QUYỂN THỨ 97
HỘI THỨ NHẤT
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt giới pháp tánh, chẳng nên cẩu nơi vị
giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ
pháp tánh; chẳng nên cầu rời thiệt giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời vị
giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì
hoặc thiệt giới pháp tánh, hoặc vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh
ra các thọ pháp tánh; hoặc rời thiệt giới pháp tánh, hoặc rời vị giới cho
đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát,
hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế, đều chẳng tương ưng
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến
chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật
đa, chẳng thiệt giới pháp tánh, chẳng vị giới, thiệt thức giới và thiệt
xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thiệt giới
pháp tánh, chẳng rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ
pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá
được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng thiệt giới pháp tánh, chẳng vị giới cho đến thiệt xúc
làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thiệt giới pháp tánh, chẳng
rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên
Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt
giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh
ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời thiệt giới pháp tánh, chẳng nên
cầu rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát
nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi
xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ
pháp tánh; chẳng nên cầu rời thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời xúc
giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì
hoặc thân giới pháp tánh, hoặc xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra
các thọ pháp tánh; hoặc rời thân giới pháp tánh, hoặc rời xúc giới cho đến
thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc
Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô
kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.
Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng thân giới pháp tánh, chẳng xúc giới, thân thức giới và thân xúc,
thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thân giới pháp
tánh, chẳng rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp
tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được.
Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la
mật đa, chẳng thân giới pháp tánh, chẳng xúc giới cho đến thân xúc làm
duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thân giới pháp tánh, chẳng rời
xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên Bồ
tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thân giới
pháp tánh, chẳng nên cầu nơi xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra
các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu
rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp
giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh;
chẳng nên cầu rời ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc ý giới pháp
tánh, hoặc pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh;
hoặc rời ý giới pháp tánh, hoặc rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ pháp tánh; hoặc rời ý giới pháp tánh, hoặc rời pháp giới cho
đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc
Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô
kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.
Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng ý giới pháp tánh, chẳng pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời ý giới pháp tánh, chẳng rời
pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì
tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng
khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng ý giới
pháp tánh, chẳng pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp
tánh; chẳng rời ý giới pháp tánh, chẳng rời pháp giới cho đến ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp
giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời
ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi địa giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi thủy
hỏa phong không thức giới pháp tánh; chẳng nên cầu rời địa giới pháp tánh,
chẳng nên cầu rời thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì
hoặc địa giới pháp tánh, hoặc thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh;
hoặc rời địa giới pháp tánh, hoặc rời thủy hỏa phong không thức giới pháp
tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như
thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô
sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng
nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở
hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới pháp tánh, chẳng thủy hỏa phong
không thức giới pháp tánh; chẳng địa giới pháp tánh, chẳng thủy hỏa phong
không thức giới pháp tánh; chẳng rời địa giới pháp tánh, chẳng rời thủy
hỏa phong không thức giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là
tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma
ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới pháp tánh, chẳng thủy
hỏa phong không thức giới pháp tánh; chẳng rời địa giới pháp tánh, chẳng
rời thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở
hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi địa giới pháp tánh, chẳng nên
cẩu nơi thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh; chẳng nên cầu rời địa
giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời thủy hỏa phong không thức giới pháp
tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi khổ thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tập
diệt đạo thánh đế pháp tánh; chẳng nên cầu rời khổ thánh đế pháp tánh,
chẳng nên cầu rời tập diệt đạo thánh đế pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc khổ
thánh đế pháp tánh, hoặc tập diệt đạo thánh đế pháp tánh; hoặc rời khổ
thánh đế pháp tánh, hoặc rời tập diệt đạo thánh đế pháp tánh; hoặc Bồ tát
Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng
tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng
hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng,
chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng khổ thánh đế pháp tánh, chẳng tập diệt đạo thánh đế
pháp tánh; chẳng rời khổ thánh đề pháp tánh, chẳng rời tập diệt đạo thánh
đế pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá
được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng khổ thánh đế pháp tánh, chẳng tập diệt đạo thánh đế
pháp tánh; chẳng rời khổ thánh đế pháp tánh, chẳng rời tập diệt đạo thánh
đế pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng
nên cầu nơi khổ thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tập diệt đạo thánh
đế pháp tánh; chẳng nên cầu rời khổ thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu rời
khổ tập diệt đạo thánh đế pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh pháp tánh, chẳng nên cầu nơi hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ
ưu não pháp tánh; chẳng nên cầu rời vô minh pháp tánh, chẳng nên cầu rời
hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc vô
ming pháp tánh, hoặc hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh;
hoặc rời vô minh pháp tánh, hoặc rời cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não
pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất
cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc
chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối,
đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma
ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vô minh pháp tánh, chẳng hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ
ưu não pháp tánh; chẳng rời vô minh pháp tánh, chẳng rời hành cho đến lão
tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh
vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha
tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vô minh pháp tánh, chẳng hành cho
đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh; chẳng rời vô minh pháp tánh,
chẳng rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh. Vậy nên Bồ
tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh pháp
tánh, chẳng nên cầu nơi hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh;
chẳng nên cầu rời vô minh pháp tánh, chẳng nên cầu rời hành cho đến lão tử
sầu thán khổ ưu não pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không pháp tánh, chẳng nên cầu nơi ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không pháp tánh; chẳng nên cầu rời nội không pháp tánh, chẳng nên cầu rời
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc
nội không pháp tánh, hoặc ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp
tánh; hoặc rời nội không pháp tánh, hoặc rời ngoại không cho đến vô tánh
tự tánh không pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa.
Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng,
chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối
chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi
Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nội không pháp
tánh, chẳng ngoại không, nội ngoại không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không,
tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc
không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không pháp tánh;
chẳng rời nội không pháp tánh, chẳng rời ngoại không cho đến vô tánh tự
tánh không pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu
chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nội không pháp tánh, chẳng ngoại không cho đến
vô tánh tự tánh không pháp tánh; chẳng rời nội không pháp tánh, chẳng rời
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha
tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không pháp tánh,
chẳng nên cầu nơi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh;
chẳng nên cầu rời nội không pháp tánh, chẳng nên cầu rời ngoại không cho
đến vô tánh tự tánh không pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp
giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới
pháp tánh; chẳng nên cầu rời chơn như pháp tánh; chẳng nên cầu rời chơn
như pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp
tánh. Sở vì sao? Vì hoặc chơn như pháp tánh, hoặc pháp giới cho đến bất tư
nghì giới pháp tánh; hoặc rời chơn như pháp tánh, hoặc rời pháp giới cho
đến bất tư nghì giới pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la
mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương
ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu
đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều
Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng chơn như pháp
tánh, chẳng pháp giới, chẳng pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới pháp tánh; chẳng rời chơn như pháp tánh, chẳng rời
pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế
đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ
tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng chơn như pháp tánh,
chẳng pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh; chẳng rời chơn như
pháp tánh, chẳng rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh. Vậy nên
Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như
pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh;
chẳng nên cầu rời chơn như pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến
bất tư nghì giới pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng nên cầu
nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp
tánh; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng nên cầu rời
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh. Sở
vì sao? Vì hoặc bố thí Ba la mật đa pháp tánh, hoặc tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh; hoặc rời bố thí Ba la
mật đa, hoặc rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật
đa pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu
tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu
sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bố thí Ba la mật đa pháp
tánh, chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa
pháp tánh; chẳng rời bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng rởi tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh. Sở vì sao? Vì
tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng
khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bố thí
Ba la mật đa pháp tánh, chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát
nhã Ba la mật đa pháp tánh; chẳng rời bố thí Ba la mật đa, chẳng rời tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh. Vậy nên
Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí Ba
la mật đa pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa
pháp tánh, chẳng nên cầu rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát
nhã Ba la mật đa pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn
vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn tĩnh lự pháp
tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh. Sở vì
sao? Vì hoặc bốn tĩnh lự pháp tánh, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định
pháp tánh; hoặc rời bốn tĩnh lự pháp tánh, hoặc rời bốn vô lượng, bốn vô
sắc định pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu
cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng
bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; chẳng rời bốn tĩnh lự pháp tánh,
chẳng rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả
như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá
được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn tĩnh lự
pháp tánh, chẳng bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; chẳng rời bốn
tĩnh lự pháp tánh, chẳng rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh. Vậy
nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn
tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp
tánh; chẳng nên cầu rời bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô
lượng, bốn vô sắc định pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh, chẳng nên cầu rời
tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc tám giải thoát pháp tánh,
hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh, hoặc rời tám
giải thoát pháp tánh, hoặc rời tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu
tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu
sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám giải thoát pháp tánh,
chẳng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh, chẳng rời
tám giải thoát pháp tánh, chẳng rời tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu
chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám giải thoát pháp tánh, chẳng tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh; chẳng rời tám giải thoát pháp
tánh, chẳng rời tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh.
Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi
tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ pháp tánh; chẳng nên cầu rời tám giải thoát pháp tánh,
chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu
rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc
bốn niệm trụ pháp tánh, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp
tánh; hoặc rời bốn niệm trụ pháp tánh, hoặc rời bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa.
Nếu cầu tất cả như thế chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm trụ pháp tánh,
chẳng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi pháp tánh; chẳng rời bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng rời
bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả
như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá
được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm
trụ pháp tánh, chẳng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh;
chẳng rời bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng rời bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la
mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn
chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn niệm
trụ pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi
pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên không cầu nơi không giải thoát môn pháp tánh, chẳng
nên cầu nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng nên cầu
rời không giải thoát môn pháp tánh, chẳng nên cầu rời vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc không giải thoát môn pháp
tánh, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; hoặc rời không
giải thoát môn pháp tánh, hoặc rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp
tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như
thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô
sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng
nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở
hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng không giải thoát môn pháp tánh, chẳng vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng rời không giải thoát môn
pháp tánh, chẳng rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh. Sở vì
sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu
chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng
không giải thoát môn pháp tánh, chẳng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
pháp tánh; chẳng rời không giải thoát môn pháp tánh, chẳng rời vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát
nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi không giải thoát môn pháp tánh, chẳng
nên cầu nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng nên cầu
rời không giải thoát môn pháp tánh, chẳng nên cầu rời vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi sáu
thần thông pháp tánh; chẳng nên cầu rời năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu
rời sáu thần thông pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc năm nhãn pháp tánh, hoặc
sáu thần thông pháp tánh; hoặc rời năm nhãn pháp tánh, hoặc rời sáu thần
thông pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu
tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu
sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năm nhãn pháp tánh, chẳng
sáu thần thông pháp tánh; chẳng rời năm nhãn pháp tánh, chẳng rời sáu thần
thông pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng
khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát
nhã Ba la mật đa, chẳng năm nhãn pháp tánh, chẳng sáu thần thông pháp
tánh; chẳng rời năm nhãn pháp tánh, chẳng rời sáu thần thông pháp tánh.
Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi
năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi sáu thần thông pháp tánh; chẳng nên
cầu rời năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu rời sáu thần thông pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên cầu nơi
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng pháp tánh; chẳng nên cầu rời Phật mười lực pháp tánh,
chẳng nên cầu rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp
tánh, Sở vì sao? Vì hoặc Phật mười lực pháp tánh, hoặc bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; hoặc rời Phật mười lực pháp
tánh, hoặc rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh;
hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế
đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô
sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng
nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở
hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Phật mười lực pháp tánh, chẳng bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng pháp tánh; chẳng rời Phật mười lực pháp tánh, chẳng rời bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như
thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được,
nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Phật mười lực
pháp tánh, chẳng bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp
tánh; chẳng rời Phật mười lực pháp tánh, chẳng rời bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên
cầu nơi Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; chẳng nên cầu rời Phật mười lực
pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu
nơi tánh hằng trụ xả pháp tánh; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất pháp
tánh, chẳng nên cầu rời tánh hằng trụ xả pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc
pháp vô vong thất pháp tánh, hoặc tánh hằng trụ xả pháp tánh; hoặc rời
pháp vô vong thất pháp tánh, hoặc rời tánh hằng trụ xả pháp tánh; hoặc Bồ
tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng
tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng
hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng,
chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng tánh hằng trụ xả
pháp tánh; chẳng rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng rời tánh hằng trụ
xả pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá
được . Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng tánh hằng trụ xả
pháp tánh; chẳng rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng rời tánh hằng trụ
xả pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng
nên cầu nơi pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tánh hằng trụ
xả pháp tánh; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu
rời tánh hằng trụ xả pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất thiết trí pháp tánh, chẳng nên cầu nơi
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh; chẳng nên cầu rời nhất
thiết trí pháp tánh, chẳng nên cầu rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc nhất thiết trí pháp tánh, hoặc đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh; hoặc rời nhất thiết trí pháp tánh,
hoặc rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha
tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến
chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật
đa, chẳng nhất thiết trí pháp tánh, chẳng đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí pháp tánh; chẳng rời nhất thiết trí pháp tánh, chẳng rời đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là
tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma
ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhất thiết trí pháp tánh, chẳng
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh; chẳng rời nhất thiết trí,
chẳng rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma
ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất thiết trí pháp
tánh, chẳng nên cầu nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh;
chẳng nên cầu rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng nên cầu
nơi tất cả tam ma địa môn pháp tánh; chẳng nên cầu rời tất cả đà la ni môn
pháp tánh, chẳng nên cầu rời tất cả tam ma địa môn pháp tánh. Sở vì sao?
Vì hoặc tất cả đà la ni môn pháp tánh, hoặc tất cả tam ma địa môn pháp
tánh; hoặc rời tất cả đà la ni môn pháp tánh, hoặc rời tất cả tam ma địa
môn pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu
tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu
sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô
đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tất cả đà la ni môn pháp
tánh, chẳng tất cả tam ma địa môn pháp tánh; chẳng rời tất cả đà la ni môn
pháp tánh, chẳng rời tất cả tam ma địa môn pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả
như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá
được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tất cả đà
la ni môn pháp tánh, chẳng tất cả tam ma địa môn pháp tánh; cẳng rời tất
cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng rời tất cả tam ma địa môn pháo tánh. Vậy
nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tất
cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tất cả tam ma địa môn pháp
tánh; chẳng nên cầu rời tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng nên cầu rời
tất cả tam ma địa môn pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu pháp tánh, chẳng
nên cầu rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc Dự
lưu pháp tánh, hoặc Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh; hoặc rời Dự
lưu pháp tánh, hoặc rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh; hoặc Bồ
tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng
tương ưng chẳng phải chẳng tương, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu
kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ
gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng Dự lưu pháp tánh, chẳng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp
tánh; chẳng rời Dự lưu pháp tánh, chẳng rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá
được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng Dự lưu pháp tánh, chẳng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
pháp tánh; chẳng rời Dự lưu pháp tánh, chẳng rời Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng nên cầu nơi Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Nhất lai, Bất hoàn,
A la hán pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu rời
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hánh Bát nhã Ba
la mật đa, chẳng nên cầu nơi Dự lưu hướng , Dự lưu quả pháp tánh, chẳng
nên cầu nơi Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la
hán hướng A la hán quả pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu hướng Dự lưu
quả pháp tánh, chẳng nên cầu rời Nhất lai hướng cho đến A la hán quả pháp
tánh. Sở vì sao? Vì hoặc Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, hoặc Nhất lai
hướng cho đến A la hán quả pháp tánh; hoặc rời Dự lưu hướng Dự lưu quả
pháp tánh, hoặc rời Nhất lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh; hoặc Bồ
tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng
tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng
hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng,
chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành bát nhã
Ba la mật đa, chẳng Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng Nhất lai
hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán
quả pháp tánh; chẳng rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng rởi Nhất
lai hướng cho đến a la hán quả pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều
là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát
Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Dự lưu hướng dự lưu quả pháp
tánh, chẳng Nhất lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh; chẳng rời Dự
lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng rời Nhất lai hướng cho đến a la hán
quả pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng nên cầu nơi Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng nên cầu nơi
Nhất lai hướng cho đến a la hán quả pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu
hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng nên cầu rởi Nhất lai hướng cho đến A la
hán quả pháp tánh.
Nguồn: www.quangduc.com
PHẨM CẦU BÁT NHÃ
THỨ 27 – 9