Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội ngoại cùng
Thân-Thọ-Tâm-Pháp, trụ quán khắp Thân-Thọ-Tâm-Pháp, mạnh mẽ?inh tiến, đủ
nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán kỹ tự thân: khi đi biết đi, khi đứng biết đứng, khi ngồi
biết ngồi, khi nằm biết nằm. Như như tự thân oai nghi sai khác. Như vậy
như vậy, đủ nhớ chính biết. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân
trụ, quán khắp thân. Mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều
phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán kỹ tự thân: lui đến chính biết, xem ngó chính biết, cúi
ngước chính biết, co dãn chính biết, mặc y Tăng già lê, cầm nắm y bát, nếm
ăn uống nuốt, nằm nghỉ dạo đi, ngồi đứng dậy, đón tiếp rước, thức ngủ nói
im, vào ra các định đều nhớ chính biết. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì
muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán kỹ tự thân: với khi thở vào, như thật nhớ biết thở vào;
với khi thở ra, như thật nhớ biết thở ra. Với khi thở vào dài, như thật
nhớ biết thở vào dài; với khi thở ra dài, như thật nhớ biết thở ra dài.
Với khi thở vào ngắn, như thật nhớ biết thở vào ngắn; với khi thở ra ngắn,
như thật nhớ biết thở ra ngắn. Như thợ bánh xe hoặc đệ tử y, khi thế bánh
xe dài, như thật nhớ biết thế bánh xe dài; khi thế bánh xe ngắn, như thật
nhớ biết thế bánh xe ngắn. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, quán kỹ tự thân, thở vào thở ra
hoặc dài hoặc ngắn, như thật nhớ biết cũng lại như vậy. Thiện Hiện! Đấy là
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, với nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ
chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán kỹ tự thân, như thật nhớ biết bốn giới sai khác, chỗ gọi
địa giới, thủy hỏa phong giới. Như thợ thịt giỏi hoặc đệ tử y, giết mạng
trâu rồi, lại dùng dao bén cắt phân thân trâu mổ làm bốn phần. Hoặc ngồi
hoặc đứng, như thật xem biết. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba
la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, quán kỹ tự thân, như thật nhớ
biết địa thủy hỏa phong bốn giới sai khác, cũng lại như vậy. Thiện Hiện!
Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ
nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán kỹ tự thân, như thật nhớ biết: từ chân đến đỉnh các thứ
bất tịnh đầy nhẫy nơi trong, ngoài là da mỏng bao bọc. Chỗ gọi chỉ có tóc,
lông, móng, răng, da, thứa, máu, thịt, gân, mạch, cốt, tủy, tâm, can, tỳ,
thận, phế, mật, dạ dày, ruột già, ruột non, cứt, đái, nước miếng, nước
mũi, nước dãi, nước mắt, đất, mồ hôi, đàm, mủ, mỡ lá, màng óc, ghèn, cứt
ráy nhơ nhớp như vậy đầy nhẫy khắp thân. Như có kẻ nông phu hoặc các
trưởng giả, trong kho đựng đầy các thứ tạp cốc, chỗ gọi nếp lúa mè đậu bắp
thảy. Có người sáng mắt mở kho xem thấy, tức như thật biết trong ấy chỉ có
nếp lúa mè đậu bắp thảy các thứ tạp cốc mà thôi. Các Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, quán kỹ tự
thân, như thật nhớ biết, từ chân đến đỉnh chỉ có các thứ bất tịnh, vật
chất đầy nhẫy nơi trong, cũng lại như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân
này, chỉ có kẻ ngu muội mê lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì
muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, chết đã một ngày, hoặc đã
hai ngày cho đến đã qua bảy ngày. Nơi thây thân bụng dạ phình chướng, biến
sắc xanh bầm, thối bẫy, da phá, mủ máu chảy ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ
thân ta có tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, chung quy
cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê lầm
say đắm mà thôi! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán
khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế
gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, chết đã một ngày, hoặc đã
hai ngày cho đến đã qua bảy ngày. Bị các loài chim điêu, thứu, quạ, bồ
các, xi, kiêu, cầm thú, hổ, báo, chồn, sói, dã can, chó thảy các loại.
Hoặc mổ hoặc bấu, xương thịt rơi rã, cắn rứt mổ ăn. Thấy việc này rồi, tự
nghĩ thân ta có tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, chung
quy cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê
lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán khắp
thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian
tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây. Cầm thú ăn rồi, bất tịnh
tan nát, mủ máu chảy rơi, có vô lượng thứ dòi trùng sanh lúc nhúc. Chỗ
thối đáng ghê, quá hơn chó chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có
tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng phải
như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê lầm say đắm!
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem
vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ
tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, dòi trùng ăn rồi, thịt rơi
xương lòi, lóng đốt liền nhau, gân ràng máu dính, thịt bẫy hãy còn. Thấy
việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được
giải thoát, chung quy cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này,
chỉ kẻ ngu muội mê lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân
trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều
phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, đã thành xâu xương, máu
thịt đều hết, còn gân xâu liền. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh
như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng phải như
vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê lầm say đắm!
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem
vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ
tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, chỉ còn các xương, sắc nó
trắng như ốc tuyết kha, các gân bẫy nát, lóng đốt chia lìa. Thấy việc này
rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải
thoát, chung quy cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ
kẻ ngu muội mê lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân
trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều
phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, đã thành lóng đốt phân
tán, rơi rớt mỗi phương. Chỗ gọi xương bàn chân, xương ống chân, xương đầu
gối, xương đùi vế, xương bàn tọa, xương sống, xương sườn, xương ngực,
xương bắp tay, xương cánh tay, xương bàn tay, xương cổ sau, xương cằm,
xương má, xương đầu lâu. Mỗi xương nằm riêng một chỗ. Thấy việc này rồi,
tự nghĩ thân ta có tánh như thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát,
chung quy cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu
muội mê lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát
nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán
khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế
gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây. Hài cốt ngổn ngang, gió
thổi mưa chan, nắng dọi, sương phong, trải lâu năm tháng, sắc trắng như ốc
tuyết kha. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như thế, đủ pháp như
vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng phải như vậy. Đâu có kẻ trí quý
ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê lầm say đắm! Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến, đủ nhớ chính
biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, đến đường Đạm bạc xem chỗ bỏ thây, còn xương tản đất, trải
nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm. Tướng xương biến xanh trạng giống như
sắc chim cáp. Hoặc còn xương mục nát bủn như bụi trần, cùng đất hòa lộn
chẳng còn phân biệt được! Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như
thế, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng phải như vậy.
Đâu có kẻ trí quý ngắm thân này, chỉ kẻ ngu muội mê lầm say đắm! Thiện
Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ, quán khắp thân, mạnh mẽ tinh
tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện.
Như đối nội thân sai khác như thế, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tiến,
đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy. Đối ngoại thân
trụ, quán khắp thân. Đối nội ngoại thân trụ, quán khắp thân. Mạnh mẽ tinh
tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy, tùy chỗ
sở ưng cũng lại như vậy. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
đối nội ngoại cùng đồng Thọ-Tâm-Pháp, trụ quán khắp Thọ-Tâm-Pháp, mạnh mẽ
tinh tiến, đủ nhớ chính biết, vì muốn điều phục thế gian tham ưu vậy, tùy
chỗ sở ưng đều nên rộng nói. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát như vậy khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội ngoại
thân cùng đồng Thọ-Tâm-Pháp, khi trụ quán khắp Thân-Thọ-Tâm-Pháp, tuy tác
lên quán này mà không có chỗ sở đắc. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bốn chánh đoạn. Những gì là bốn? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc
mà làm phương tiện. Với pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng cho sanh vậy
nên sanh lòng muốn cố gắng, phát khởi siêng chân chính, giục tâm giữ tâm.
Đấy là thứ nhất. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Với pháp ác
bất thiện đã sanh, vì dứt hẳn vậy, nên sanh lòng muốn cố gắng, phát khởi
siêng chân chính, giục tâm giữ tâm. Đấy là thứ hai. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Pháp lành
chưa sanh, vì khiến sanh vậy, nên sanh lòng muốn cố gắng, phát khởi siêng
chân chính, giục tâm giữ tâm. Đấy là thứ ba. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Pháp lành đã
sanh, vì khiến an trụ, chẳng quên thêm rộng tu bồi cho đầy đủ vậy, nên
sanh lòng muốn cố gắng, phát khởi siêng chân chính, giục tâm giữ tâm. Đấy
là thứ tư. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bốn thần túc. Những gì là bốn? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, tu Dục tam ma địa dứt hành để thành tựu thần túc. Nương
ly, nương vô nhiễm, nương diệt hồi hướng xả. Đấy là thứ nhất. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu Cần tam ma
địa dứt hành, để thành tựu thần túc. Nương ly, nương vô nhiễm, nương diệt
hồi hướng xả. Đấy là thứ hai. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu Tâm tam ma
địa dứt hành, để thành tựu thần túc. Nương ly, nương vô nhiễm, nương diệt
hồi hướng xả. Đấy là thứ ba. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu Quán tam
ma địa dứt hành, để thành tựu thần túc. Nương ly, nương vô nhiễm, nương
diệt hồi hướng xả. Đấy là thứ tư. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại
thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là năm căn. Những gì là năm? Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, sở tu tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là năm lực. Những gì là năm? Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, sở tu tín lực, tinh tiến lực, niệm lực, định lực, huệ lực.
Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bảy đẳng giác chi. Những gì là bảy? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc
mà làm phương tiện, sở tu niệm đẳng giác chi, trạch pháp đẳng giác chi,
tinh tiến đẳng giác chi, hỷ đẳng giác chi, khinh an đẳng giác chi, định
đẳng giác chi, xả đẳng giác chi. Nương ly, nương vô nhiễm, nương diệt hồi
hướng xả. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là tám thánh đạo chi. Những gì là tám? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc
mà làm phương tiện, sở tu chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định. Nương ly,
nương vô nhiễm, nương diệt hồi hướng xả. Thiện Hiện! Phải biết đấy là
tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là ba tam ma địa. Những gì là ba? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng đều không. Tâm kia an trụ, tên
Không giải thoát môn, cũng tên Không tam ma địa. Đấy là thứ nhất. Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, quán tất cả pháp, vì tự tướng không vậy, nên đều không có
tướng. Tâm kia an trụ, tên Vô tướng giải thoát môn, cũng tên Vô tướng tam
ma địa. Đấy là thứ hai. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, quán tất cả pháp, vì tự tướng không
vậy, nên đều vô sở nguyện. Tâm kia an trụ, tên Vô nguyện giải thoát môn,
cũng tên Vô nguyện tam ma địa. Đấy là thứ ba. Thiện Hiện! Phải biết đấy là
tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm
trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thật
trí. Đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Bấy giờ, Tôn giả Thiện Hiện
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao pháp trí? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu
trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết năm uẩn thảy tướng chuyển sai
khác, đấy là pháp trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao loại
trí? Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết uẩn giới
xứ và các duyên khởi, hoặc tổng hoặc biệt là vô thường thảy, đấy là loại
trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao thế tục
trí? Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết tất cả
pháp giả thiết danh tự, đấy là thế tục trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao tha tâm
trí? Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết pháp tâm,
tâm sở của hữu tình kia và tu hành chứng diệt, đấy là tha tâm trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao khổ trí?
Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết khổ nên chẳng
sanh, đấy là khổ trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao tập trí?
Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết tập nên dứt
hẳn, đấy là tập trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao diệt
trí? Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết diệt nên
tác chứng, đấy là diệt trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao đạo trí?
Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết Đạo nên tu tập,
đấy là đạo trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao tận trí?
Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết tham sân si
hết, đấy là tận trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao vô sanh
trí? Thiện Hiện! Nếu trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện, biết có thú
chẳng sanh lại, đấy là vô sanh trí. Bạch Thế Tôn! Vì sao như thật
trí? Thiện Hiện! Như lai nhất thiết trí, nhất thiết tướng trí, đấy là như
thật trí. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là ba Vô lậu căn. Những gì là ba? Là căn chưa
biết sẽ biết, căn đã biết, căn biết đủ. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao căn chưa biết sẽ biết? Thiện Hiện! Hoặc các học
giả đối với các Thánh đế, chưa được hiện quán, chưa được Thánh quả, mà đã
có tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Đấy là căn chưa
biết sẽ biết. Bạch Thế Tôn! Vì sao căn đã
biết? Thiện Hiện! Hoặc các học giả đối với các Thánh đế đã được hiện quán,
đã được Thánh quả, đã có bao tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn,
huệ căn. Đấy là căn đã biết. Bạch Thế Tôn! Vì sao căn biết
đủ? Thiện Hiện! Là các kẻ vô học, hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc các
Bồ tát đã trụ Thập địa, hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đã có bao
tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Đấy là căn biết đủ.
Thiện Hiện! Ba căn như thế, nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện ấy, phải
biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là ba tam ma địa. Những gì là ba? Là có tầm
có tứ tam ma địa, không tầm chỉ tứ tam ma địa, không tầm không tứ tam ma
địa. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao có tầm có tứ tam ma địa? Phật bảo:
Thiện Hiện! Như lìa dục là pháp ác bất thiện, có tìm kiếm có dò xét, lìa
sanh mừng vui, vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ. Đấy là có tầm có tứ tam ma địa. Bạch Thế Tôn! Vì sao không
tầm chỉ tứ tam ma địa? Thiện Hiện! Như định trung gian giữa sơ tĩnh lự và
đệ nhị tĩnh lự. Đấy là không có tầm, chỉ có tứ tam ma địa. Bạch Thế Tôn! Vì sao không
tầm không tứ tam ma địa? Thiện Hiện! Như đệ tam tĩnh lự cho đến phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Đấy là không có tầm không có tứ tam ma địa. Thiện Hiện!
Ba tam ma địa như vậy, nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện ấy, phải biết
đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là mười tùy niệm. Những gì là mười? Là Phật
tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, trời
tùy niệm, vắng lặng nhàm lìa tùy niệm, thở vào ra tùy niệm, thân tùy niệm,
chết tùy niệm. Thiện Hiện! Mười tùy niệm như vậy, nếu đem vô sở đắc mà làm
phương tiện ấy, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc
định, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thảy có
bao nhiêu thiện pháp, đem vô sở đắc mà làm phương tiện ấy, phải biết đấy
là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là Phật mười lực. Những gì là mười? Là xứ phi
xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, chưởng chưởng giới trí lực, chưởng
chưởng thắng giải trí lực, căn thắng liệt trí lực, biến hành hành trí lực,
tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực, túc trụ
tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lậu tận trí lực. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao xứ phi xứ trí lực? Phật bảo: Thiện
Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật rõ biết tướng chỗ
chẳng phải chỗ nhân quả thảy pháp. Đấy là xứ phi xứ trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao nghiệp
dị thục trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như
thật rõ biết các loại hữu tình quá khứ, vị lai, hiện tại các nghiệp pháp
chịu tướng mỗi mỗi nhân quả khác nhau. Đấy là nghiệp dị thục trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao chưởng
chưởng giới trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như
thật rõ biết các loại hữu tình vô lượng tướng cõi. Đấy là chưởng chưởng
giới trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao chưởng
chưởng thắng giải trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, như thật rõ biết các loại hữu tình vô lượng tướng hiểu hơn hết. Đấy
là chưởng chưởng thắng giải trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao căn
thắng liệt trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như
thật rõ biết các loại hữu tình tướng căn hơn kém. Đấy là căn thắng liệt
trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao biến
hành hành trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như
thật rõ biết các loại hữu tình tướng khắp hành hành. Đấy là biến hành hành
trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao tĩnh lự
giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực? Thiện Hiện! Nếu
đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật rõ biết các tướng các loại hữu
tình tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh, căn,
lực, giác chi, đạo chi thảy. Đấy là tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí
tạp nhiễm thanh tịnh trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao túc trụ
tùy niệm trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như
thật rõ biết các loại hữu tình vô lượng vô số sự tướng kiếp trước. Đấy là
túc trụ tùy niệm trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao tử sanh
trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật rõ
biết các loại hữu tình vô lượng vô số sự tướng chết sống. Đấy là tử sanh
trí lực. Bạch Thế Tôn! Vì sao lậu tận
trí lực? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật rõ
biết các lậu hết hẳn, vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát. Ở
trong hiện pháp tự làm chứng trụ đầy đủ. Năng chính rõ biết sanh của ta đã
hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng chịu đời sau. Đấy là lậu
tận trí lực. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bốn vô sở úy. Những gì là bốn? Là chánh
đẳng giác vô úy, lậu tận vô úy, chướng pháp vô úy, tận khổ đạo vô úy. Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao chánh đẳng
giác vô úy? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tự
xưng ta là đấng Chánh Đẳng Giác. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời,
Ma, Phạm hoặc kẻ thế gian khác y pháp lập nạn và khiến cho nghĩ nhớ nói:
"Với pháp này chẳng phải Chánh đẳng giác". Ta đối kia nạn chánh kiến không
có lý do. Vì đối kia nạn không lý do vậy, nên được yên ổn trụ, không e
không sợ. Tự xưng ta ngự ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại chúng, chính sư
tử rống, quay xe diệu phạm. Xe ấy thanh tịnh, chơn chính vô thượng. Tất cả
Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm, hoặc kẻ thế gian khác đều
không có kẻ năng như pháp quay được. Đấy là chánh đẳng giác vô úy. Bạch Thế Tôn! Vì sao lậu tận
vô úy? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tự xưng ta đã hết
hẳn các lậu. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm hoặc kẻ thế
gian khác y pháp lập nạn và khiến cho nghĩ nhớ nói: "Có lậu như thế chưa
hết hẳn". Ta đối kia nạn chánh kiến không có lý do. Vì đối kia nạn chánh
kiến không lý do vậy, nên được yên ổn trụ, không e không sợ. Tự xưng ta
ngự ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại chúng, chính sư tử rống, quay xe diệu
phạm. Xe ấy thanh tịnh, chơn chính vô thượng. Tất cả Sa môn, hoặc Bà la
môn, hoặc Trời, Ma, Phạm, hoặc kẻ thế gian khác đều không có kẻ năng như
pháp quay được. Đấy là lậu tận vô úy. Bạch Thế Tôn! Vì sao chướng
pháp vô úy? Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết pháp
ngăn đạo. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm hoặc kẻ thế
gian khác y pháp lập nạn và khiến cho nghĩ nhớ nói: "Tập hành pháp này
chẳng năng ngăn Đạo". Ta đối kia nạn chánh kiến không có lý do. Vì đối kia
nạn chánh kiến không lý do vậy, nên được yên ổn trụ, không e không sợ. Tự
xưng ta ngự ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại chúng, chính sư tử rống, quay
xe diệu phạm. Xe ấy thanh tịnh, chơn chính vô thượng. Tất cả Sa môn, hoặc
Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm, hoặc các kẻ thế gian khác đều không có kẻ
năng như pháp quay được. Đấy là chướng pháp vô úy. Bạch Thế Tôn! Vì sao tận khổ
đạo vô úy? Thiện Hiện! Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử
thuyết đạo hết khổ. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm hoặc
có kẻ thế gian khác y pháp lập nạn và khiến cho nghĩ nhớ nói: "Tu hành đạo
này chẳng thể hết khổ được". Ta đối kia nạn chánh kiến không có lý do. Vì
đối kia nạn chánh kiến không lý do vậy, nên được yên ổn trụ, không e không
sợ. Tự xưng ta ngự ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại chúng, chính sư tử
rống, quay xe diệu phạm. Xe ấy thanh tịnh chánh chơn vô thượng. Tất cả Sa
môn, hoặc Bà la môn, hoặc Trời, Ma, Phạm, hoặc các kẻ thế gian khác đều
không có kẻ năng như pháp quay được. Đấy là tận khổ đạo vô úy. Thiện Hiện!
Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là bốn vô ngại giải. Những gì là bốn? Là
nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, biện vô ngại giải.
Thiện Hiện! Bốn vô ngại giải như vậy, nếu đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, năm nhãn,
sáu thần thông, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Thiện
Hiện! Pháp như thế thảy, nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, phải biết
đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là mười tám pháp Phật bất cộng. Những gì là
mười tám? Là Ta Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, từ đêm đầu tiên chứng được A
nậu đa la tam miêu tam Bồ đề, cho đến đêm rốt sau, sở làm đã xong, mới vào
Vô dư y Đại Niết bàn. Với thời gian giữa thường không lầm lỗi, không tiến
vội xẳng không niệm quên mất, không tâm bất định, không các thứ tưởng,
không bỏ bất trạch, chí muốn không lui, tinh tiến không lui, niệm không
lui, huệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến không lui.
Tất cả thân nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển; tất cả ngữ nghiệp,
trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển; tất cả ý nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy
trí mà chuyển. Ở đời quá khứ, sở khởi trí kiến, không đắm không ngại; ở
đời vị lai, sở khởi trí kiến không đắm không ngại; ở đời hiện tại, sở khởi
trí kiến không đắm không ngại. Thiện Hiện! Mười tám pháp Phật bất cộng như
thế, không pháp nào chẳng đều đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Phải biết
đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng
Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là các văn tự đà la ni môn. Bấy giờ, cụ thọ
Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao văn tự đà la ni môn? Phật
bảo: Thiện Hiện! Tánh văn tự bình đẳng, tánh ngữ ngôn bình đẳng, tánh ngôn
thuyết lý thú bình đẳng. Vào các tự môn, đấy là văn tự đà la ni môn. Bạch Thế Tôn! Vì sao vào các
tự môn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã ba la mật đa,
đem vô sở đắc mà làm phương tiện: Vào "Nhả" tự môn, ngộ tất cả pháp, gốc
chẳng sanh vậy. Vào "Lạc" tự môn, ngộ tất cả pháp, lìa trần cấu vậy. Vào
"Bả" tự môn, ngộ tất cả pháp, thắng nghĩa giáo vậy. Vào "Giả" tự môn, ngộ
tất cả pháp, không có tử sanh vậy. Vào "Na" tự môn, ngộ tất cả pháp, xa
lìa danh tướng, không có đắc thất vậy. Vào "Lả" tự môn, ngộ tất cả pháp
xuất thế gian vậy, chi nhánh ái nhân duyên hẳn chẳng hiện vậy. Vào "Đà" tự
môn, ngộ tất cả pháp, điều phục vắng lặng, chân như bình đẳng không phân
biệt vậy. Vào "Bà" tự môn, ngộ tất cả pháp, lìa ràng buộc vậy. Vào "Trà"
tự môn, ngộ tất cả pháp lìa nóng nảy, kiêu mạn, cấu uế, được thanh tịnh
vậy. Vào "Sa" tự môn, ngộ tất cả pháp vô quái ngại vậy. Vào "Phược" tự
môn, ngộ tất cả pháp dứt đường ngôn âm vậy. Vào "Đả" tự môn, ngộ tất cả
pháp chân như bất động vậy. Vào "Dã" tự môn, ngộ tất cả pháp như thật bất
sanh vậy. Vào "Sắc tra" tự môn, ngộ tất cả pháp tướng chế phục nhiệm trì
bất khả đắc vậy. Vào "Ca" tự môn, ngộ tất cả pháp tác giả bất khả đắc vậy.
Vào "Ta" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh thời gian bình đẳng bất khả đắc vậy.
Vào "Ma" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh ngã và ngã sở bất khả đắc vậy. Vào
"Già" tự môn, ngộ tất cả pháp, tánh đi lấy bất khả đắc vậy. Vào "Tha" tự
môn, ngộ tất cả pháp xứ sở bất khả đắc vậy. Vào "Xà" tự môn, ngộ tất cả
pháp sanh khởi bất khả đắc vậy. Vào "Thất phược" tự môn, ngộ tất cả pháp
tánh yên ổn bất khả đắc vậy. Vào "Đạt" tự môn, ngộ tất cả pháp giới tánh
bất khả đắc vậy. Vào "Xả" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh vắng lặng bất khả
đắc vậy. Vào "Khu" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh như hư không bất khả đắc
vậy. Vào "Sản" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh cùng tận bất khả đắc vậy. Vào
"Tát đả" tự môn, ngộ tất cả pháp, nhiệm trì xứ phi xứ, khiến tánh chẳng
động chuyển bất khả đắc vậy. Vào "Nhã" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh bị rõ
biết bất khả đắc vậy. Vào "Lạc tha" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh chấp
trước nghĩa bất khả đắc vậy. Vào "Kha" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh nhân
bất khả đắc vậy. Vào "Bạc" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh khá phá hoại bất
khả đắc vậy. Vào "Xước" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh ưa muốn che bất khả
đắc vậy. Vào "Táp ma" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh khá nghĩ nhớ bất khả
đắc vậy. Vào "Hạp phược" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh khá hô triệu bất khả
đắc vậy. Vào "Ta" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh dũng kiện bất khả đắc vậy.
Vào "Kiện" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh dày bình đẳng bất khả đắc vậy. Vào
"Sai" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh chứa nhóm bất khả đắc vậy. Vào "Nõa" tự
môn, ngộ tất cả pháp lìa các ồn ào tranh cãi không lui không đến, đi đứng
nằm ngồi bất khả đắc vậy. Vào "Phả" tự môn, ngộ tất cả pháp quả báo khắp
đầy bất khả đắc vậy. Vào "Tắc ca" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh chứa nhóm
đống bất khả đắc vậy. Vào "Dật Ta" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh tướng suy
lão bất khả đắc vậy. Vào "Chước " tự môn, ngộ tất cả pháp nhóm đống nơi
dấu chân bất khả đắc vậy. Vào "Tra" tự môn, ngộ tất cả pháp tánh đuổi ngặt
nhau bất khả đắc vậy. Vào "Trạch" tự môn, ngộ tất cả pháp nơi chỗ rốt ráo
bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Tự môn như thế là
năng ngộ vào ngằn mé của pháp không. Ngoại trừ tự môn như thế ra, để nêu
chỉ các pháp không, lại là chẳng khá được. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì nghĩa
các chữ như thế chẳng khá tuyên thuyết, chẳng khá chỉ rõ, chẳng khá chấp
lấy, chẳng khá viết cầm, chẳng khá xem xét được vì lìa các tướng vậy.
Thiện Hiện! Ví như hư không là chỗ bị về đến của tất cả vật, các tự môn
đây cũng lại như vậy. Các nghĩa pháp không đều vào môn này mới được rõ
ràng. Thiện Hiện! Vào chữ "Nhả" đây thảy, gọi là vào các tự môn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát đối vào các tự môn như vậy, được trí khéo léo, đối các ngôn âm sở
thuyên luận sở biểu thị đều không quái ngại, đối tất cả pháp bình đẳng
không tánh đều được chứng nhận và thọ trì hết, đối nhiều thứ ngôn âm đều
được khéo léo. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát năng nghe vào các tự môn như thế, ấn tướng ấn cú. Nghe rồi thọ trì,
đọc tụng thông lợi, vì kẻ khác giải nói, chẳng tham danh lợi. Do nhờ nhân
duyên đây được hai mươi món công đức thù thắng. Những gì hai mươi? Nghĩa
là: được nghĩ nhớ dai, được hổ trẽn hơn hết, được sức bền chắc, được chỉ
thú của pháp, được tăng thượng giác, được thù thắng huệ, được vô ngại
biện, được tổng trì môn, được không nghi lầm, được lời trái thuận chẳng
sanh giận ưa, được không cao thấp bình đẳng mà trụ, được đối với hữu tình
ngôn âm khéo léo; được uẩn khéo léo, xứ khéo léo, giới khéo léo; được
duyên khởi khéo léo, nhân khéo léo, duyên khéo léo, pháp khéo léo; được
căn thắng liệt trí khéo léo, tha tâm trí khéo léo; được xem sao lịch khéo
léo; được thiên nhĩ trí khéo léo, túc trụ tùy niệm trí khéo léo, thần cảnh
trí khéo léo, tử sanh trí khéo léo; được lậu tận trí khéo léo; được thuyết
xứ phi xứ trí khéo léo; được đi đường vãng lai thảy uy nghi khéo léo.
Thiện Hiện! Đấy là được hai mươi công đức thù thắng. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, sở
đắc văn tự đà la ni môn. Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát. Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi
hỏi vì sao mà biết Bồ tát Ma ha tát là kẻ phát thú Đại thừa? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu Ba la mật đa, từ một địa đến một địa,
phải biết đấy là Bồ tát Ma ha tát phát thú Đại thừa. Bấy giờ, cụ thọ Thiện
Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu
Ba la mật đa, từ một địa đến một địa? Phật nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát biết tất cả pháp không từ đâu đến, cũng không đến đâu. Vì cớ
sao? Vì tất cả pháp không đi không lại, không đâu, không đến. Bởi vì các
pháp kia không biến hoại vậy. Bồ tát Ma ha tát này đối với chỗ từ một địa
đến một địa, chẳng ỷ lại, chẳng suy nghĩ, tuy là tu trị địa nghiệp mà
chẳng thấy địa kia. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu ba
la mật đa, từ một địa đến một địa. Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ
tát Ma ha tát tu trị địa nghiệp? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ sơ
Cực hỷ địa, nên khéo tu trị mười món thắng nghiệp. Những gì là mười? Một
là đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu trị tịnh thắng ý lạc nghiệp, vì
thắng ý lạc sự bất khả đắc vậy. Hai là đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp, vì tất cả hữu tình bất khả
đắc vậy. Ba là đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu trị bố thí nghiệp vì
kẻ thí, kẻ nhận, của đem thí bất khả đắc vậy. Bốn là đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, tu trị thân cận thiện hữu nghiệp, vì bạn lành, bạn ác không
hai tướng vậy. Năm là đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu trị cầu pháp
nghiệp, vì các pháp sở cầu bất khả đắc vậy. Sáu là đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, tu trị thường vui xuất gia nghiệp, vì nhà bị nới bỏ bất khả
đắc vậy. Bảy là đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu trị ưa vui thân Phật
nghiệp, vì các tướng tùy hảo bất khả đắc vậy. Tám là đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, tu trị mở rộng pháp giáo nghiệp, vì pháp bị phân biệt bất khả
đắc vậy. Chín là đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu trị phá kiêu mạn
nghiệp, vì các pháp hưng thịnh bất khả đắc vậy. Mười là đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, tu trị lời hằng chắc chắn ngữ nghiệp, vì tánh của tất cả
ngữ ngôn bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ sơ Cực hỷ
địa nên khéo tu trị mười món thắng nghiệp như vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát
Ma ha tát khi trụ đệ nhị Ly cấu địa, nên đối tám pháp suy nghĩ tu tập,
khiến mau viên mãn. Những gì là tám? Một là cấm giới thanh tịnh. Hai là
biết ơn trả ơn. Ba là trụ sức an nhẫn. Bốn là thọ thắng vui mừng. Năm là
chẳng bỏ hữu tình. Sáu là hằng khởi đại bi. Bảy là đối các Sư trưởng đem
tâm kính tin, thưa hỏi, vâng lời, cúng dường, tưởng như thờ Phật. Tám là
siêng cầu tu tập Ba la mật đa. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ nhị
Ly cấu địa, nên đối tám pháp như vậy, suy nghĩ tu tập, khiến mau viên mãn. Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát
Ma ha tát khi trụ đệ tam Phát quang địa, nên trụ năm pháp. Những gì là
năm? Một là siêng cầu đa văn từng không nhàm đủ, với pháp đã nghe chẳng
đắm văn tự. Hai là đem tâm vô nhiễm, thường tu pháp thí, tuy khai hóa rộng
mà chẳng tự cao. Ba là vì trang nghiêm tịnh độ, trồng các căn lành, tuy
dụng hồi hướng mà chẳng tự cử. Bốn là vì hóa hữu tình, tuy chẳng nhàm mỏi
vô biên sanh tử mà chẳng tự cao. Năm là tuy trụ hổ trẽn mà không chấp đắm.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ tam Phát quang địa, nên thường an
trụ năm pháp như vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát
Ma ha tát khi trụ đệ tứ Diệm huệ địa, nên trụ mười pháp thường tu chẳng
bỏ. Những gì là mười? Một là ở chỗ vắng lặng, thường chẳng bỏ lìa. Hai là
ít muốn. Ba là vui đủ. Bốn là thường chẳng bỏ lìa Đỗ đa công đức. Năm là
đối các chỗ học chưa từng nới bỏ. Sáu là đối các dục lạc rất sanh nhàm
lìa. Bảy là thường vui phát khởi cùng tâm tịch diệt. Tám là bỏ các vật sở
hữu. Chín là tâm chẳng chìm đắm. Mười là đối các sở hữu, vô sở cố luyến.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ tứ Diệm huệ địa, nên trụ mười pháp
như vậy thường hành chẳng bỏ.