.
KINH
ÐẠI THỪA ÐẠI TẬP ÐỊA TẠNG THẬP LUÂN
- Hán dịch: Tam-tạng
Pháp sư Huyền Trang
- Việt dịch: Thích
nữ Tâm Chánh, Chùa Phổ Tế, Nha Trang.
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh,
Tỳ-kheo Tâm Hạnh
---o0o---
Quyển thứ mười
PHẦN II
Phẩm thứ bảy:
PHƯỚC ÐIỀN TƯỚNG
Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát có luân
Bát-nhã đại giáp trụ. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ mới
phát tâm có thể đoạn trừ hết tất cả ngũ dục, vượt hơn cả hàng Thanh văn,
Ðộc giác; làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả hàng
Thanh văn, Ðộc giác đều nên cúng dường, phụng sự, bảo vệ. Thế nào gọi là
luân Bát-nhã đại giáp trụ?
Này thiện nam tử! Bát-nhã của Bồ-tát có hai
tướng: một là thế gian, hai là xuất thế gian.
Thế nào là Bát-nhã thế gian của Bồ-tát?
- Nghĩa là chư Bồ-tát chỉ nương vào sự đọc
tụng, ghi chép, lắng nghe rồi diễn thuyết chánh pháp tam thừa cho người,
vì muốn diệt trừ vô minh hắc ám cho tất cả chúng sanh, muốn cầu phát sanh
trí tuệ quang minh cho tất cả chúng sanh.
Nghĩa là đối với chánh pháp Như Lai thuyết ra
tương ưng với Thanh văn thừa đều chuyên cần đọc tụng, lắng nghe, ghi chép,
giảng thuyết cho người và khuyến nên tu hành. Hoặc là đối với chánh pháp
của Như Lai thuyết ra tương ưng với Ðộc giác thừa đều tinh cần đọc tụng,
lắng nghe, ghi chép, giảng thuyết cho người và khuyên nên tu tập. Hoặc đối
với chánh pháp của Như lai thuyết ra tương ưng với Vô thượng thừa đều tinh
cần đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng thuyết cho người và khuyên cùng
tu tập, không cầu đạo vô lậu của bậc Hiền thánh, không cầu Thánh đạo,
không cầu Thánh đạo nhiếp hóa giải thoát, không hành Bát-nhã chơn thật
tịch tịnh; chỉ thường thực hành theo Bát-nhã hữu kiến, hữu tướng. Như thế
là Bát-nhã có chấp trước, chấp thủ.
Ðó là Bát-nhã thế gian của Bồ-tát. Bát-nhã
này chung đồng với Thanh văn và Ðộc giác thừa. Ðây không thể gọi là luân
đại giáp trụ, cũng không gọi là đại Bồ-tát, cũng không gọi là ruộng phước
chân thật cho tất cả Thanh văn, Ðộc giác.
Thế nào
gọi là Bát-nhã xuất thế của Bồ-tát?
- Nghĩa là các Bồ-tát lúc tinh cần tu tập đạo
quả Bồ-đề, tùy theo khả năng mà đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng nói
chánh pháp tam thừa cho người nghe, nhưng trong đó nương vô sở đắc mà an
trú, cũng không có hành động, không có tư duy, không có căn bổn; dùng tâm
như hư không, tâm tịch tịnh khắp cả, tâm không chấp trước, tuệ không tăng
giảm, tâm không sanh diệt, tâm không thối chuyển, tâm pháp bình đẳng, tâm
chơn như, tâm thật tế, tâm pháp giới, tâm vô ngã, tâm không phân biệt, tâm
tịch diệt an nhẫn, lìa hết mọi sự phân biệt, khéo léo an trụ vào địa vô
thành hoại, khéo léo an trụ vào địa không trụ, không chấp trước tuệ thù
thắng. Ðó là Bát-nhã không chấp giữ, không dính mắc, là luân Bát-nhã xuất
thế đại giáp trụ của Bồ-tát.
Này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát nào thành tựu
luân Bát-nhã đại giáp trụ này từ mới phát tâm có thể đoạn trừ hết ngũ dục
nên được gọi là đại Bồ-tát, vượt hơn cả hàng Thanh văn, Ðộc giác, làm
ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Ðộc giác. Hàng Thanh văn, Ðộc giác
nên cúng dường, phụng sự, bảo hộ.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát còn có
luân phương tiện thiện xảo đại giáp trụ. Ðại Bồ-tát nào thành tựu được
luân này từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết ngũ dục, vượt hơn hàng
Thanh văn, Ðộc giác; làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất
cả Thanh văn, Ðộc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Thế nào là luân phương tiện thiện xảo đại
giáp trụ?
Này thiện nam tử! Phương tiện thiện xảo của
Bồ-tát có hai tướng: thế gian và xuất thế gian.
Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo thế gian
của Bồ-tát?
- Nghĩa là chư Bồ-tát hoặc vì tự lợi, hoặc vì
lợi tha, hoặc vì lợi cả hai, thường phân biệt kia đây, thị hiện các thứ kỹ
thuật khéo léo, làm cho mình và người đều thành thục, rồi lấy đó mà phụng
sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn, hoặc chư Bồ-tát, hoặc hàng Thanh văn, Ðộc
giác, hoặc cha mẹ, hoặc cho người bệnh, hoặc người già yếu không nơi nương
tựa. Hoặc thấy người gặp ách nạn sắp bị hại thì chịu khổ nhọc, dùng các
phương tiện mà cứu giúp, lấy tứ nhiếp pháp mà giáo hóa hữu tình.
Chư Bồ-tát này tự an trụ trong Ðại thừa, đối
với hàng Thanh văn, Ðộc giác chẳng phải là Ðại thừa, hoặc hàng Thanh văn,
Ðộc giác căn cơ chưa thành thục thì nói giáo pháp vi diệu thâm sâu, làm
cho họ tu tập theo. Hoặc khuyên siêng tu các tịnh lự của chư Thánh, hoặc
là khai thị nghĩa đế tối thắng, khuyên cho tu hành vượt qua bốn điên đảo,
giác ngộ bốn chủng loại pháp tánh không đọa, hay làm cho thể nhập tứ vô
ngại giải, cho đến trở lại khuyên an trụ từ niệm trú, tứ chánh đoạn, tứ
thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo, đạo và đạo quả
hữu dư vô dư, đạt đến trí tuệ quyền xảo, khiến cho đều được thành thục.
Hoặc có chúng hữu tình tham cầu danh xưng,
lợi dưỡng phú quý, các căn còn loạn động, thiện căn chưa thành thục thì
khuyên họ đọc tụng kinh A-cấp-ma và Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma; hoặc khuyên
đọc tụng các luận giải thoát khác của Phật thuyết ra làm cho đều được
thành thục.
Nếu hữu tình không thích bố thí thì khuyên họ
xả bỏ mọi tài vật quý giá, làm cho đều được thành thục.
Nếu có hữu tình bạo ác không có lòng nhân thì
khuyên họ tu pháp tứ phạm trụ.
Hoặc có hữu tình nhiều sân giận thì khuyên họ
tu pháp nhẫn.
Hoặc có hữu tình thường giải đãi thì khuyên
tu tinh tấn.
Hoặc có hữu tình tâm nhiều tán loạn thì
khuyên tu pháp tĩnh lự.
Hoặc có hữu tình có đầy đủ trí tuệ tà kiến
thì thuyết chánh pháp cho họ, nghĩa là dùng phương tiện dạy bảo, ghi chép
làm cho họ được thành thục.
Hoặc có hữu tình không kính tin Tam bảo, có
đủ pháp không nên làm theo thì khuyên thọ tam quy, làm cho họ kính tin Tam
bảo, hoặc khuyên thọ giới làm cận sự, hoặc khuyên thọ giới làm cận trụ làm
cho họ được thành thục, hoặc khuyên tu tập theo các loại nghề nghiệp công
xảo kỹ thuật làm cho họ được thành thục.
Như thế, chư đại Bồ-tát dùng vô số phương
tiện thiện xảo thế gian, dùng các loại sách vở kỹ thuật, nghề nghiệp khéo
léo để cho mọi người tu hành tinh tấn các phương tiện thiện xảo để bẻ gãy
các học thuyết của ngoại đạo.
Như thế gọi là phương tiện thiện xảo thế gian
của Bồ-tát. Phương tiện thiện xảo này cùng chung với hàng Thanh văn, Ðộc
giác; cũng là các chỗ nương của Phật pháp; cũng là chỗ nương của các hạnh
thiện xảo, cũng là pháp thiện xảo xoay vần không diệt, không thối đọa.
Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát
không nương theo bậc minh sư, không cùng bạn hữu tu hành các pháp phương
tiện thiện xảo thế gian thì các Bồ-tát này đối với các phương tiện thiện
xảo thế gian vì ngu muội nên hướng về nẻo ác, không thể tùy thuận an trụ
phương tiện thiện xảo xuất thế gian, cũng không là ruộng phước chân thật
cho tất cả, không thể biết rõ được căn hạnh sai khác của chúng hữu tình.
Do ngu muội về phương tiện thiện xảo nên đối
với hàng Thanh văn và Ðộc giác không có khả năng Ðại thừa, và đối với
người chưa thành thục được căn khí Ðại thừa thì lại nói pháp Ðại thừa cho
họ tu học.
Còn đối với hữu tình có khả năng Ðại thừa thì
lại giảng nói pháp Thanh văn và Ðộc giác, làm cho học tu học theo pháp
Thanh văn, Ðộc giác.
Ðối với hữu tình có khả năng Ðộc giác thừa
lại nói pháp Thanh văn, làm cho họ tu theo pháp Thanh văn.
Còn đối với hữu tình có khả năng Thanh văn
thì nói pháp sanh tử để cho họ yêu mến đắm trước mà không nói pháp nhàm
chán sanh tử.
Lại nữa, đối với các phương tiện tiện xảo vì
ngu si nên nếu chúng hữu tình ưa thích việc sát sanh, nói rộng cho đến
chấp trước tà kiến thì lại tuyên nói pháp Ðại thừa thâm sâu cho họ, không
tuyên nói các quả báo khổ đau sanh tử lưu chuyển, chết đây sanh kia để cho
họ lo sợ, lìa xa các pháp ác.
Lại nữa, đối với các phương tiện thiện xảo vì
ngu mê cho đến đối với các hữu tình thích tu tịnh giới lại khuyên tu bố
thí, hoặc chúng hữu tình ưa tu an nhẫn lại khuyên bỏ an nhẫn mà tu tịnh
giới, hoặc chúng hữu tình thích tu tinh tấn lại khuyên bỏ tinh tấn mà tu
an nhẫn, hoặc chúng hữu tình thích tu tịnh lự lại khuyên bỏ tịnh lự mà tu
tinh tấn, hoặc các hữu tình thích tu Bát-nhã lại khuyên bỏ Bát-nhã mà tu
tịnh lự.
Các Bồ-tát như thế vì ngu mê đối với phương
tiện thiện xảo thế gian nên không thể làm lợi lạc cho chúng hữu tình một
cách chân thật, là bạn ác của các hữu tình, phương tiện thiện xảo này còn
ở trong chỗ sở đắc và chấp trước. Như thế gọi là phương tiện thiện xảo thế
gian của Bồ-tát.
Phương tiện thiện xảo thế gian như vậy cùng
chung với hàng Thanh văn và Ðộc giác, không gọi là luân đại giáp trụ, cũng
không gọi là Ðại Bồ-tát và cũng không là ruộng phước chân thật của tất cả
Thanh văn, Ðộc giác.
Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo xuất thế
gian của Bồ-tát? - Nghĩa là chư Bồ-tát chỉ vì lợi tha mà không vì tự lợi,
chỉ bày các kỹ thuật khéo léo để cho mọi người thành thục mà phụng sự,
cúng dường chư Phật Thế Tôn hoặc chư Bồ-tát, hoặc các Thanh văn, Ðộc giác,
hoặc cha hoặc mẹ, hoặc người bệnh, hoặc người già yếu không nơi nương tựa.
Nếu thấy người gặp ách nạn sắp bị hại thì
chẳng ngại dùng các phương tiện khó khăn nào để cứu giúp họ, lấy tứ nhiếp
pháp mà giáo hóa chúng hữu tình, tùy theo ý thích, tùy theo căn tánh của
chúng hữu tình mà giảng nói chánh pháp. Lại có thể lần lần khuyên hàng
Thanh văn tu pháp Ðộc giác thừa, khuyên hàng Ðộc giác tu theo pháp Ðại
thừa. Nếu hàng Thanh văn và Ðộc giác căn tánh chưa thành thục thì thuyết
pháp chán xa khổ sanh tử để cho họ tu pháp nhàm chán sanh tử, ưa cầu
Niết-bàn.
Hoặc có chúng hữu tình ưa thích sát sanh, nói
rộng cho đến ưa chấp trước tà kiến, tùy theo căn tánh của họ hoặc là giảng
nói các quả báo đau khổ sanh tử luân chuyển, chết đây sanh kia làm cho họ
chán sợ mà xa lìa pháp ác, hoặc là tuyên giảng chánh pháp tương ưng với
Thanh văn thừa, hoặc là tuyên giảng chánh pháp tương ưng với Ðộc giác
thừa, hoặc là giảng thuyết các pháp gần với Vô thượng thừa làm cho họ dần
dần tu học.
Hoặc có chúng hữu tình ưa thích làm việc bố
thí thì nói các tịnh giới tối thượng để thọ trì làm cho họ tu học. Nói
rộng cho đến hoặc có chúng hữu tình ham thích tu tĩnh lự thì thuyết pháp
Bát-nhã Thánh đạo vô lậu thù thắng làm cho họ tu tập theo.
Phương tiện thiện xảo này không có sở đắc,
cũng không còn chỗ chấp trước. Như thế gọi là luân phương tiện thiện xảo
xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát.
Này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát nào thành tựu
được luân phương tiện thiện xảo đại giáp trụ này thì từ lúc mới phát tâm
có thể đoạn trừ hết ngũ dục nên gọi là đại Bồ-tát, vượt xa các hàng Thanh
văn, Ðộc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả thanh văn, Ðộc giác. Hàng
Thanh văn, Ðộc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên mà
nói kệ:
- Tu tập huệ có hai:
Thế gian và xuất thế
Chấp trước là thế gian
Lìa chấp là xuất thế
Tu phương tiện thiện xảo
Nương hai pháp sai biệt
Sở đắc là thế gian
Vô sở đắc xuất thế
Nếu chỉ nói một thừa
Ðó là thuyết pháp xấu
Không thể tự thành thục
Cũng không thể độ người
Với người chuyên làm ác
Thuyết giáo pháp tam thừa
Ðó là vì ngu si
Không gọi ma-ha-tát
Có thể học ba thừa
Vui cầu nghe chánh pháp
Mà thuyết ưa sanh tử
Chẳng phải là trí giả
Chuyên tâm tư duy kỹ
Tùy căn cơ giáo hóa
Phương tiện thiện xảo này
Ðược bậc trí tán thán
Chúng sanh tuy có ác
Có thể vào tam thừa
Tùy căn cơ dạy bảo
Xa lìa các điều ác.
Lai nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát lại có
luân đại từ đại giáp trụ. Ðại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì từ
lúc mới phát tâm có thể đoạn hết ngũ dục, vượt xa hàng Thanh văn, Ðộc
giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả Thanh văn,
Ðộc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Thế nào là luân đại từ đại giáp trụ?
- Này thiện nam tử! Từ có hai nghĩa: pháp
duyên từ và hữu tình duyên từ.
Pháp duyên từ cũng gọi là đại từ, là đại giáp
trụ.
Hữu tình duyên từ không gọi là đại từ, cũng
chẳng phải là đại giáp trụ. Vì sao? - Vì hữu tình duyên từ cùng chung với
pháp Thanh văn, Ðộc giác. Thanh văn, Ðộc giác chỉ tự lợi, không vì chúng
hữu tình mà tinh cần tu tập hữu tình duyên từ. Hàng Thanh văn, Ðộc giác
chỉ tự tìm cầu nơi yên tịnh, tự tìm Niết-bàn cho riêng mình, diệt trừ các
hoặc và các kiết sử cho riêng mình, chứ không vì chúng hữu tình mà tinh
tấn tu tập hữu tình duyên từ. Vì thế mà pháp từ này không gọi là đại từ,
chẳng phải là đại giáp trụ.
Còn pháp duyên từ thì không cùng chung với
Thanh văn, Ðộc giác; chỉ có hàng đại Bồ-tát mới có thể tu hành. Ðại Bồ-tát
làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh mà tinh tấn tu tập pháp duyên từ này.
Ðại Bồ-tát vì làm cho chúng hữu tình tu tịch diệt và đắc Niết-bàn, diệt
hết phiền não trói buộc mà tinh cần tu tập pháp duyên từ này. Do vậy, pháp
từ này gọi là đại từ, là đại giáp trụ.
Lại có các Bồ-tát tu pháp duyên từ, không
nương theo các uẩn, không nương theo các xứ, không nương theo các giới,
không nương theo niệm trụ, cho đến không nương theo tám Thánh đạo, không
nương theo Dục giới, không nương theo Sắc giới, không nương theo Vô sắc
giới, không nương theo đời này, không nương theo đời khác, không nương
theo bờ này, không nương theo bờ khác, không nương theo cái được, không
nương theo cái không được.
Bồ-tát tu pháp duyên từ như vậy vượt qua địa
vị Thanh văn, Ðộc giác. Ðó là luân pháp duyên đại từ đại giáp trụ của đại
Bồ-tát.
Này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát nào thành tựu
luân đại từ đại giáp trụ này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết các
ngũ dục, được gọi là đại Bồ-tát, vượt qua tất cả Thanh văn, Ðộc giác, làm
ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả Thanh văn, Ðộc giác
đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa
trên mà nói kệ:
- Thanh văn và Ðộc giác
Tu hữu tình duyên từ
Bị mắc mười ba lỗi
Chỉ cầu lợi riêng mình
Các bậc đại Bồ-tát
Vì khắp loài hữu tình
Tu đại từ bất cọng
Tâm lìa mười ba lỗi
Tâm trừ mười ba cấu
Ðể đạt đến Bồ-đề
Tu pháp duyên đại từ
Thành phước điền không xa
An trụ mười ba lực
Vượt qua muôn hữu tình
Cũng như sư tử vương
Vượt hơn các cầm thú
Hàng phục mười ba oán
Lìa chấp đoạn, chấp thường
Tâm không còn cấu nhiễm
Mau đắc quả Bồ-đề.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát lại có
luân đại bi đại giáp trụ. Ðại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, từ lúc
mới phát tâm có thể đoạn hết ngũ dục, vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Ðộc
giác; làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Ðộc giác. Hàng Thanh văn,
Ðộc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Vì sao? - Vì tất cả Thanh văn,
Ðộc giác chỉ mong cầu lợi lạc cho tự
thân mà tu hạnh bi, không muốn cho chúng hữu tình được cùng lợi lạc mà tu
hạnh đại bi.
Ðại Bồ-tát thì không vì lợi lạc cho mình mà
tu hạnh đại bi, chỉ muốn đem lợi lạc cho khắp quần sanh mà tu hạnh đại bi.
Vì vậy Bồ-tát thành tựu luân đại bi đại giáp trụ, vượt hơn hàng Thanh văn,
Ðộc giác; làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả Thanh
văn, Ðộc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Ðại Bồ-tát này vì muốn đem lại lợi ích cho
chúng hữu tình nên hành Tứ nhiếp pháp một cách thành thục, nghĩa là do đại
bi mà làm lợi lạc cho chúng hữu tình nên hành pháp bố thí nhiếp, có thể xả
bỏ hết tài vật, trân bảo, cầm thú, gia bộc, quốc thành, thê tử, cho đến
thân mạng cũng không hề tiếc. Do thực hành mà không dính mắc nên không
thấy tất cả chúng hữu tình được giáo hóa, cũng không thấy người bố thí,
không thấy người thọ nhận, cũng không thấy vật thí, không thấy hành động
bố thí, cũng không thấy phước báo có được do bố thí, cho đến không thấy
hành động không dính mắc.
Cũng vậy, do đại bi làm lợi lạc cho chúng hữu
tình nên hành pháp ái ngữ nhiếp, hành lợi hành nhiếp, hành đồng sự nhiếp.
Tùy theo chỗ thích ứng rộng nói như trên, cho đến không thấy hành động
không dính mắc.
Ðại Bồ-tát này thường dùng tâm có thể điều
phục, tâm có thể tịch tịnh, vô số lượng tâm, tâm không hành các pháp uẩn -
giới - xứ tối thắng nên phát sanh luân đại bi không động, không trụ đại
giáp trụ, giáo hóa chúng sanh đến chỗ thành thục mà không mệt mỏi.
Như thế gọi là luân đại bi đại giáp trụ của
Bồ-tát, không cùng chung với Thanh văn, Ðộc giác.
Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào thành
tựu luân đại bi đại giáp trụ này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn hết ngũ
dục nên gọi là đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Ðộc giác, làm ruộng
phước lớn cho tất cả Thanh văn, Ðộc giác. Hàng Thanh văn, Ðộc giác nên
cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn làm rõ lại nghĩa trên mà
nói bài kệ:
- Pháp vi diệu sâu xa
Thành tựu tâm đại bi
Khó lường như hư không
Không sắc không an trụ
Bồ-tát thường tinh tấn
Ðủ công đức đầu-đà
Thắng trí thành đại bi
Dõng mãnh vượt thế gian
Hữu tình không nơi nương
Ràng buộc khổ sanh tử
Tắm gội nước đại bi
Khiến xa lìa các khổ
Bồ-tát hành đại bi
Làm cạn biển sanh tử
Chẳng phải việc Thanh văn
Cùng Ðộc giác đã làm
Chúng sanh vì tham sân
Mê lầm phải đọa lạc
Dùng nước đại bi rửa
Thoát khổ, được an vui.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát lại có
luân đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không vô lượng vô biên
quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp chư tam ma địa chư
đà-la-ni kiên cố. Ðại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, từ lúc mới phát
tâm có thể đoạn trừ ngũ dục, vượt qua hàng Thanh văn, Ðộc giác; làm ruộng
phước lớn cho hàng Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả Thanh văn, Ðộc giác nên
cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Thế nào luân đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn
biến mãn hư không vô lượng vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất
thiết Phật pháp chư tam-ma-địa chư đà-la-ni kiên cố?
- Nghĩa là chư Bồ-tát đối với tất cả pháp đều
suy xét rõ ràng, sâu xa như mặt trăng sáng tỏ chiếu khắp cả hư không, tâm
bình đẳng không nương, không tướng, không trụ, cũng không nhiễm.
Ðối với tất cả các pháp tam-ma-địa, đà-la-ni
đều không lệ thuộc theo.
Ðối với các nhãn sắc, nhãn thức, nhãn xúc đều
không nhiễm trước, không lệ thuộc theo.
Do nhãn xúc làm duyên, sanh ra ba thọ: hoặc
lạc thọ, hoặc khổ thọ, hoặc không khổ không lạc thọ, thì tâm thường tịch
tịnh, không bị vướng mắc.
Ðối với các nhĩ thanh, nhĩ thức, nhĩ xúc; đối
với các tỷ hương, tỷ thức, tỷ xúc; đối với các thiệt vị, thiệt thức, thiệt
xúc; đối với các thân xúc, thân thức, thân xúc; đối với các ý pháp, ý
thức, ý xúc, nói rộng cũng như trên.
Ðối với tất cả tâm, ý, thức, tâm thường tịch
tịnh, không bị vướng mắc. Từ tâm, ý, thức sanh ra ba thọ, hoặc lạc thọ,
hoặc khổ thọ, hoặc không khổ không lạc thọ thì tâm thường tịch tịnh, không
bị vướng mắc.
Ðối với các uẩn - giới - xứ trong ba đời đều
không bị vướng mắc, không lệ thuộc theo.
Ðối với tất cả ba giới, ba hành, ba xúc, ba
thọ, ba căn, ba thừa, ba luật nghi, ba giải thoát, tâm đều tịch tịnh,
không trụ, không tướng, không bị vướng mắc, bình đẳng an trụ.
Ðối với tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã la-la-mật-đa không lệ thuộc theo mà an trụ tịch
tịnh.
Cũng vậy, đối với bốn niệm trụ, bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo đều
không lệ thuộc theo mà an trụ tịch tịnh.
Ðối với tất cả chín thứ đệ định không lệ
thuộc theo mà an trụ tịch tịnh.
Lại đối với những tác dụng do ba hành không
chướng ngại, pháp trí, đạo chi, đạo thể đưa đến đều không bị vướng mắc,
không lệ thuộc theo.
Ðối với A-lại-da, chẳng phải A-lại-da hữu
thủ, vô thủ, hữu lậu, vô lậu, bờ này, bờ kia, nhỏ, lớn, vô, lượng, làm,
không làm, thiện, ác, vô ký đều không lệ thuộc theo mà an trụ tịch tịnh.
Ðối với tất cả đại từ đại bi, phương tiện
thiện xảo giáo hóa hữu tình, cho đến mười địa, ba bất hộ, bốn vô sở úy,
cho đến mười tám pháp bất cộng của Phật đều không bị vướng mắc, không bị
lệ thuộc theo mà an trú tịch tịnh.
Do luân này nên đại Bồ-tát có thể dứt trừ hẳn
tội lỗi của ba thọ, đoạn trừ hẳn tất cả mọi phân biệt, xa lìa hẳn tất cả
pháp tướng, lại có thể an trú luân phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng
dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư tam-ma-địa chư đà-la-ni.
Bồ-tát an trụ luân này nên tất cả các nghiệp
sanh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh
giới đau khổ trong đường ác từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể
đoạn trừ hết, không còn sót lại, không thọ quả báo.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như thế giới
lúc hỏa tai khởi lên, năm mặt trời xuất hiện thì tất cả ao nhỏ, ao lớn,
sông nhỏ, sông lớn, biển nhỏ, biển lớn trong thế gian đều khô cạn hết,
không còn giọt nước nào. Cũng vậy, Bồ-tát khi thành tựu luân đại nhẫn đại
giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không vô lượng vô biên quảng đại chúng cụ từ
vô ngại giải nhất thiết Phật pháp chư tam-ma-địa chư đà-la-ni kiên cố thì
có thể an trụ luân phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết
hư không nhãn đảnh chư tam-ma-địa chư đà-la-ni. Do đó, tất cả các nghiệp
sanh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh
giới đau khổ trong đường ác từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể
đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như thế giới
khi thủy tai khởi lên thì ba ngàn đại thiên thế giới, các thế giới nhỏ,
bốn đại châu, tám vạn nước nhỏ, núi Diệu Cao và các núi đều bị chìm đắm
trong biển nước, tan hoại không còn gì cả. Cũng vậy, khi Bồ-tát thành tựu
luân đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không vô lượng vô biên
quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp chư tam-ma-địa,
chư đà-la-ni kiên cố thì có thể an trụ luân phương tiện thiện xảo đại giáp
trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư tam-ma-địa chư đà-la-ni. Do
đó, tất cả các nghiệp sanh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác
bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác từ quá khứ đến nay chưa
dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả
báo.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như bóng tối
bao trùm khắp không gian, khi mặt trời xuất hiện, bóng tối biến mất. Cũng
vậy, Bồ-tát khi thành tựu luân đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư
không vô lượng vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật
pháp chư tam-ma-địa chư đà-la-ni kiên cố thì có thể an trụ luân phương
tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư
tam-ma-địa chư đà-la-ni. Do đó, phát sanh mặt trời trí tuệ vô biên hư
không, có thể đoạn trừ hẳn bốn điên đảo, vô minh tăm tối của thân mình,
làm cho tất cả các nghiệp sanh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu
ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác từ quá khứ đến nay
chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ
quả báo.
Hơn nữa, do đây nên đối với chư Phật pháp
càng thêm tự tại, thường không thối chuyển, không làm theo bạn ác, thường
được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát; được nghe giáo
pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng; đối với các công đức không nhàm
chán, cho đến đạo Bồ-đề thường không gián
đoạn. Lại thường không xa lìa nghĩ nhớ niệm Phật, cho đến trong mộng cũng
không tạm quên.
Lại nữa, này thiện nam tử! Thế nào là luân
đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không vô lượng vô biên quảng
đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp chư tam-ma-địa chư
đà-la-ni kiên cố của đại Bồ-tát?
- Nghĩa là các Bồ-tát nhập sơ thiền cho đến
đệ tứ thiền, nhập vô biên hư không xứ, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ,
nhập diệt thọ tưởng định. An trụ trong định này thì tất cả ba thọ, ba hành
đều đoạn diệt, tâm không lệ thuộc theo các thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý...
đều đoạn trừ. An trú trong định này hoặc một ngày đêm cho đến bốn mươi
chín ngày đêm thọ thức ăn định vị. Từ định này xuất ra, tâm được tịch
tịnh, không bị vướng mắc, an trú tự tại.
Lại nhập định thắng nghĩa cứu cánh không, trụ
trong định này, tâm được bình đẳng, không bị vướng mắc, cũng như hư không,
các lỗ chân lông nơi thân xuất ra mồ hôi giống như sao mão, diệt trừ tất
cả những hơi nước kiết phược. Từ định này xuất ra, được nhớ nghĩ chân
chánh, hỷ lạc tối thắng, sung mãn khắp thân. Như thiên tử cõi trời Ðại Tự
Tại khi nhập định hiện nhất thiết lạc thì các lỗ chân lông nơi thân đều
hưởng thọ lạc.
Cũng vậy, Bồ-tát khi cảm giác lạc tiếp xúc
thân mình, liền nghĩ nhớ niệm Phật. Do nghĩ nhớ Phật nên chỉ thấy Phật,
không thấy tướng nào khác.
Khi Bồ-tát nghĩ đến một đức Phật, liền thấy
một đức Phật. Nếu nghĩ đến nhiều đức Phật, liền thấy nhiều đức Phật.
Nếu nghĩ đến Phật thân tướng nhỏ, liền thấy
Phật thân tướng nhỏ.
Nếu nghĩ đến Phật thân tướng lớn, liền thấy
Phật thân tướng lớn.
Nếu nghĩ đến Phật vô lượng thân, liền thấy
Phật vô lượng thân.
Nếu nghĩ đến thân mình là thân tướng Phật,
liền thấy thân mình đồng với thân Phật, các tướng viên mãn.
Nếu nghĩ đến thân khác là thân tướng Phật,
liền thấy thân khác đồng với thân Phật, các tướng viên mãn.
Nếu nghĩ đến tất cả hữu tình, phi tình có sắc
tướng là thân tướng Phật, liền thấy tất cả hữu tình, phi tình có sắc tướng
đồng với thân Phật, các tướng viên mãn, không thấy mọi sắc tướng nào khác.
Khi ấy, Bồ-tát liền nghĩ: “Tất cả các pháp,
tất cả sắc tướng đều như huyễn... Ðó là chắc thật, không hư vọng. Ta nên
đoạn trừ hết ba thọ, ba hành..., làm cho không còn sót lại”. Nghĩ vậy rồi,
Bồ-tát nhập diệt tận định. An trụ trong định này, nếu tâm mong mỏi điều gì
đều đoạn diệt hết, thọ thức ăn định vị hoặc trong một tuần, hoặc hai tuần,
ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười tuần, hoặc trải qua vô lượng trăm
ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tùy theo năng lực mà có thể an trụ định này,
thọ thức ăn định vị.
Từ định này xuất ra, tâm được tịch tịnh,
không bị vướng mắc, an trụ tự tại. Lại nhập vào định thắng nghĩa cứu cánh
không, nói rộng như trước, cho đến khi quán niệm thân tướng của Phật xong,
biết tất cả sắc tướng đều như huyễn... Ðó là chắc thật, không hư vọng.
Này thiện nam tử! Ðó là luân đại nhẫn đại
giáp trụ năng chẫn biến mãn hư không vô lượng vô biên quảng đại chúng cụ
từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp chư tam-ma-địa chư đà-la-ni kiên cố
của đại Bồ-tát. Ðại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì có thể an trụ
luân phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn
đảnh chư tam-ma-địa chư đà-la-ni. Trụ vào luân này nên có thể phát sanh
mặt trời trí huệ vô biên hư không, có thể đoạn trừ hẳn bốn điên đảo, vô
minh tăm tối của thân mình, làm cho tất cả các nghiệp sanh tử trong các
đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong
đường ác từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả,
không còn sót lại, không thọ quả báo.
Này thiện nam tử! Ðại Bồ-tát nào thành tựu
luân này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết cả ngũ dục, vượt xa hàng
Thanh văn, Ðộc giác, làm ruộng phước lớn cho Thanh văn, Ðộc giác. Tất cả
Thanh văn, Ðộc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì.
Do luân này nên đối với Phật pháp được tăng
trưởng tự tại, không bị thối chuyển, không làm theo bạn ác, thường được
gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, thường được nghe pháp,
thân cận cúng dường chúng Tăng, không nhàm chán tạo lập công đức, cho đến
đạo Bồ-đề không hề gián đoạn. Lại thường nghĩ nhớ niệm Phật, dù là ở trong
mộng vẫn không tạm quên. Do đó, phước đức trí tuệ của Bồ-tát mau được viên
mãn, chẳng bao lâu sẽ được an trụ nơi cõi Phật thanh tịnh, chứng đắc Vô
thượng chánh đẳng Bồ-đề. Ở nơi cõi Phật đó, tất cả hữu tình đều là hóa
sanh nên sắc tướng như Phật, phiền não mỏng ít, an trụ trong Ðại thừa.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên mà
nói kệ:
Muốn thành tựu pháp khí
Ðoạn trừ hết phiền não
Thường nhập vào chơn không
Muôn việc không khó làm
Ðoạn trừ mọi buộc ràng
Nên chuyên tu đẳng trì
Tương ưng công đức định
Ắt đạt huệ khó lường
Tu tịnh lự vô sắc
Diệt định quán chơn không
Thắng trí nghĩ nhớ Phật
Diệt hết tất cả ác
Tất cả pháp hữu vô
Phá bằng quán chơn không
Xa lìa các đường ác
Thường được gặp chư Phật
Khéo tu quán chơn không
Siêng học các pháp thiện
Cúng dường hết thảy Phật
Mau chứng thành đạo quả
Làm bạn với hữu tình
Trừ diệt bệnh phiền não
Mau trụ nước Phật tịnh
Chứng đạo quả Bồ-đề
Chúng sanh tướng như Phật
Ở khắp các quốc độ
Ðều mong cầu Phật thừa
Lìa Ðộc giác, Thanh văn.
KINH ÐẠI THỪA ÐẠI TẬP ÐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Phẩm
thứ tám: HOẠCH ÍCH CHÚC LỤY
Lúc Phật thuyết đại pháp môn này, trong chúng
hội có hằng hà sa chư đại Bồ-tát đã thường niệm Phật, tư duy tu tập trong
nhiều đời, nay nghe Phật nói các phương tiện về niệm Phật tu quán, liền
được chứng đắc môn niệm Phật tam-ma-địa.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp xong đều đắc môn đà-la-ni Nhất-thiết-định-mạng-hoa-man.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp đều đắc môn đà-la-ni
Nhất-thiết-thủ-lăng-già-ma-điện-quang-y-chỉ.
Lại có vô số chúng sanh nghe Phật tuyết pháp
liền được Nhất-thiết-pháp-tự-tại-chuyển-quang-minh-y-chỉ-thuận-nhẫn.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền xa lìa trần cấu, ở trong các pháp sanh pháp nhãn thanh
tịnh, đắc quả Dự-lưu.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp đắc quả Nhất-lai.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền chứng quả Bất-hoàn.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền chứng quả A-la-hán tối thượng.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền mong cầu ra khỏi cõi lao ngục trong tam giới, theo Phật
xuất gia, hướng vào chánh pháp.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp, suốt đời an trụ trong mười nghiệp đạo thiện, nương theo Thanh
văn thừa phát tâm không thối chuyển.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp, suốt đời an trụ trong mười nghiệp đạo thiện, nương theo pháp
Ðộc giác phát tâm không thối chuyển.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp, an trụ trong mười nghiệp đạo thiện, nương theo pháp Ðại thừa
phát A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề, không còn thối chuyển.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp, đắc chánh kiến thế gian. Do chánh kiến này nên trừ diệt hết
các nhân đưa đến cõi ác cùng các phiền não ác nghiệp, tăng trưởng tất cả
các nhân hướng đến cõi thiện và chánh nguyện thiện nghiệp.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền thọ tam quy y, an trụ trong tịnh giới cận trụ, cận sự, ưa
thích cúng dường chư Phật, thích nghe giáo pháp, thích phụng sự chư Tăng,
ngày đêm chuyên cần không hề phế bỏ.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe Phật
thuyết pháp liền xa lìa tất cả tà thú, tà quy, ác ý, ác nghiệp; ở trong
pháp Phật có lòng tin vững chắc, lìa bỏ thế tục mà thanh tịnh xuất gia.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Hư Không
Tạng:
- Này thiện nam tử! Nay Ta đem pháp môn Ðịa
Tạng thập luân đại ký này phó chúc cho ông, ông nên thọ trì làm cho lưu
truyền rộng khắp. Nếu có chúng sanh nào đối với pháp môn này có thể đọc
tụng, suy nghĩ nghĩa lý, giảng cho người nghe an trụ chánh hạnh, thì ông
nên dùng mười pháp sau để hộ trì họ, làm cho được an lạc, lợi ích lâu dài.
Thế nào là mười?
1- Bảo vệ tất cả tài vật của người ấy, làm
cho không bị hao tổn, thiếu thốn.
2- Bảo vệ không để cho oán thù xâm hại đến
người ấy.
3- Bảo vệ khiến cho người ấy xả bỏ hết tà
kiến, tà quy, mười nghiệp đạo ác.
4- Bảo vệ người đó thoát khỏi mọi sự trách
phạt về thân, ngữ.
5- Bảo vệ, ngăn chận tất cả những lời hủy
báng khinh lờn.
6- Bảo vệ người ấy không phạm tất cả các giới
điều.
7- Hộ trì cho người ấy trừ diệt tất cả loài
phi nhơn quấy nhiễu, tứ đại chống trái, lão bệnh phi thời.
8- Bảo vệ
người ấy làm cho không gặp tất cả những tai nạn phi thời, phi lý làm cho
chết yểu.
9- Hộ trì người ấy khi lâm chung được thấy
tất cả sắc tướng của Phật.
10- Hộ trì cho người ấy sau khi mạng chung
được sanh vào cõi thiện, gặp nhiều lợi ích an vui.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng hữu tình nào
đối với pháp môn này có thể đọc tụng, suy nghĩ nghĩa lý, giải nói cho
người trụ vào trong chánh hạnh thì ông
nên dùng mười pháp trên đây để hộ trì làm cho họ thường được lợi ích an
lạc.
Bấy
giờ, đại Bồ-tát Hư Không Tạng bạch Phật:
- Xin vâng đức Thế Tôn! Con sẽ thọ trì pháp
môn này và làm cho lưu truyền rộng khắp. Nếu có chúng sanh nào có thể đọc
tụng, suy nghĩ nghĩa lý kinh này, diễn thuyết cho người nghe được an trụ
chánh hạnh thì con sẽ dùng mười pháp trên để hộ trì làm cho họ thường được
nhiều lợi ích an lạc.
Khi đức Thế Tôn thuyết kinh xong, trong chúng
hội đại Bồ-tát Hư Không Tạng, đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, đại Bồ-tát Hảo
Nghi Vấn, các vị Thiên tạng, Ðại phạm, trời, rồng, Dạ-xoa, Kiền-đạt-phược,
A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhân, phi nhân..., tất
cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.
KINH ÐẠI THỪA ÐẠI TẬP ÐỊA TẠNG
THẬP LUÂN
Hết quyển
thứ tám
(Trọn bộ)
--- o0o ---
Mục Lục
Quyển 01
|
Quyển 02
|
Quyển 03
|
Quyển 04 |
Quyển 05
--- o0o ---
Vi tính: Nguyên
Tịnh
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 4-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục