu trược trụ nơi đạo
Thắng hạnh này, Phật tử nên nghe.
Trăm ngàn ức kiếp tu điều lành
Cúng dường vô lượng vô biên Phật
Cũng cúng Thanh Văn Ðộc Giác Tăng
Vì lợi ích chúng sanh phát tâm lớn.
Tinh cần trì giới thường nhu nhẫn
Tàm quý phước trí đều đầy đủ
Chí cầu Phật trí tu huệ lớn
Mong được thập lực nên phát tâm.
Cúng dường khắp tam thế chư Phật
Nghiêm tịnh khắp mười phương quốc độ
Biết rõ các pháp đều bình đẳng
Vì lợi ích chúng sanh phát tâm lớn.
Trụ bực Sơ Ðịa sanh tâm này
Rời hẳn điều ác thường hoan hỷ
Nguyện lực rộng tu những pháp lành
Do lòng bi mẫn nhập Nhị Ðịa.
Giới, văn đầy đủ thương chúng sanh
Rửa trừ nhơ bợn tâm sáng sạch
Quán sát thế gian lửa tham sân
Bực trí quảng đại lên Tam Ðịa.
Tất cả ba cõi đều vô thường
Như trúng tên độc thân đau khổ
Nhàm bỏ hữu vi cầu Phật pháp
Bực trí quảng đại nhập Tứ Ðịa.
Niệm huệ đầy đủ được đạo trí
Cúng dường trăm ngàn vô lượng Phật
Thường quán những công đức tối thắng
Bực này tiến nhập Nan Thắng Ðịa.
Trí huệ phương tiện khéo quán sát
Thị hiện mọi cách cứu chúng sanh
Cúng dường Thập Lực Vô Thượng Tôn
Tiến lên vô sanh Hiện Tiền Ðịa.
Thế gian khó biết mà biết được
Chẳng thọ ngã nhơn lìa có không
Pháp tánh bổn tịch, tùy duyên chuyển
Ðược diệu pháp này lên Thất Ðịa.
Trí huệ phương tiện tâm rộng lớn
Khó làm, khó phục, khó biết rõ
Dầu chứng tịch diệt siêng tu tập
Lên bực như không Bất Ðộng Ðịa.
Phật khuyên khiến từ tịch diệt khởi
Rộng tu trí hạnh đủ các môn
Ðủ mười tự tại quán thế gian
Do đây được lên Thiện Huệ Ðịa.
Dùng trí vi diệu quán chúng sanh
Tâm hành, nghiệp, hoặc những rừng rậm
Vì muốn độ họ vào Phật đạo
Nên nói thắng nghĩa tạng của Phật,
Tuần tự tu hành đủ hạnh lành
Nhẫn đến Cửu Ðịa gồm phước huệ
Thường cầu pháp tối thượng của Phật
Ðược Phật trí thủy dùng quán đảnh,
Chứng được vô số môn tam muội
Cũng biết rành được công lực kia
Tam muội sau cùng tên Thọ Chức
Trụ cảnh quảng đại luôn bất động.
Lúc Bồ Tát được tam muội này
Ðại bửu liên hoa bỗng nhiên hiện
Thân ngồi trên đó xứng cùng hoa
Phật tử vây quanh đồng chiêm ngưỡng,
Phóng đại quang minh trăm ngàn ức
Diệt trừ tất cả khổ chúng sanh
Lại nơi trên đảnh phóng quang minh
Chiếu khắp mười phương các Phật hội,
Dừng giữa hư không làm lưới sáng
Cúng dường Phật xong, từ chân vào
Tức thời chư Phật đều rõ biết :
Nay Bồ Tát này lên Thập Ðịa.
Mười phương Bồ Tát đến quán sát
Ðại sĩ thọ chức phóng quang minh
Chặng mày chư Phật cũng phóng quang
Chiếu khắp mọi nơi, nhập vào đảnh,
Mười phương thế giới đều chấn động
Tất cả địa ngục đều diệt khổ
Bấy giờ chư Phật trao chức cho
Như Chuyển Luân Vương phong Thái Tử.
Nếu được chư Phật quán đảnh cho
Bồ Tát này gọi là Pháp Vân Ðịa
Trí huệ thêm lớn không ngằn mé
Khai ngộ tất cả khắp thế gian.
Dục giới, sắc giới, vô sắc giới,
Hữu số, vô số và hư không
Tất cả như vậy đều thông đạt.
Tất cả hóa dụng oai lực lớn
Chư Phật gia trì trí vi tế
Kiếp số bí mật, mao đạo trí,
Ðều hay quán sát đúng như thiệt.
Thọ sanh, xả tục, thành chánh đạo
Chuyển diệu pháp luân nhập Niết Bàn
Nhẫn đến tịch diệt pháp giải thoát
Và chỗ chưa nói đều biết được.
Bồ Tát trụ bực Pháp Vân Ðịa
Ðầy đủ niệm lực trì Phật pháp,
Ví như đại hải nhận nước mưa
Bực này thọ pháp cũng như vậy.
Mười phương vô lượng các chúng sanh
Ðều được văn trì thọ Phật pháp,
Nơi một đức Phật được nghe pháp
Hơn cả số trên vô lượng số.
Do bổn trí nguyện oai thần lực
Một niệm khắp cùng mười phương cõi
Rưới mưa cam lồ diệt phiền não
Do đây Phật nói hiệu Pháp Vân.
Thần thông thị hiện khắp mười phương
Vượt hơn cảnh giới trời người thảy
Lại hơn số này vô lượng ức
Thế trí suy lường ắt mê loạn.
Trí lượng công đức một cất chân
Ðến bực Cửu Ðịa vẫn chẳng biết,
Huống là Thanh Văn Bích Chi Phật
Cùng với tất cả loài chúng sanh !
Bực Bồ Tát này cúng dường Phật
Cùng khắp cõi nước ở mười phương
Cũng cúng dường thánh chúng hiện tiền
Trang nghiêm đầy đủ Phật công đức.
Trụ ở bực này lại vì nói
Tam thế pháp giới trí vô ngại
Chúng sanh, quốc độ đều cũng vậy
Nhẫn đến tất cả Phật công đức.
Bồ Tát thập Ðịa trí quang minh
Khai thị chúng sanh : đường chánh pháp
Sáng Tự Tại Thiên trừ thế ám
Trí quang diệt ám cũng như vậy.
Bực này thường làm vua ba cõi
Khéo hay diễn thuyết pháp tam thừa
Vô lượng tam muội một niệm được
Ðược thấy chư Phật cũng như vậy.
Nay tôi lược nói Thập Ðịa rồi
Nếu muốn nói rộng không thể hết.
Các địa như vậy trong Phật trí
Như mười sơn vương cao vọi vọi :
Sơ Ðịa nghề nghiệp vô cùng tận
Ví như Tuyết Sơn chứa dược thảo,
Nhị Ðịa giới văn chư Hương Sơn,
Tam Ðịa : Tỳ Sơn phát diệu hoa,
Diệm Huệ đạo bửu vô cùng tận
Ví như Tiên Sơn, chư Tiên ở,
Ngũ Ðịa thần thông như Càn Sơn,
Lục Ðịa : Mã Sơn đủ loại trái,
Thất Ðịa huệ lớn như Ni Sơn,
Bát Ðịa tự tại như Luân Vi,
Cửu Ðịa vô ngại như Kế Ðô,
Thập địa đủ đức như Tu di,
Sơ Ðịa : nguyện lớn, Nhị : trì giới,
Tam Ðịa ; công đức, Tứ : chuyên nhứt,
Ngũ Ðịa : vi diệu, Lục : thậm thâm,
Thất Ðịa : đại huệ, Bát : trang nghiêm,
Cửu Ðịa tư duy nghĩa vi diệu
Vượt hơn tất cả đạo thế gian,
Thập Ðịa thọ trì pháp chư Phật,
Biển hạnh như vậy không cạn hết.
Mười hạnh xuất thế : phát tâm trước,
Trì giới thứ hai, thiền thứ ba,
Thứ tư hạnh tịnh, năm : thành tựu,
Thứ sáu : duyên sanh, bảy : xâu suốt,
Thứ tám : để trên tràng kim cang,
Thứ chín : quán sát những trù lâm,
Thứ mười quán đảnh tùy vương ý,
Ðức bửu như vậy lần thanh tịnh.
Mười phương cõi nước nghiền làm bụi
Một niệm biết được số bao nhiêu,
Lông đo không gian biết số lượng,
Ức kiếp nói "Ðịa" không thể hết.
Hết Tập 4
--- o0o ---
Mục
Lục
Phẩm
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06