Các Thiên tử! Nếu Bồ tát vì
nhiếp lấy tam ma địa môn nên hành, vì nới bỏ tam ma địa môn nên hành. Vì
nhiếp lấy đà la ni môn nên hành, vì nới bỏ tam ma địa môn nên hành. Bồ tát
này chẳng năng tu Bát nhã Ba la mật đa; cũng chẳng năng tu tĩnh lự, tinh
tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. Bồ tát này chẳng năng chứng nội
không; cũng chẳng năng chứng ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát này chẳng năng chứng
chơn như; cũng chẳng năng chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
niệm trụ; cũng chẳng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát này chẳng năng chứng khổ
thánh đế, cũng chẳng năng chứng tập diệt đạo thánh đế. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
tĩnh lự; cũng chẳng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát này
chẳng năng tu tám giải thoát; cũng chẳng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Bồ tát này chẳng năng tu không
giải thoát môn; cũng chẳng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ
tát này chẳng năng tu năm nhãn, cũng chẳng năng tu sáu thần thông. Bồ tát
này chẳng năng tu tam ma địa môn, cũng chẳng năng tu đà la ni môn. Bồ tát này chẳng năng tu Phật
mười lực; cũng chẳng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này chẳng năng tu
nhất thiết trí; cũng chẳng năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Các Thiên tử! Nếu Bồ tát vì
nhiếp lấy Phật mười lực nên hành, vì nới bỏ Phật mười lực nên hành. Vì
nhiếp lấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng nên hành, vì nới bỏ bốn vô sở úy cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng nên hành. Bồ tát này chẳng năng tu Bát nhã Ba la
mật đa; cũng chẳng năng tu tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí
Ba la mật đa. Bồ tát này chẳng năng chứng nội
không; cũng chẳng năng chứng ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát này chẳng năng chứng
chơn như; cũng chẳng năng chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
niệm trụ; cũng chẳng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát này chẳng năng chứng khổ
thánh đế, cũng chẳng năng chứng tập diệt đạo thánh đế. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
tĩnh lự; cũng chẳng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát này
chẳng năng tu tám giải thoát; cũng chẳng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Bồ tát này chẳng năng tu không
giải thoát môn; cũng chẳng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ
tát này chẳng năng tu năm nhãn, cũng chẳng năng tu sáu thần thông. Bồ tát
này chẳng năng tu tam ma địa môn, cũng chẳng năng tu đà la ni môn. Bồ tát này chẳng năng tu Phật
mười lực; cũng chẳng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này chẳng năng tu
nhất thiết trí; cũng chẳng năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Các Thiên tử! Nếu Bồ tát vì
nhiếp lấy quả Dự lưu nên hành, vì nới bỏ quả Dự lưu nên hành. Vì nhiếp lấy
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán nên hành, vì nới bỏ quả Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán nên hành. Bồ tát này chẳng năng tu Bát nhã Ba la mật đa;
cũng chẳng năng tu tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la
mật đa. Bồ tát này chẳng năng chứng nội
không; cũng chẳng năng chứng ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát này chẳng năng chứng
chơn như; cũng chẳng năng chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
niệm trụ; cũng chẳng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát này chẳng năng chứng khổ
thánh đế, cũng chẳng năng chứng tập diệt đạo thánh đế. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
tĩnh lự; cũng chẳng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát này
chẳng năng tu tám giải thoát; cũng chẳng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Bồ tát này chẳng năng tu không
giải thoát môn; cũng chẳng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ
tát này chẳng năng tu năm nhãn, cũng chẳng năng tu sáu thần thông. Bồ tát
này chẳng năng tu tam ma địa môn, cũng chẳng năng tu đà la ni môn. Bồ tát này chẳng năng tu Phật
mười lực; cũng chẳng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này chẳng năng tu
nhất thiết trí; cũng chẳng năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Các Thiên tử! Nếu Bồ tát vì
nhiếp lấy Độc giác Bồ đề nên hành, vì nới bỏ Độc giác Bồ đề nên hành. Bồ
tát này chẳng năng tu Bát nhã Ba la mật đa; cũng chẳng năng tu tĩnh lự,
tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. Bồ tát này chẳng năng chứng nội
không; cũng chẳng năng chứng ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát này chẳng năng chứng
chơn như; cũng chẳng năng chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
niệm trụ; cũng chẳng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát này chẳng năng chứng khổ
thánh đế, cũng chẳng năng chứng tập diệt đạo thánh đế. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
tĩnh lự; cũng chẳng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát này
chẳng năng tu tám giải thoát; cũng chẳng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Bồ tát này chẳng năng tu không
giải thoát môn; cũng chẳng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ
tát này chẳng năng tu năm nhãn, cũng chẳng năng tu sáu thần thông. Bồ tát
này chẳng năng tu tam ma địa môn, cũng chẳng năng tu đà la ni môn. Bồ tát này chẳng năng tu Phật
mười lực; cũng chẳng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này chẳng năng tu
nhất thiết trí; cũng chẳng năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Các Thiên tử! Nếu Bồ tát vì
nhiếp lấy nhất thiết trí nên hành, vì nới bỏ nhất thiết trí nên hành. Vì
nhiếp lấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nên hành; vì nới bỏ đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí nên hành. Bồ tát này chẳng năng tu Bát nhã
Ba la mật đa; cũng chẳng năng tu tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới,
bố thí Ba la mật đa. Bồ tát này chẳng năng chứng nội
không; cũng chẳng năng chứng ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bồ tát này chẳng năng chứng
chơn như; cũng chẳng năng chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
niệm trụ; cũng chẳng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bồ tát này chẳng năng chứng khổ
thánh đế, cũng chẳng năng chứng tập diệt đạo thánh đế. Bồ tát này chẳng năng tu bốn
tĩnh lự; cũng chẳng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát này
chẳng năng tu tám giải thoát; cũng chẳng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Bồ tát này chẳng năng tu không
giải thoát môn; cũng chẳng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ
tát này chẳng năng tu năm nhãn, cũng chẳng năng tu sáu thần thông. Bồ tát
này chẳng năng tu tam ma địa môn, cũng chẳng năng tu đà la ni môn. Bồ tát này chẳng năng tu Phật
mười lực; cũng chẳng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này chẳng năng tu
nhất thiết trí; cũng chẳng năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tất cả pháp. Pháp
thâm diệu này tùy thuận tất cả pháp nào? Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận Bát nhã Ba la mật đa; cũng tùy thuận tĩnh lự, tinh tiến, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận nội không; cũng tùy thuận ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất
cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự
tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận chơn như; cũng tùy thuận pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng
tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận bốn niệm trụ; cũng tùy thuận bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận khổ thánh đế, cũng tùy thuận tập diệt đạo thánh đế. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận bốn tĩnh lự; cũng tùy thuận bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tám giải thoát; cũng tùy thuận
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận không giải thoát môn; cũng tùy thuận vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận năm nhãn, cũng
tùy thuận sáu thần thông. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tam
ma địa môn, cũng tùy thuận đà la ni môn. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này tùy thuận Phật mười lực; cũng tùy thuận bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bạch
Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận nhất thiết trí; cũng tùy thuận đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đều không có ngại. Pháp thâm diệu này đối gì không ngại? Bạch Thế Tôn!
Pháp thâm diệu này đối sắc không ngại, đối thọ tưởng hành thức không ngại.
Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối nhãn xứ không ngại, đối nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ không ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối sắc xứ vô ngại,
đối thanh hương vị xúc pháp xứ vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối nhãn giới vô ngại, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới vô ngại. Bạch Thế
Tôn! Pháp thâm diệu này đối sắc giới vô ngại, đối thanh hương vị xúc pháp
giới vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối nhãn thức giới vô ngại,
đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối nhãn xúc vô ngại, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vô ngại. Bạch Thế
Tôn! Pháp thâm diệu này đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô ngại,
đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối địa giới vô ngại, đối thủy hỏa phong không thức giới vô ngại. Bạch
Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối vô minh vô ngại; đối hành, thức, danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối bố thí Ba la mật đa vô ngại; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối nội không vô ngại; đối ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối chơn như vô ngại; đối pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất
biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế,
hư không giới, bất tư nghì giới vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối bốn niệm trụ vô ngại; đối bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp
thâm diệu này đối khổ thánh đế vô ngại, đối tập diệt đạo thánh đế vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối bốn tĩnh lự vô ngại; đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô ngại.
Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối tám giải thoát vô ngại; đối tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối không giải thoát môn vô ngại; đối vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối năm nhãn vô ngại, đối
sáu thần thông vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối tam ma địa
môn vô ngại, đối đà la ni môn vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối Phật mười lực vô ngại; đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đối quả Dự lưu vô ngại; đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô ngại.
Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này đối Độc giác Bồ đề vô ngại. Bạch Thế Tôn!
Pháp thâm diệu này đối nhất thiết trí vô ngại; đối đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí vô ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này lấy vô ngại làm tướng. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh hư không bình
đẳng, vì tánh chơn như bình đẳng, vì tánh pháp giới bình đẳng, vì tánh
pháp tánh bình đẳng, vì tánh bất hư vọng tánh bình đẳng, vì tánh bất biến
dị tánh bình đẳng, vì tánh ly sanh tánh bình đẳng, vì tánh bình đẳng tánh
bình đẳng, vì tánh pháp định bình đẳng, vì tánh pháp trụ bình đẳng, vì
tánh thật tế bình đẳng, vì tánh hư không giới bình đẳng, vì tánh bất tư
nghì giới bình đẳng. Vì tánh không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng. Vì tánh
vô tạo, vô tác bình đẳng. Vì tánh vô nhiễm, vô tịnh bình đẳng. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này vô sanh vô diệt. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc vô sanh vô diệt, vì
thọ tưởng hành thức vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xứ vô sanh vô
diệt, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì sắc xứ
vô sanh vô diệt, vì thanh hương vị xúc pháp xứ vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhãn giới vô
sanh vô diệt, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý giới vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn!
Vì sắc giới vô sanh vô diệt, vì thanh hương vị xúc pháp giới vô sanh vô
diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhãn thức giới vô sanh vô diệt, vì nhĩ tỷ thiệt
thân ý thức giới vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xúc vô sanh vô
diệt, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sanh vô diệt, vì nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì địa giới vô
sanh vô diệt, vì thủy hỏa phong không thức giới vô sanh vô diệt. Bạch Thế
Tôn! Vì vô minh vô sanh vô diệt; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì bố thí Ba la
mật đa vô sanh vô diệt; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã
Ba la mật đa vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nội không vô
sanh vô diệt; vì ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,
tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh
không, vô tánh tự tánh không vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì chơn như vô
sanh vô diệt; vì pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ
vô sanh vô diệt; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì khổ
thánh đế vô sanh vô diệt, vì tập diệt đạo thánh đế vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì bốn tĩnh lự vô
sanh vô diệt; vì bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô sanh vô diệt. Bạch Thế
Tôn! Vì tám giải thoát vô sanh vô diệt; vì tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì không giải
thoát môn vô sanh vô diệt; vì vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô sanh
vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì năm nhãn vô sanh vô diệt, vì sáu thần thông vô
sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì tam ma địa môn vô sanh vô diệt, vì đà la ni
môn vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì Phật mười lực
vô sanh vô diệt; vì bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì quả Dự lưu vô
sanh vô diệt; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô sanh vô diệt. Bạch
Thế Tôn! Vì Độc giác Bồ đề vô sanh vô diệt. Bạch Thế Tôn! Vì nhất thiết
trí vô sanh vô diệt; vì đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh vô
diệt. Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu
này đều không có dấu chân. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân sắc chẳng
khá được vậy, dấu chân thọ tưởng hành thức chẳng khá được vậy. Bạch Thế
Tôn! Vì dấu chân nhãn xứ chẳng khá được vậy, dấu chân nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân sắc xứ chẳng khá được
vậy, dấu chân thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân nhãn
giới chẳng khá được vậy, dấu chân nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khá được
vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân sắc giới chẳng khá được vậy, dấu chân thanh
hương vị xúc pháp giới chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân nhãn
thức giới chẳng khá được vậy, dấu chân nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng
khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân nhãn xúc chẳng khá được vậy, dấu
chân nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được vậy, dấu chân nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân địa
giới chẳng khá được vậy, dấu chân thủy hỏa phong không thức giới chẳng khá
được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân vô minh chẳng khá được vậy; dấu chân
hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chẳng
khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân bố
thí Ba la mật đa chẳng khá được vậy; dấu chân tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân nội
không chẳng khá được vậy; dấu chân ngoại không, nội ngoại không, không
không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh
không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng
không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh
không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân chơn
như chẳng khá được vậy; dấu chân pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân bốn
niệm trụ chẳng khá được vậy; dấu chân bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng khá được vậy.
Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân khổ thánh đế chẳng khá được vậy, dấu chân tập
diệt đạo thánh đế chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân bốn
tĩnh lự chẳng khá được vậy; dấu chân bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng
khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân tám giải thoát chẳng khá được vậy;
dấu chân tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân không
giải thoát môn chẳng khá được vậy; dấu chân vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân năm nhãn chẳng khá được
vậy, dấu chân sáu thần thông chẳng khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân
tam ma địa môn chẳng khá được vậy, dấu chân đà la ni môn chẳng khá được
vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân Phật
mười lực chẳng khá được vậy; dấu chân bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khá được
vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân quả
Dự lưu chẳng khá được vậy; dấu chân quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chẳng
khá được vậy. Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân Độc giác Bồ đề chẳng khá được vậy.
Bạch Thế Tôn! Vì dấu chân nhất thiết trí chẳng khá được vậy; dấu chân đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khá được vậy. Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục,
cõi Sắc thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như
Lai sanh, chơn thật đệ tử Phật. Sở dĩ vì sao? Thượng tọa Thiện Hiện thuyết
ra các pháp tất cả đều cùng "không" tương ưng vậy. Bấy giờ, Thiện Hiện bảo các
Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc rằng: Các ngươi Thiên tử! Nói Thiện Hiện ta tùy
Như lai sanh, chơn thật đệ tử Phật. Thiện Hiện tùy Như lai sanh là thế
nào? Nghĩa là tùy Như Lai chơn như mà sanh vậy. Sở dĩ vì sao? Như Lai chơn
như không đến không đi, Thượng tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế, không đến
không đi. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như tức
tất cả pháp đều chơn như. Tất cả pháp chơn như tức Như lai chơn như . Chơn
như như thế không tánh chơn như, cũng không tánh chẳng chơn như. Thượng
tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế, thường trụ làm tướng. Bởi đấy nên nói
Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như
thường trụ làm tướng. Thượng tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế, thường trụ
làm tướng. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như không
biến khác, không phân riêng, khắp chuyển các pháp. Thượng tọa Thiện Hiện
chơn như cũng thế, không biến khác, không phân riêng, khắp chuyển các
pháp. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như không
gì quái ngại. Tất cả pháp chơn như cũng không gì quái ngại. Hoặc Như Lai
chơn như, hoặc tất cả pháp chơn như, đồng một chơn như, không hai không
riêng, không tạo không tác. Chơn như như thế, tướng thường chơn như, không
thời nào chẳng phải tướng chơn như. Vì tướng thường chơn như, không thời
nào chẳng phải tướng thường chơn như, nên không hai không riêng. Thượng
tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện Hiện
tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như đối
tất cả xứ không nhớ nghĩ, không phân riêng. Thượng tọa Thiện Hiện chơn như
cũng thế, đối tất cả xứ không nhớ nghĩ, không phân riêng. Bởi đấy nên nói
Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như không
riêng không khác, chẳng khá được. Thượng tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế,
không riêng không khác, chẳng khá được. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện
Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, Như lai chơn như chẳng
lìa tất cả pháp chơn như. Tất cả cả pháp chơn như chẳng lìa Như Lai chơn
như. Chơn như như thế, tướng thường chơn như, không thời nào chẳng phải
tướng chơn như. Thượng tọa Thiện Hiện cũng như thế. Bởi đấy nên nói Thượng
tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Dù nói tùy sanh mà không có chỗ tùy sanh,
vì Thiện Hiện chơn như chẳng khác Phật vậy. Lại nữa, Như lai chơn như chẳng
quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Tất cả pháp chơn như cũng chẳng quá
khứ, vị lai, hiện tại. Thượng tọa Thiện Hiện chơn như cũng thế. Bởi đấy
nên nói Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Lại nữa, quá khứ chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên quá
khứ chơn như bình đẳng. Vị lai chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như
bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên vị lai chơn như bình đẳng. Hiện
tại chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như
bình đẳng, nên hiện tại chơn như bình đẳng Hoặc quá khứ , hiện tại, vị lai
chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như
bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, sắc chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên sắc
chơn như bình đẳng. Thọ tưởng hành thức chơn như bình đẳng, nên Như Lai
chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên thọ tưởng hành thức
chơn như bình đẳng. Như vậy hoặc sắc chơn như bình đẳng, hoặc thọ tưởng
hành thức chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một
chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, nhãn xứ chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên nhãn
xứ chơn như bình đẳng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chơn như bình đẳng, nên Như
Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc nhãn xứ chơn như bình đẳng, hoặc nhĩ
tỷ thiệt thân ý xứ chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng,
đồng một chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, sắc xứ chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên sắc
xứ chơn như bình đẳng. Thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như bình đẳng, nên
Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên thanh hương vị
xúc pháp xứ chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc sắc xứ chơn như bình đẳng,
hoặc thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như
bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, nhãn giới chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên
nhãn giới chơn như bình đẳng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên nhĩ tỷ
thiệt thân ý giới chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc nhãn giới chơn như
bình đẳng, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai
chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai, không riêng. Lại nữa, sắc giới chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên sắc
giới chơn như bình đẳng. Thanh hương vị xúc pháp giới chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên thanh hương
vị xúc pháp giới chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc sắc giới chơn như bình
đẳng, hoặc thanh hương vị xúc pháp giới chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai
chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, nhãn thức giới chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng
nên nhãn thức giới chơn như bình đẳng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng
nên nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc nhãn
thức giới chơn như bình đẳng, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chơn như
bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng,
không hai không riêng. Lại nữa, nhãn xúc chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên nhãn
xúc chơn như bình đẳng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chơn như bình đẳng, nên
Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc nhãn xúc chơn như bình đẳng,
hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như
bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như
Lai chơn như bình đẳng nên nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như
bình đẳng. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như bình đẳng. Như vậy,
hoặc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như bình đẳng, hoặc nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như bình đẳng, hoặc Như
Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai không
riêng. Lại nữa, địa giới chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên địa
giới chơn như bình đẳng. Thủy hỏa phong không thức giới chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên thủy
hỏa phong không thức giới chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc địa giới chơn
như bình đẳng, hoặc thủy hỏa phong không thức giới chơn như bình đẳng,
hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai
không riêng. Lại nữa, vô minh chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên vô
minh chơn như bình đẳng. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như
Lai chơn như bình đẳng, nên hành cho đến lão tử chơn như bình đẳng. Như
vậy, hoặc vô minh chơn như bình đẳng, hoặc hành cho đến lão tử chơn như
bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng,
không hai không riêng. Lại nữa, bố thí Ba la mật đa
chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình
đẳng nên bố thí Ba la mật đa chơn như bình đẳng. Tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn
như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên tịnh giới cho đến bát nhã
Ba la mật đa chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc bố thí Ba la mật đa chơn
như bình đẳng, hoặc tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa chơn như bình
đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không
hai không riêng. Lại nữa, nội không chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
nội không chơn như bình đẳng. Ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn
như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên ngoại không cho đến vô tánh
tự tánh không chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc nội không chơn như bình
đẳng, hoặc ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chơn như bình đẳng,
hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai
không riêng. Lại nữa, chơn như chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên chơn
như chơn như bình đẳng. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư
không giới, bất tư nghì giới chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình
đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên pháp giới cho đến bất tư nghì giới
chơn như bình đẳng. Như vậy hoặc chơn như chơn như bình đẳng, hoặc pháp
giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới
chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như
bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, bốn niệm trụ chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
bốn niệm trụ chơn như bình đẳng. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chơn như bình đẳng, nên Như
Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên bốn chánh đoạn cho
đến tám thánh đạo chi chơn như bình đẳng. Như vậy hoặc bốn niệm trụ chơn
như bình đẳng, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi chơn như bình
đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không
hai không riêng. Lại nữa, khổ thánh đế chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
khổ thánh đế chơn như bình đẳng. Tập diệt đạo thánh đế chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên tập diệt
đạo thánh đế chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc khổ thánh đế chơn như bình
đẳng, hoặc tập diệt đạo thánh đế chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như
bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không hai, không riêng. Lại nữa, bốn tĩnh lự chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên
bốn tĩnh lự chơn như bình đẳng. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc bốn tĩnh
lự chơn như bình đẳng, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như bình
đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng, không
hai, không riêng. Lại nữa, tám giải thoát chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng
nên tám giải thoát chơn như bình đẳng. Tám thắng xứ chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên tám thắng
xứ chơn như bình đẳng. Chín thứ đệ định, mười biến xứ chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên chín thứ
đệ định, mười biến xứ chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc tám giải thoát
chơn như bình đẳng, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chơn
như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình
đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, không giải thoát môn
chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình
đẳng nên không giải thoát môn chơn như bình đẳng. Vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn
như bình đẳng, nên vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chơn như bình đẳng.
Như vậy, hoặc không giải thoát môn chơn như bình đẳng, hoặc vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng,
đồng một chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, năm nhãn chơn như bình
đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng nên năm
nhãn chơn như bình đẳng. Sáu thần thông chơn như bình đẳng, nên Như Lai
chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên sáu thần thông chơn
như bình đẳng. Như vậy, hoặc năm nhãn chơn như bình đẳng, hoặc sáu thần
thông chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn
như bình đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, tam ma địa môn chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng
nên tam ma địa môn chơn như bình đẳng. Đà la ni môn chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên đà la ni
môn chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc tam ma địa môn chơn như bình đẳng,
hoặc nên đà la ni môn chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng,
đồng một chơn như bình đẳng, không hai, không riêng. Lại nữa, Phật mười lực chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
Phật mười lực chơn như bình đẳng. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chơn như bình đẳng,
nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc
Phật mười lực chơn như bình đẳng, hoặc bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng
một chơn như bình đẳng, không hai, không riêng. Lại nữa, quả Dự lưu chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
quả Dự lưu chơn như bình đẳng. Quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như
bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng, nên
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc quả Dự
lưu chơn như bình đẳng, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như
bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình đẳng,
không hai, không riêng. Lại nữa, Độc giác Bồ đề chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng,
nên Độc giác Bồ đề chơn như bình đẳng. Như vậy, hoặc Độc giác Bồ đề chơn
như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một chơn như bình
đẳng, không hai không riêng. Lại nữa, nhất thiết trí chơn
như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình đẳng,
nên nhất thiết trí chơn như bình đẳng. Đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
chơn như bình đẳng, nên Như Lai chơn như bình đẳng; Như Lai chơn như bình
đẳng, nên đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chơn như bình đẳng. Như vậy,
hoặc nhất thiết trí chơn như bình đẳng, hoặc đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí chơn như bình đẳng, hoặc Như Lai chơn như bình đẳng, đồng một
chơn như bình đẳng, không hai không riêng. Các Thiên tử! Bồ tát Ma ha tát
hiện chứng tất cả pháp chơn như bình đẳng như thế, nên gọi là Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác. Thượng tọa Thiện Hiện đối chơn như này, năng thâm tin
hiểu. Bởi đấy nên nói Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Nguồn: www.quangduc.com