Hội Thứ Nhất
Phẩm So
Lường Công Đức
Thứ 30 – 55
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường; chẳng
nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa hoặc
thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la mật đa, tự tánh bố thí
Ba la mật đa không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la
mật đa, tự tánh tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa không. Tự tánh bố
thí Ba la mật đa đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tịnh giới cho đến Bát
nhã Ba la mật đa đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức
An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, bố thí Ba la mật đa
chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; tịnh giới cho
đến Bát nhã Ba la mật đa đều chẳng khá được, thường vô thường kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bố thí Ba la mật đa
thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu an
nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc
vui hoặc khổ; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát
nhã ba la mật đa hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la mật đa, tự
tánh bố thí Ba la mật đa không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
Bát nhã Ba la mật đa, tự tánh tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa
không. Tự tánh bố thí Ba la mật đa đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh
tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây,
bố thí Ba la mật đa chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được;
tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa đều chẳng khá được, vui cùng khổ
kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bố thí Ba la
mật đa thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu an
nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc
ngã hoặc vô ngã; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Bát
nhã Ba la mật đa hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la mật đa,
tự tánh bố thí Ba la mật đa không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, Bát nhã
Ba la mật đa, tự tánh tịnh giới cho đến Bát nhã ba la mật đa không. Tự
tánh bố thí Ba la mật đa đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tịnh giới cho
đến Bát nhã Ba la mật đa đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, bố thí Ba la
mật đa chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được; tịnh giới cho
đến Bát nhã Ba la mật đa đều chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá
được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bố thí Ba la mật đa thảy khá
được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế
là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
Bát nhã Ba la mật đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la
mật đa, tự tánh bố thí Ba la mật đa không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, tự tánh tinh tiến cho đến Bát nhã ba la mật
đa không. Tự tánh bố thí Ba la mật đa đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh
tịnh giới cho đến Bát nhã ba la mật đa đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây,
bố thí Ba la mật đa chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được;
tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh
kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bố thí Ba la
mật đa thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng
tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán nội không hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến
dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không, hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì nội không, tự tánh nội
không không; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không; tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không
không. Tự tánh nội không đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải
tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, nội không
chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; ngoại không cho
đến vô tánh tự tánh không đều chẳng khá được, thường vô thường kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nội không thảy khá
được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu an nhẫn như
thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nội không hoặc vui hoặc
khổ; chẳng nên quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không,
tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh
không, vô tánh tự tánh không hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì nội không;
tự tánh nội không không; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không, tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự
tánh không không. Tự tánh nội không đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây,
nội không chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được; ngoại
không cho đến vô tánh tự tánh không đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia
cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nội không thảy
khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế
là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nội không hoặc ngã hoặc
vô ngã; chẳng nên quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì nội
không, tự tánh nội không không; ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không; tự tánh ngoại không cho đến vô tánh
tự tánh không không. Tự tánh nội không đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây,
nội không chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được; ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không đều chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nội không thảy khá
được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế
là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nội không hoặc tịnh hoặc
bất tịnh; chẳng nên quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì
nội không, tự tánh nội không không; ngoại không, nội ngoại không, không
không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh
không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổ tánh không, tự tướng
không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh
không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; tự tánh ngoại không cho đến
vô tánh tự tánh không không. Tự tánh nội không đây tức chẳng phải tự tánh,
tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không đây cũng chẳng phải tự
tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la
mật đa đây, nội không chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá
được; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không đều chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có nội
không thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu
an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì
giới hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì chơn như, tự tánh chơn như
không; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới; tự tánh pháp giới cho đến bất tư nghì giới không. Tự tánh chơn
như đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh pháp giới cho đến bất tư nghì giới
đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật
đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, chơn như chẳng khá được, thường vô
thường kia cũng chẳng khá được; pháp giới cho đến bất tư nghì giới đều
chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì
trong đây hãy không có chơn như thảy khá được, huống là có thường cùng vô
thường kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán chơn như hoặc vui hoặc
khổ; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì chơn như, tự tánh
chơn như không; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới không; tự tánh pháp giới cho đến bất tư nghì giới không.
Tự tánh chơn như đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh pháp giới cho đến bất
tư nghì giới đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An
nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, chơn như chẳng khá được,
vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được; pháp giới cho đến bất tư nghì giới
đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì
trong đây hãy không có chơn như thảy khá được, huống là có vui cùng khổ
kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán chơn như hoặc ngã hoặc
vô ngã; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì chơn như, tự
tánh chơn như không; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới, tự tánh pháp giới cho đến bất tư nghì giới không.
Tự tánh chơn như đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh pháp giới cho đến bất
tư nghì giới đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An
nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, chơn như chẳng khá được,
ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được; pháp giới cho đến bất tư nghì giới
chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong
đây hãy không có chơn như thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia.
Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán chơn như hoặc tịnh hoặc
bất tịnh; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư
không giới, bất tư nghì giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì chơn
như, tự tánh chơn như không; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất
biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế,
hư không giới, bất tư nghì giới, tự tánh pháp giới cho đến bất tư nghì
giới không. Tự tánh chơn như đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh pháp giới
cho đến bất tư nghì giới đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, chơn như
chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được; pháp giới cho đến
bất tư nghì giới đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá
được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có chơn như thảy khá được, huống
là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An
nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán khổ thánh đế hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
tập diệt đạo thánh đế hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì khổ thánh
đế, tự tánh khổ thánh đế không; tập diệt đạo thánh đế, tự tánh tập diệt
đạo thánh đế không. Tự tánh khổ thánh đế đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh tập diệt đạo thánh đế đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự
tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, khổ thánh đế
chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; tập diệt đạo
thánh đế đều chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở
vì sao? Vì trong đây hãy không có khổ thánh đế thảy khá được, huống là có
thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn
Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán khổ thánh đế hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ
sao? Vì khổ thánh đế, tự tánh khổ thánh đế không; tập diệt đạo thánh đế,
tự tánh tập diệt đạo thánh đế không. Tự tánh khổ thánh đế đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh tập diệt đạo thánh đế đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa
đây, khổ thánh đế chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được;
tập diệt đạo thánh đế đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá
được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có khổ thánh đế thảy khá được,
huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán khổ thánh đế hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì
cớ sao? Vì khổ thánh đế, tự tánh khổ thánh đế không; tập diệt đạo thánh
đế, tự tánh tập diệt đạo thánh đế không. Tự tánh khổ thánh đế đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh tập diệt đạo thánh đế đây cũng chẳng phải tự
tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la
mật đa đây, khổ thánh đế chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá
được; tập diệt đạo thánh đế đều chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng
khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có khổ thánh đế thảy khá được,
huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu
An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán khổ thánh đế hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Vì cớ sao? Vì khổ thánh đế, tự tánh khổ thánh đế không; tập diệt đạo
thánh đế, tự tánh tập diệt đạo thánh đế không. Tự tánh khổ thánh đế đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tập diệt đạo thánh đế đây cũng chẳng phải
tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba
la mật đa đây, khổ thánh đế chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng
khá được; tập diệt đạo thánh đế đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng
chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có khổ thánh đế thảy khá
được, huống là có tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu an nhẫn như
thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì
bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tự
tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn tĩnh lự đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn
Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, thường vô thường kia cũng
chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được, thường
vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
bốn vô lượng thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc vui hoặc khổ.
Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô
sắc định, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn tĩnh lự
đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối
An nhẫn Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, vui cùng khổ kia
cũng chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được, vui
cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có bốn
tĩnh lự thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu an
nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc ngã hoặc vô
ngã. Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng,
bốn vô sắc định, tự tánh bốn vô lượng bốn vô sắc định không. Tự tánh bốn
tĩnh lự đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định
đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật
đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được, ngã vô ngã
kia cũng chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều chẳng khá được,
ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
bốn vô lượng thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người
năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn tĩnh lự hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự, tự tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô
lượng, bốn vô sắc định, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Tự
tánh bốn tĩnh lự đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn vô lượng, bốn vô
sắc định đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn
Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, bốn tĩnh lự chẳng khá được,
tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều
chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong
đây hãy không có bốn tĩnh lự thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất tịnh
kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên
quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát không; tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định không.
Tự tánh tám giải thoát đây tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải
tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, tám giải
thoát chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá được; tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khá được, thường vô thường kia
cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có tám giải thoát
thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu người năng tu an
nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc
vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát không;
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ không. Tự tánh tám giải đây tức chẳng phải tự
tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn
Ba la mật đa đây, tám thắng xứ chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng
khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mươì biến xứ đều chẳng khá được,
vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
tám giải thoát thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng
tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải thoát
không; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ không. Tự tánh tám giải thoát đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định đây cũng chẳng phải
tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba
la mật đa đây, tám giải thoát chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng
khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đều chẳng khá được,
ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
tám giải thoát thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu người
năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tám thắng, chín thứ đệ định, mười biến xứ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát, tự tánh tám giải
thoát không; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tự tánh tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mươì biến xứ không. Tự tánh tám giải thoát đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la
mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, tám giải thoát chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ đều chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì
sao? Vì trong đây hãy không có tám giải thoát thảy khá được, huống là có
tịnh cùng bất tịnh kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba
la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên quán
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường. Vì cớ sao? Vì bốn niệm trụ, tự
tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng chẳng phải tự tánh.
Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa
đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá
được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng khá được, thường
vô thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có
bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc vui
hoặc khổ; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì bốn
niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, tự tánh bốn chánh đoạn
cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng phải
tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng chẳng
phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn
Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ đều chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng
chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng khá
được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có … thảy khá được, huống là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu
an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã
hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao?
Vì bốn niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn chánh
đoạn cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức chẳng
phải tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây cũng
chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối
An nhẫn Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, ngã vô ngã kia cũng
chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều chẳng khá
được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã kia. Nếu
người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ
sao? Vì bốn niệm trụ, tự tánh bốn niệm trụ không; bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; tự tánh bốn
thần túc cho đến tám thánh đạo chi không. Tự tánh bốn niệm trụ đây tức
chẳng phải tự tánh, tự tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đây
cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa.
Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, bốn niệm trụ chẳng khá được, tịnh bất tịnh
kia cũng chẳng khá được; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi đều
chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong
đây hãy không có bốn niệm trụ thảy khá được, huống là có tịnh cùng bất
tịnh kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói An nhẫn Ba
la mật đa, tác lời như vầy: Thiện nam tử! Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật
đa, chẳng nên quán không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; chẳng
nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường. Vì
cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải thoát môn không; vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng phải tự tánh, tự
tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu
chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây,
không giải thoát môn chẳng khá được, thường vô thường kia cũng chẳng khá
được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều chẳng khá được, thường vô
thường kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy không có không
giải thoát môn thảy khá được, huống là có thường cùng vô thường kia. Nếu
người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn
hoặc vui hoặc khổ; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc
vui hoặc khổ. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không giải thoát
môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây tức chẳng phải tự
tánh, tự tánh … đây cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An
nhẫn Ba la mật đa. Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, không giải thoát môn
chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn chẳng khá được, vui cùng khổ kia cũng chẳng khá được. Sở vì
sao? Vì trong đây hãy không có không giải thoát môn thảy khá được, huống
là có vui cùng khổ kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba
la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn
hoặc ngã hoặc vô ngã; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không
giải thoát môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây
cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa.
Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, không giải thoát môn chẳng khá được, ngã vô
ngã kia cũng chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều chẳng
khá được, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong đây hãy
không có không giải thoát môn thảy khá được, huống là có ngã cùng vô ngã
kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác lời này: Thiện nam tử!
Ngươi nên tu An nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán không giải thoát môn
hoặc tịnh hoặc bất tịnh; chẳng nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn, tự tánh không
giải thoát môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tự tánh vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn không. Tự tánh không giải thoát môn đây
tức chẳng phải tự tánh, tự tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đây
cũng chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức An nhẫn Ba la mật đa.
Đối An nhẫn Ba la mật đa đây, không giải thoát môn chẳng khá được, tịnh
bất tịnh kia cũng chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều
chẳng khá được, tịnh bất tịnh kia cũng chẳng khá được. Sở vì sao? Vì trong
đây hãy không có không giải thoát môn thảy khá được, huống là có tịnh cùng
bất tịnh kia. Nếu người năng tu an nhẫn như thế là tu An nhẫn Ba la mật
đa.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử,
thiện nữ nhân này tác những thuyết đây, đấy là tuyên nói chơn chánh An
nhẫn Ba la mật đa.