.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông
Tập III
---o0o---
CHƯƠNG THỨ TÁM
1.Phật
dạy ba món tiệm thứ
2.
Các
địa vị trong tiến trình tu chứng
3.Kinh
Thủ Lăng Nghiêm có nhiều tên gọi
4.
Những
mối nghi ngờ sâu sắc có tính phổ biến được Phật dạy bày.
5.
Do những tập nhân bất thiện tự
chiêu cảm các ác quả khổ đau.
6.
Sáu
thứ khổ báo là kết quả của bất thiện nghiệp phát xuất
từ lục căn và lục thức của con người.
7.
Nói
về các dư báo sau khi ra khỏi địa ngục
8.
Mười
thứ Tiên do tu Dị nhân kết thành Dị quả
9.
Trời Dục
giới
I - PHẬT DẠY BA MÓN TIỆM
THỨ [^]
Thế nào là ba món
tiệm thứ ?
Một là tu
tập, trừ các trợ nhân.
Hai là chân tu,
trau dồi chánh tánh.
Ba là tăng
tiến, ngược dòng hiện nghiệp.
Thế nào là
trừ các trợ nhân ?
Nầy
A Nan ! Mười hai loại chúng sanh trong thế
giới không thể tự toàn thánh thiện,
cần phải nương theo bốn cách ăn mà
được tồn sinh. Đó là đoạn thực,
xúc thực, tư thực và thức thực. Vì
vậy, Như Lai nói tất cả chúng sanh nhờ
ăn mà được sống còn.
Đoạn
thực là ăn các thứ ngũ cốc, ngũ
quả, ăn từng nắm vắt, từng miếng,
từng cái, mà chúng sanh thọ dụng hàng
ngày.
Xúc
thực là nhờ sự tiếp xúc của căn
và trần sanh ra cảm thọ vui buồn, như coi
hát, xem phim
làm cho con người thấy
khỏe khoắn kéo dài sự sống.
Tư
thực là nhớ nghĩ những điều thích
thú đã qua, hy vọng gì toại lòng sắp
đến, cũng là cách giúp cho sự sống
tồn sinh.
Thức
thực là A lại da thức duy trì dòng sanh
mệnh, làm chỗ y chỉ cho tiền thất thức.
Chúng
sanh các ông đã quay về đạo vô
thượng của Như Lai, thì hãy khéo léo
điều hòa các cách ăn của mình, đừng
để rơi vào tửu nhục bê tha, sắc thanh
phóng túng, hy vọng đảo điên với một
tâm hồn đen tối, trong một thể xác
buông trôi trong biển đời ô trược.
Hãy
chủ động các cách ăn, gọi là tu tập
trừ các trợ nhân. Đó gọi là món
tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.
Thế
nào là trau dồi chánh tánh ?
A
Nan ! Hành giả muốn vào tam ma đề,
trước hết phải giữ gìn giới luật cho
thanh tịnh. Phải đoạn tâm dâm và tâm
sát. Người tu hành không dứt tâm tham
dâm hiếu sát mà mong ra khỏi ba cõi là
điều không thể có. Phải giữ tứ
trọng và bát khí của Thanh văn tiến
lên hành trì tam tụ tịnh giới của Bồ
tát. Giữ giới dâm được thanh tịnh
thì cắt đứt nghiệp nhân sanh nhau, giết
nhau ở thế gian. Giữ giới trộm cướp
thanh tịnh thì không còn nợ trần vay trả
kiếp nầy kiếp nọ trong lục thú. Thành
tựu tam ma đề thì cái nhục thân cha mẹ
sanh ra không cần thiên nhãn tự thấy
được thế giới trong mười phương,
thấy Phật, nghe pháp, chính mình vâng
lãnh thánh chỉ của Phật, được đại
thần thông dạo khắp thập phương thế
giới
Đó gọi là món tiệm thứ tu
hành tăng tiến thứ hai.
Thế
nào là ngược dòng hiện nghiệp ?
A
Nan ! Người giữ giới cấm thanh tịnh,
tâm ý trong sáng, tam nghiệp điều thuận,
không rong ruổi theo lục trần và tự
biết tánh bản nguyên. Trần chẳng tương
duyên thì tâm không bị dính mắc buộc
ràng, đi ngược dòng hiện nghiệp trở
về thể tánh tịnh minh; sáu thức trong
sáng như pha lê, nhìn cõi nước trong
mười phương một màu trong suốt như
ngọc lưu ly toàn bích có ánh trăng tròn
sáng ảnh hiện vào trong. Thân tâm hành
giả, bấy giờ khinh an khoan khoái trong
thể tánh nhiệm mầu và mười phương
Như Lai một thời cùng hiện, hành giả
chứng nhập pháp nhẫn vô sanh. Sự tu
tập từ đó dần dần tăng tiến, rồi
dựa trên mức độ giải thoát giác
ngộ của hành giả mà an lập địa vị
thánh hiền. Đó là món tiệm thứ tu
hành tăng tiến thứ ba.
*
* *
TRỰC
CHỈ
"Tiệm"
và "đốn" là hai thuật ngữ của
đạo Phật. Tiệm có nghĩa là dần dần,
tu dần dần, học hiểu dần dần và dần
dần chứng đắc, từ quả vị thấp đến
quả vị cao. "Đốn" là nhanh chóng,
thẳng tắt vượt bậc. Như nghe pháp liễu
nghĩa đại thừa, liền tỏ ngộ một cách
sâu sắc, không bị sự phân vân đấu
tranh trong quá trình nhận thức chân lý.
Do đó, sự giải thoát giác ngộ vượt
bậc không hạn cuộc bởi thời gian và
pháp môn tu tập nào. Luận xét về căn
cơ của chúng sanh thì có nhiều hạng. Có
người chỉ tu tập pháp "tiệm tu tiệm
ngộ". Có người thì "đốn
ngộ" nhưng cần phải "tiệm
tu". Có người thì "đốn tu"
mà "tiệm ngộ". Chỉ có hạng
"đốn ngộ đốn tu" là hạng
người "bạt tục siêu quần, vạn
trung vô nhất".
Cùng
một đích đến, mà phương tiện di chuyển
khác nhau thì sự hiện diện sau trước
khác nhau. Ai đi máy bay thì đến trước,
sử dụng ô tô thì phải chịu hạng nhì,
cỡi xe gắn máy thậm chí với người
đi bộ, trước sau vẫn đến, nhưng sự
có mặt hoàn toàn lệ thuộc với thời
gian. Vấn đề đốn tiệm trong việc tu
hành tiến bộ chậm mau hoàn toàn tùy
thuộc căn cơ và chủng tánh.
Phật
dạy ba môn tiệm thứ nhằm mở rộng
cửa Niết bàn, đón nhận hết mọi
chủng tánh, căn cơ.
Địa
vị Hiền, Thánh, Đẳng giác và Phật, cả
thảy 55 bậc. Tiêu chuẩn xét đoán đều
căn cứ nơi "tâm" và
"hạnh" mà ước định quả vị ở
vào thứ bậc nào. Thứ bậc có trên
dưới, quả vị có thấp cao, người đệ
tử Phật uyên thâm giáo lý, hiểu ngay
rằng: Đó là phương tiện giả lập. Tâm
hạnh của người đạt đạo làm sao lấy
thước mà đo ? Người chứng đắc đạo
quả, thấy rằng mình có chứng đắc vốn
là đã là sai. Nói có địa vị thấp cao,
phải hiểu đó là phương tiện của Như
Lai vận dụng !
II
- CÁC ĐỊA VỊ TRONG TIẾN TRÌNH TU CHỨNG [^]
1. Địa
vị càn tuệ
Phật bảo: A Nan ! Khi
có người thiện nam phát ý tu hành
đến giai đoạn ái dục khô cạn, căn
cảnh không còn dính mắc nặng sâu, tâm
luyến ái được vơi nhẹ, nhờ vậy họ
thường giữ tâm trụ ở chỗ rỗng
không và trong sáng. Họ chỉ sử dụng
thuần một mặt lý trí mà quan sát mà
đánh giá nhận thức hiện tượng vạn
pháp trong thế giới mười phương. Họ
khô cạn hết những tập khí dục nhiễm
luyến ái ở cõi đời, nhưng họ chưa
tiếp thu được dòng nước pháp hỉ khinh
an của Như Lai, họ chỉ có một thứ lý
trí khô khan, cho nên gọi là CÀN TUỆ
ĐỊA.
*
* *
TRỰC
CHỈ
Dựa
trên công dụng chuyển mê khải ngộ của
con người, Như Lai phương tiện triển khai
các thành vị. Càn tuệ địa nói dễ
hiểu là những hạng người tu hành bắt
đầu khô khan tình cảm của thế gian. Họ
chinh phục và chiến thắng được những
dục nhiễm luyến ái của thường tình,
họ bắt đầu sống nghiêng nặng về mặt
lý trí trong sáng, cứng rắn.
Người
phát tâm tu hành, công việc đầu tiên
phải học tập và tự huấn luyện cho
mình sống nhiều lý trí. Vì đỉnh cao của
lý trí chính là địa vị CÀN TUỆ nầy.
Con
người tâm hồn ướt át, tình cảm rạt
rào mà mong học tu đạo giải thoát,
chẳng khác nào đào giếng tìm nguồn
nước để uống với một nhát cuốc
đầu tiên tung tóe mịt mù cát bụi !
2.
Địa vị thập tín
*
Tín tâm. Từ địa vị Càn tuệ phát huy
tánh nhiệm mầu tròn sáng của chơn tâm,
ức chế các vọng tưởng, hướng tâm
vào chân lý trung đạo.
*
Niệm tâm. Có tín tâm chân chánh, chánh
trí phát sanh ngũ ấm, lục nhập, thập
nhị xứ, thập bát giới không còn là
những chướng ngại ngăn che mà còn có
thể nhớ lại những việc xa xưa của
đời mình trong nhiều kiếp.
*
Tinh tấn tâm. Chánh trí ngày càng hiển
hiện, tập khí bất thiện vô thỉ bị
đồng hóa theo tánh tịnh minh và giữ
vững tánh tịnh minh tiến dần đến chỗ
chân tịnh.
*
Tuệ tâm. Tâm tánh tịnh minh được liên
tục hiện tiền, thường sống và tư duy
trong trí tuệ.
*
Định tâm. Duy trì và phát huy trí tuệ
đã có. Tâm ý an trụ trong cảnh tịch
tĩnh và sanh ra một định lực trong sáng.
*
Bất thối tâm. Do định lực phát sanh trí
tuệ ngày một tăng tiến mà không có
thoát thất.
*
Hộ pháp tâm. Định tuệ tự nhiên tăng
trưởng theo đà tiên tiến, hành giả
giao tiếp từng phần phước, trí hùng
lực của thập phương Như Lai.
*
Hồi hướng tâm. Thường giác tỉnh trong
tánh giác minh. Xoay tánh giác minh an trú
nơi trí quang Phật, như hai tấm gương đối
chiếu, những hình ảnh trong gương y hệt
nhau.
*
Giới tâm. Xoay về an trú nơi trí quang
Phật. Nhờ vậy, tâm càng thêm thanh tịnh
an trụ trong tịch tĩnh vô vi, xa rời
những lối sinh hoạt hình thức hữu vi.
*
Nguyện tâm. Giới tâm đã tự tại cho
nên hành giả có thể vân du khắp cõi
nước mười phương tùy nguyện của
mình.
3. Địa
vị thập trụ
*
Phát tâm trụ: Hành giả vận dụng
phương tiện phát khởi mười tâm ở
hàng thập tín cho đến khi tâm tánh ấy
còn ròng rặc một thể tịnh minh, viên
dung thành một chân tâm sáng suốt viên
mãn.
*
Trị địa trụ: Nương nơi tâm trong sáng
đã có trau dồi sửa trị cái tâm hiện
tại khiến cho chân tâm trong sáng càng
trong sáng hơn như khối lưu ly trong suốt
và trong đó hiện ra vàng ròng.
*
Tu hành trụ: Tâm địa thông suốt, công
dụng nhận thức của sáu căn không còn
bị ngăn ngại bởi sáu trần, tri kiến
của hành giả có khả năng vận dụng
quán sát khắp mười phương không có
gì ngăn ngại.
*
Sanh quí trụ: Đạt đến chỗ hạnh đồng
như Phật và tiếp thụ từng phần Bồ
đề Niết bàn của Phật, gia nhập dòng
dõi của Như Lai, như thân trung ấm tìm cha
mẹ âm tín đã thầm giao cảm với nhau
rồi.
*
Phương tiện cụ túc trụ: Đã vào đạo
thai, nhờ sự nuôi dưỡng của giác
tánh ví như bào thai đã thành hình đầy
đủ.
*
Chánh tâm trụ: Hình dung giống Phật, tâm
tưởng cũng vậy.
*
Bất thối trụ: Thân tâm đều thanh tịnh
và sự thanh tịnh ngày một tăng mà
không có lui sụt.
* Đồng chơn trụ:
Mười thân có đủ trong một thời (1).
*
Pháp vương tử trụ: Ví như hình vóc
đã trưởng thành ra khỏi bào thai. Và
chính mình đã trở thành con của đấng
Pháp vương.
*
Quản đảnh trụ: Ví như vị hoàng tử
đã đến tuổi lớn khôn, nhà vua truyền
trao quốc sự cho Thái tử bằng một nghi
lễ, xối nước bốn biển gội đầu.
4. Địa
vị thập hạnh
*
Hoan hỉ hạnh: Người thiện nam tử khi
đã trở thành Phật tử rồi, có đầy
đủ những đức tánh nhiệm mầu của
Như Lai, bấy giờ có thể hoan hỉ và tùy
thuận tất cả.
*
Nhiêu tích hạnh: Người Phật tử khéo
biết làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
*
Vô sân hận hạnh: Hai hạnh tự giác và
giác tha của người Phật tử đồng nhau
và không chống trái nhau.
*
Vô tận hạnh: Tùy loại chúng sanh mà
hiện thân hóa độ, ba đời bình đẳng
mười phương thông suốt cho đến cùng
tận vị lai.
*
Ly si loạn hạnh: Có trí tuệ trong sự
nhận thức: Các pháp dị, hợp, thành,
đồng. Pháp Phật nhiều vô lượng, nhận
thức không còn sai lầm.
*
Thiện hiện hạnh: Các pháp đồng phân
giải ra dị, nhiều pháp dị tổng hợp
thành đồng.
*
Vô trước hạnh: Đồng có thể hiện dị,
dị có thể hiện đồng. Mỗi vi trần hiện
mười phương thế giới, mỗi thế giới
hiện mười phương hư không, hiện vi
trần, hiện thế giới, hiện hư không mà
không ngăn ngại gì nhau.
*
Tôn trọng hạnh: Nhận thức rằng tất
cả sự vật hiện tượng trước mắt
đều là đệ nhất ba la mật đa.
*
Thiện pháp hạnh: Nhận thức mọi hiện
tượng vạn pháp viên dung tương tức
tương nhập và sự nhận thức đó phù
hợp thành một qui tắc chung của chư
Phật mười phương.
*
Chân thật hạnh: Nhận thức rằng tất
cả pháp đều là thanh tịnh vô lậu, là
vô vi trong pháp giới nhất chân. Vì
tánh của các pháp vốn là như vậy.
5. Địa
vị thập hồi hướng
*
Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng
sanh tướng hồi hướng: Người Phật
tử đầy đủ thần thông thành tựu
Phật sự, thân tâm trong sáng, xa lìa
các lỗi lầm, bấy giờ ra làm việc độ
sanh mà diệt bỏ quan niệm năng độ sở
độ, chỉ xoay tâm vô trụ chấp hướng
về Niết bàn tịch tĩnh.
*
Bất hoại hồi hướng: Hành giả có khả
năng hoại những thứ cần diệt hoại.
Có khả năng viễn ly những gì cần viễn
ly. Năng giữ bản tâm trong sáng của
mình.
*
Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: Tánh
bản giác trong sáng của hành giả hiển
hiện như ngang bằng với Phật.
*
Chí nhất thiết xứ hồi hướng: Phát
minh tận cùng cái chân giác, tâm địa
của hành giả gần như tâm Phật.
*
Vô tận công đức tạng hồi hướng:
Thế giới và Như Lai, trước mắt hành
giả chỉ là một, chân lý và chân trí
dung hợp nhau không có khoảng cách năng
sở.
*
Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi
hướng: Nhận thức rằng: tâm địa Phật
và tâm địa của chúng sanh vốn đồng
và trong chỗ đồng phát huy các nhân
thanh tịnh riêng khác để thủ đắc Niết
bàn.
*
Tùy thuận đẳng pháp nhất thiết chúng
sanh hồi hướng: Căn bản trí đã hiển
lộ, nhận thức rằng: chính mình và tất
cả chúng sanh đồng một bản thể chân
như thanh tịnh.
*
Chân như tướng hồi hướng: Nhận thức
rằng: Tất cả là một, một là tất cả.
Ly nhất thiết tướng mà không ly tướng
nào. Ly và tức viên dung vô ngại.
Vô
phược giải thoát hồi hướng: Đã thể
nhập chân như lý, hành giả tự tại
trước mọi hiện tượng vạn pháp trong
mười phương.
Pháp
giới vô lượng hồi hướng: Thành
tựu viên mãn công đức thanh tịnh trong
thể tánh chân như, bấy giờ trước
mắt hành giả, pháp giới trở thành
"nhất chân", quan niệm ranh giới
cách ngăn không còn nữa.
6. Địa
vị tứ gia hạnh
A
Nan ! Người đệ tử Phật vượt qua các
địa vị Hướng, Hạnh, Trụ, Tín và Càn
tuệ 41 tâm ấy rồi tiến lên tu tập bốn
địa vị gia hạnh nầy.
*
Noãn vị: Hành giả liên tục phát huy
cái tuệ giác Phật làm tâm mình, ví như
dùi gỗ lấy lửa để đốt gỗ, lửa
sắp phát ra mà chưa phát.
*
Đảnh vị: Hành giả lấy tâm mình làm
chỗ nương để phát huy tuệ giác Phật,
giống như nương mà không phải nương, ví
như người leo lên đảnh núi, thân đã
vào hư không, nhưng chân còn bám một
tí núi chưa rời khỏi.
*
Nhẫn vị: Tâm ta và tâm Phật như nhau,
khéo nhận thức lý trung đạo, ví như
người biết nhẫn, không phải ôm vào
cũng không phải xua ra.
*
Thế đệ nhất vị: Tâm hành giả đạt
đến chỗ vô sở trụ, diệt hết những
phân biệt danh ngôn, xóa bỏ hết những
gì thuộc về lượng số. Vấn đề mê,
giác, trung đạo đối với hành giả như
chẳng còn giá trị gì.
7. Địa
vị thập địa
Phật
dạy: A Nan ! Dựa trên công dụng tu hành,
căn cứ thành quả giải thoát giác
ngộ, thì quả vị thập địa gồm có
những hạng người như sau:
*
Hoan hỉ địa: Người đệ tử Phật đối
đại Bồ đề thông suốt sâu sắc, tuệ
giác của họ gần như Phật, có khả
năng nhận thức tột cùng cảnh giới
của Phật.
*
Ly cấu địa: Tất cả tánh dị biệt của
vạn hữu hành giả nhận thấy là chung
cùng, tánh chung cùng hành giả không
thấy có cái chung cùng chơn thật, vì
đó chỉ là hợp lại của những tánh
dị biệt kia.
*
Phát quang địa: Tâm thanh tịnh của hành
giả đến độ tột cùng, bấy giờ trí
tuệ trong sáng tự nhiên sanh ra mà hành
giả không cần khởi công vận dụng.
*
Diệm tuệ địa: Trí tuệ sáng suốt tột
cùng, hành giả thường sống trong giác
tỉnh trong mọi nơi chốn, mọi thời gian.
*
Nan thắng địa: Khái niệm đồng dị, thân
sơ, bĩ thử đối với hành giả không
còn.
*
Hiện tiền địa: Thể tánh tịnh minh vốn
có nay đã hiện bày tỏ rõ, tâm
thường trú hiển lộ trong cuộc sống
của hành giả thường xuyên.
*
Viễn hành địa: Nhận thức rõ tột về
bản thể chân như và sống hợp với
bản thể chân như ấy.
*
Bất động địa: Hành giả thể nhập với
bản thể chân như.
*
Thiện tuệ địa: Thể nhập bản thể chân
như rồi, hành giả vận dụng chân như
biểu hiện ra diệu dụng của chân như.
*
Pháp vân địa: Hạnh tu tập đã xong,
công đức viên mãn, lợi mình và tùy
ý làm lợi cho người, ví như bóng mây
lành che mát khiến cho chúng sanh vui chơi
lặn lội trong biển Niết bàn.
8. Quả
vị đẳng giác và diệu giác
Nầy
A Nan ! Như Lai thì ngược dòng ngoảnh
lại. Bồ tát thì thuận dòng mà tu tập
tiến tới. Tuệ giác của hai đường
giáp tuyến gặp nhau. Ở vào giai đoạn
đó gọi là địa vị ĐẲNG GIÁC.
A
Nan ! Từ địa vị Càn tuệ đến địa vị
Đẳng giác là 53 địa vị. Tột cùng của
địa vị Đẳng giác gọi là Kim Cang tâm.
Ngoảnh nhìn lại trên quá trình tu tập
từ ban đầu chặng giữa chẳng có chút
gì sai khác: Lấy mười thí dụ làm đối
tượng để tư duy quán chiếu. Đến khi
CHỈ QUÁN quân bình là tột cùng quả
Diệu Giác viên mãn thành tựu VÔ
THƯỢNG BỔ ĐỀ.
A
Nan ! Thành tựu Bồ đề Niết bàn Vô
thượng, mười phương Như Lai cũng dựa
vào ba món tiệm thứ mà tu hành tăng
tiến rồi khéo bồi dưỡng và phát huy
theo quá trình tiệm tiến trải qua 55 địa
vị ấy mà đến vô thượng Bồ đề.
Người
Phật tử tu học hiểu như thế là đúng
chánh pháp, tin hiểu khác đi là người
ngoại đạo, tu tập sai lầm sẽ không có
ngày thành tựu.
*
* *
TRỰC
CHỈ
Sau
Càn tuệ địa, tiến lên: Thập tín, Thập
trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập
địa, rồi Đẳng giác và Diệu giác 52
địa vị. Diệu giác là vị cao tột, tức
là quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
Sự
giác ngộ giải thoát thực ra chẳng có
lấy gì để đo chính xác được và
cũng chẳng có tên gì để gọi cho đúng
đắn được. Tất cả những tên gọi
ấy chỉ là những phương tiện giả đặt
của Như Lai. Cái danh tiêu biểu phần nào
của hạnh, dựa trên hạnh mà giả đặt
cái danh. Người tu hành không nên chấp
nê quả vị hay khởi ý mong cầu. Người
nấu nước, chỉ cần đun lửa tốt thì
ấm nước tự sôi, vấn đề độ nóng
bao nhiêu
chỉ là phương tiện danh
ngôn giả lập.
Như
Lai thì ngược dòng trở lại. Từ địa
vị giác ngộ chân lý hoàn toàn, vì
thương chúng sanh mà sống và sinh hoạt
như chúng sanh để có cơ hội hướng
dẫn cải tạo những mê mờ đau khổ
của chúng sanh, còn Bồ tát thì thuận
dòng, từ bể khổ sanh tử vươn lên,
phát huy trí tuệ. Càn tuệ địa là điểm
khởi hành. Trải qua 51 địa vị, đó là
thời gian khai thác nhất thiết trí, đạo
chủng trí, nhất thiết chủng trí, vô sư
trí và tự nhiên trí của mình. Cuối
cùng giao điểm giữa Phật và Bồ tát
gặp nhau ở quả vị được gọi là
đẳng giác.
Ở
vào địa vị Đẳng giác, Bồ tát có
được thứ trí Kim cang. Dùng trí Kim cang
chiếu phá sạch những bóng đen sanh
tướng vô minh vi tế tối hậu. Sanh
tướng vô minh dứt sạch. Bồ đề, Niết
bàn tự tánh hiện ra. Bồ tát nhìn lại
quá trình tu tập trải qua giống như
người vừa tỉnh giấc chiêm bao. Những
chuyện khổ, vui, tội phước, tiêu
trưởng vinh hư là chuyện của một cơn
trường mộng ! Đời là diệu dụng biểu
hiện từ bản thể chân như. Bồ tát
nhìn hiện tượng vạn hữu có mà không
phải có thật, không mà chẳng phải
thật không. Tất cả đều là như vật
sắc trong chiêm bao, như hình ảnh khóc
cười trên màn bạc, như trăng đáy
nước, như hoa đốm trong không, như càn
thát bà thành, như bóng trong gương, như
mù sương buổi sáng, như điện nhoáng
lưng trời, như bong bóng dưới cơn
mưa
Nhờ vậy, Bồ tát tự tại và
nhẹ nhàng tiến bước trên con đường
Bồ đề Niết bàn vô thượng, rồi nhìn
lại, thì ra chính mình chẳng có được
gì!
"Đáo dĩ
hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn vân
vũ chiết giang triều".
III
- KINH THỦ LĂNG NGHIÊM CÓ NHIỀU TÊN GỌI
[^]
Đáp
lời thưa hỏi của Bồ tát Văn Thù,
đức Phật dạy: Kinh nầy có thể gọi
nhiều tên:
*
Đại Phật đảnh tất đát đa bát đát
ra, vô thượng bảo ấn, thập phương Như
Lai thanh tịnh hải nhãn.
*
Cứu hộ thân nhân độ thoát A Nan cập
thủ hội trung tánh tỳ kheo ni đắc Bồ
đề tâm nhập biến trí hải.
*
Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa.
*
Đại phương quảng Diệu Liên Hoa vương
thập phương Phật mẫu đà la ni chú.
*
Quán đảnh chương cú, chư Bồ tát vạn
hạnh Thủ Lăng Nghiêm.
Văn
Thù, các ông nương theo đó mà phụng
trì. Đại chúng nghe lời Phật dạy, liền
tỏ ngộ diệu lý thiền na, tâm được
rỗng rang, nhiều người dứt trừ
được hoặc kiến tư, cắt đứt nhân
sanh tử ưu bi trong tam giới.
IV
- NHỮNG MỐI NGHI NGỜ SÂU SẮC CÓ TÍNH
PHỒ BIẾN ĐƯỢC PHẬT DẠY BÀY[^]
Bấy
giờ ông A Nan đứng dậy cung kính chấp
tay thưa:
Bạch
Thế Tôn ! Theo lời Phật dạy, chân tâm
vốn trong sáng nhiệm mầu, xưa nay tròn
đầy khắp giáp và núi sông đất liền
cỏ cây hoa lá điểu thú côn trùng
đều cùng chung một bản thể chân như,
tất cả đều là những dữ kiện tu
hành thành tựu Phật quả của các Như
Lai, hàng Thanh văn hữu học chúng tôi
chưa dứt được mối nghi ngờ sâu sắc
ấy !
Bạch
Thế Tôn ! Bản thể chân như ấy vốn
đã chân, cớ gì lại sanh ra các nẻo:
Trời, người, A tu la, địa ngục, quỉ
thần và súc sanh ? Sáu đường ấy bản
lai tự có hay do những nghiệp thiện của
chúng sanh chiêu cảm mà hiện khởi sanh
ra ? Còn sự kiện Tỳ kheo ni Bảo Liên
hương, lén lút làm việc dâm dục rồi
lý luận sai lầm phá kiến giới của
Phật, hiện đời bị địa ngục là thế
nào ? Sự kiện vua Lưu Ly tận diệt giòng
họ Cù đàm rửa oán, đối với sự
hiểu biết thông thường của nhiều
người vẫn còn là điều bí ẩn ! Vấn
đề Thiện Tinh tỳ kheo bác không nhân
quả, chủ trương đoạn diệt, hiện thế sa
vào ngục A tỳ, thật tế phải hiểu như
thế nào ? Các địa ngục vốn có sẵn
để hình phạt những chúng sanh ác hay sau
khi những chúng sanh kia tạo ác, địa
ngục mới có ra để hình phạt những con
người bất thiện ?
Phật
khen những câu hỏi của ông A Nan có ý
nghĩa sâu xa, nhờ đó những chúng sanh
đời sau khỏi rơi vào tà kiến.
Nầy
A Nan ! Phật dạy, chân tánh của chúng
sanh vốn chân vốn tịnh. Do nhận thức sai
lầm chân lý, sống theo thói quen trái
chân lý làm cho tánh chân tịnh bị chi
phối mà sanh ra tình niệm chủ quan và
tưởng niệm khách quan.
Tình
niệm chủ quan là phần trong của con
người. Do sự ái nhiễm của vọng tâm
mà sanh ra vọng tình. Tình chứa mãi
không thôi bèn sanh ra một thứ nước,
gọi đó là nước, "ái". Vì
vậy mà tâm chúng sanh khi nhớ đến
thức ăn thì miệng nước bọt chảy ra,
tâm nhớ người thương, con mắt lệ
tràn, tâm nhớ giận đứa con hư cũng
sụt sùi trào tuôn nước mắt, nước
mũi, tâm nghĩ tưởng sự ân ái, hai
căn nam nữ tân dịch tiết ra
A
Nan ! Ái có nhiều thứ khác nhau nhưng
cái tánh ứa nước, chảy nước giống
nhau. Tánh ướt thì nặng, tánh nước
thì chảy xuống không thể cất lên, đó
là tánh tự nhiên của nó.
A
Nan ! Tưởng niệm khách quan là phần
ngoài của con người. Do thèm muốn khát
vọng mà phát sanh ra lý tưởng. Tưởng
chứa mãi không thôi bèn sanh ra một
thứ khí thù thắng. Do vậy, tâm chúng
sanh có giữ giới hạnh thanh tịnh thì
người nhẹ nhàng sảng khoái, tâm
chuyên trì chú ấn thì đôi mắt ngó có
thần, tâm muốn sanh thiên, hành thập
thiện nghiệp, chiêm bao thấy mình nhẹ
nhàng, bay bổng trong không, tâm chuyên
niệm hướng vào cõi Phật thì cảnh
giới trang nghiêm thanh tịnh đẹp đẽ
hiện ra, tâm phụng sự thiện tri thức,
thì tự xem rẻ thân mình.
A
Nan ! Tưởng có nhiều thứ khác nhau,
nhưng cái tánh nhẹ nhàng cất lên thì
đồng. Tưởng nhẹ có tánh cất lên là
tánh tự nhiên của nó.
A
Nan ! Tất cả thế gian sống chết nối nhau.
Sống thì bằng lòng, chết thì nghịch ý.
Khi con người sắp chết, lúc hơi nóng
chỉ còn hâm hấp mong manh, bấy giờ hành
động thiện ác cả một đời đều hiện
ra như trước mắt. Sự sống và sự
chết hai tập khí mãnh liệt cạnh tranh
đối kháng trước phút giây con người
từ giã cõi đời. Thuần tưởng thì bay
lên được sanh vào các cõi trời, nếu
có phúc đức, trí tuệ, có chí nguyện
thanh tịnh thì tự nhiên tâm được sáng
suốt thấy được cõi nước thanh tịnh
của chư Phật trong mười phương, rồi
tùy ý của mình mà sanh vào thế giới
đó.
Tình
ít tưởng nhiều, cất lên được nhưng
không xa. Hạng nầy thành đại lực quỉ
vương, phi hành dạ xoa, địa hành la sát.
Họ có thể đi khắp bốn cõi trời Tứ
thiên vương, nếu có nguyện lành hộ trì
Phật pháp, bảo vệ người trì giới,
người tu thiền thì họ được thân cận
dưới pháp tọa của Như Lai.
Tình
và tưởng bằng nhau, thì sanh làm người
ở nhân gian. Do có phần tưởng sáng
suốt nên có chất thông minh, vì có
phần tình mê ám nên có lẫn lộn phần
ngu độn.
Tình
nhiều tưởng ít sanh vào loại bàng sanh,
nặng nghiệp xấu sanh làm giống lông mao,
nhẹ nghiệp hơn sanh làm giống lông vũ.
Bảy
phần tình ba phần tưởng có thể chìm
tận thủy luân hoặc sanh nơi mé hỏa
luân chịu sự nóng đốt của lửa hừng
hoặc thân thành ngạ quỉ thiêu nướng.
Có gặp được nước, nước nóng như
lửa, cho nên trải trăm ngàn kiếp không
được uống ăn.
Chín
phần tình một phần tưởng sa rớt suốt
thấu hỏa luân, đến giữa ranh giới
phong luân, nhẹ thì rơi vào địa ngục
hữu gián, nặng thì rơi vào địa ngục
vô gián.
Thuần
một thứ tình hắc ám thì sa vào địa
ngục A tỳ, nếu có thêm tội hủy báng
đại thừa, đả phá kiến giới của
Phật, tạo tội ngũ nghịch thập ác thì sa
vào địa ngục A tỳ từ kiếp này sang
kiếp khác luân chuyển khắp thế giới
mười phương.
A
Nan ! Tùy ác nghiệp của chúng sanh đã
tạo, mỗi người tự cầm lấy cái khổ
địa ngục của riêng mình. Nhưng vì chúng
sanh tạo ác nghiệp có giống nhau nên
chịu quả khổ địa ngục cũng giống nhau,
vì vậy mà địa ngục in tuồng như có
chỗ định sẵn.
*
* *
TRỰC
CHỈ
Thể
tánh của con người vốn tịnh minh, vì ai
cũng có chân tâm thường trú. Chúng
sanh hữu tình hay chúng sanh vô tình đều
là hiện tượng tùy duyên trong bản thể
chung cùng bất biến, cũng như những
ngọn sóng lung linh màu sắc dưới ánh
trăng vàng nghìn sai muôn khác đều phát
khởi từ một thể nước phẳng lặng
của một đại dương. Hội nhập được
ý nghĩa hiện tượng không ngoài bản
thể, ứng thân là diệu dụng của pháp
thân. Thiền Lão, một thiền sư Việt Nam
thời Lý đã nói:
Trúc
biếc mai vàng, trăng thanh mây bạc là
diệu dụng của bản thể chân như biểu
hiện qua hai câu thơ:
"Túy trúc
huỳnh hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân
minh nguyệt lộ toàn chân"
Phật
dạy: Sáu nẻo luân hồi không do một
bàn tay, một đấng thiêng liêng nào sắp
đặt cả. Cái động cơ quay lăn trong sáu
nẻo dựa trên tiêu chuẩn: "Tình"
và "Tưởng" nhiều ít của chúng
sanh. Tình là sự biểu hiện của tâm ái
nhiễm sâu nặng. Nặng về tình người ta
dễ mất hết lý trí, sống theo thói quen
dục vọng. Đã đam mê dục vọng thì
không còn đủ trí tuệ để nhận thức
chân lý. Vì vậy, con người rất sợ
chết và rất muốn sống. Trái lại,
người giác ngộ chân lý, vấn đề
sống và chết không tham mà cũng chẳng
sợ, vì biết rõ rằng sự sống chết
của kiếp người, sự diệt sanh của vạn
pháp, nó đã thành qui luật đối với
người trí, nó là chân lý khách quan
đối với thiên nhiên vũ trụ. Sợ
chết, chỉ đem vào cho đầu óc, cho tâm
trí con người một thứ khổ sở ghê
gớm mà lẽ ra con người không có và
không nên có. Vì mê mờ chân lý,
chúng sanh rất tham sống và sợ chết, vì
vậy khi sắp chết: thoi thóp với một tí
khí nóng chưa tàn, hai luồng tư tưởng
đấu tranh mãnh liệt. Và vì quá sợ
chết nên sự kinh hoàng, sự hốt hoảng,
sự tiếc thương, sự hối hận, sự oán
ghét, sự tuyệt vọng, sự luyến
ái
đã huân tập tích lũy cho một
đời hiển hiện ra đầy đủ, giống như
cuộn phim Vidéo đã được quay từ
trước, nay đến lúc đem ra chiếu
lại
Tất
cả những cảnh tượng khổ đau ở địa
ngục chỉ là những hậu quả phản ảnh
của tâm độc ác, mê mờ u tối của
kiếp sống mê tình, vọng tình và si tình
mà tác giả cõi địa ngục chính là con
người đang chịu khổ đau dày vò trong
địa ngục ấy.
Tưởng
nhiều thì dễ sanh trí tuệ. Có trí tuệ
dễ nhận thức chân lý và sống hợp
chân lý. Có phước đức, trí tuệ
mới trông thấy được cảnh giới trang
nghiêm thanh tịnh trong mười phương, rồi
tùy phước nghiệp mà cảm nhận mà thọ
sanh vào cảnh giới đó.
Cảnh
giới trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật
trong mười phương phải do phước đức
và trí tuệ mới được thấy. Trái
lại, cảnh khổ đau địa ngục do tích lũy
cực tham, cực sân, cực si và bất
thiện nghiệp mà hiện ra. Không có
phước đức trí tuệ sẽ không thấy
được cõi Phật thanh tịnh. Không có
những cực ác nghiệp sẽ không tìm
đâu có cảnh địa ngục khổ đau. Nhiều
người càng tạo nhân phước trí tuệ
giống nhau nên cùng thấy cõi Phật thanh
tịnh giống nhau; Vì vậy cõi Phật in tuồng
như có sẵn. Nhiều chúng sanh tạo những
bất thiện nghiệp giống nhau, nên cùng bị
hình phạt đau khổ ở địa ngục giống
nhau, vì vậy mà địa ngục cũng in tuồng
như có sẵn.
Cái
từ "Na lạc ca" dịch ý có nghĩa
là "địa ngục". Địa ngục có
nghĩa là: khả yểm, khả cụ, khả khí,
bất lạc. Có thể tóm gọi là "cảnh
giới của sự khổ đau cùng cực, không
một chút xíu tạm an". Người đệ
tử Phật đừng bao giờ hiểu địa ngục
như "một thành trì" "một cơ
quan" có phương sở nhất định:
Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Nhược nhơn
dục liễu tri
Tam thế nhất
thiết Phật
Ưng quán
pháp giới tánh
Nhất thiết
duy tâm tạo
"
Ai muốn hiểu rõ
hết
Tất cả
Phật ba đời
Nến quán
tánh tướng các pháp giới
Tất cả duy
tâm tạo.
Tất
cả pháp giới đều do tâm tạo. Vì vậy,
địa ngục chỉ là do tâm cực ác của ai
đó tự tạo nó ra !
V -
DO NHỮNG TẬP NHÂN BẤT THIỆN TỰ CHIÊU
CẢM ÁC QUẢ KHỒ ĐAU[^]
Thế nào là những
tập nhân bất thiện ?
A
Nan ! Tập nhân thứ nhất là thói quen
dâm dục. Do sự giao hợp với nhau sanh ra
sự cọ xác, cọ xác nhiều sanh ra khí
nóng. Ví như người dùng hai tay chà xác
thì cảm giác nóng sanh ra. Do lửa dục
đốt mà có hiện tượng giường sắt
nóng, cột đồng nung
cho nên Phật,
Bồ tát xa lánh dâm dục như lánh xa hầm
lửa.
Tập
nhân thứ hai là thói quen tham cầu. Do
tâm tham cầu so đo hơn thiệt hút vào,
hút mãi thành ra hơi lạnh, lạnh cực
thành băng, ví như người hút gió thì
có cảm xúc lạnh, do sự tham cầu mà
có âm thanh lạnh run phát ra tiếng: tra tra
tra, ba ba ba
vậy nên Phật, Bồ tát
tránh tham cầu như tránh biển độc.
Tập
nhân thứ ba là thói ngã mạn. Do ngã
mạn đi đến ỷ thế cậy quyền mà có
sự bôn ba sôi nổi. Sự sôi nổi nầy
ngưng đọng thành nước. Ví như miệng
nhai vị thì nước miếng tự chảy ra. Do
vậy mà có sông tuyết, cát nóng, biển
độc, nước đồng sôi
cho nên Phật
và Bồ tát tránh ngã mạn như tránh
vực thẳm.
Tập
nhân thứ tư là thói quen giận dữ. Do
giận dữ sanh ra chống đối, xung đột.
Lửa giận nung đốt hóa thành kim khí, vì
vậy mà có núi dao, rừng gươm, gậy
sắt, cưa xẻ, búa chặt, ví như người
bị hàm oan thì sát khí bừng lên. Do vậy
có hiện tượng cắt, chém, thiến, chặt,
đâm, dùi đập, đánh
cho nên Phật,
Bồ tát tránh sự giận dữ như tránh
chỗ chém giết.
Tập
nhân thứ năm là thói quen giả dối. Do
giả dối lường gạt nhau đưa đến lôi
kéo, xô đẩy nhau cho nên có hiện
tượng cây cọc, dây thừng, thòng
lọng, ví như nước thấm ướt mộng thì
cỏ cây sanh trưởng. Do vậy hiện ra gông
cùm, xiềng xích, roi đánh, gậy đập,
côn đần, mác chém, cho nên Phật, Bồ
tát tránh sự giả dối như tránh cọp
beo.
Tập
nhân thứ sáu là thói quen lường gạt,
lừa đảo. Lường gạt lừa đảo mãi
gây thành điều gian dối. Vì vậy cảm
ác quả nhơ nhớp như đất bụi, đại
tiểu tiện và những sự chìm đắm, bay
rơi, trôi lăn, cho nên Phật và Bồ tát
nhận xét sự lừa đảo gian dối như
dẫm lên rắn độc.
Tập
nhân thứ bảy là thù oán hiềm khích
nhau. Do ôm ấp lòng thù oán mà cảm
thấy ác quả như quăng đá, ném gạch,
hộp nhốt, cũi giam, bình đựng. Ví như
người hiểm độc ôm ấp điều ác. Vì
vậy thập phương Như Lai, Bồ tát nhận
xét sự thù oán như là quỉ vi hại, như
uống nhầm rượu độc.
Tập
nhân thứ tám là ác hiểm, chấp thủ,
tranh cãi với nhau về thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm
thủ, cho nên cảm thấy có quan lại
chứng thực, nắm giữ giấy tờ, có
các việc khám xét, tra khỏi, có đồng
tử cầm sổ ghi chép việc thiện ác.
Vậy nên, thập phương Như Lai nhận xét
ác kiến như hầm sâu, Bồ tát xem như
hố độc.
Tập
nhân thứ chín là vu vạ, làm hại cho
nhau. Do sự vu vạ hại người cảm ra ác
quả như núi ép, đá kẹp, cối nghiền,
cày sắt, ví như kẻ sàm tặc áp bức vu
oan người lương thiện, đồng thời cảm
thấy sự áp giải, đánh đập, ép
huyết, lóc thịt. Vì vậy Phật và Bồ
tát trong mười phương nhận xét sự vu
vạ như cọp điên, như sấm sét.
Tập
nhân thứ mười là kiện cáo. Kiện
cáo cãi vã lẫn nhau phát sanh sự che
đậy. Do vậy, cảm thấy có gương soi,
đuốc rọi như giữa ban ngày không dấu
bóng được, thấy có ác hữu trình
bày tội lỗi, nghiệp kính hiện rõ
những bất thiện nghiệp đó. Vậy nên
thập phương Như Lai, Bồ tát nhận xét
sự che đậy là giặc trong bóng tối, như
đội núi cao lội trong biển lớn.
VI
- SÁU THỨ KHỒ BÁO LÀ KẾT QUẢ CỦA
BẤT THIỆN NGHIỆP PHÁT XUẤT TỪ LỤC
CĂN VÀ LỤC THỨC CỦA CON NGƯỜI[^]
Phật
bảo: A Nan ! Tất cả chúng sanh tạo ác
nghiệp thì phải nhận lấy ác quả. Sự
tạo nghiệp và trả quả như vậy là do
sáu căn và sáu thức của chính mình,
chớ không do nơi ai khác. Vì vậy, con
người có thể tạo thiện nghiệp hay ác
nghiệp mà chiêu cảm thiện báo hay ác
báo đều tùy thuộc ở nơi mình.
Thế
nào là sáu thứ khổ báo ?
Một
là ác báo do tánh thấy của nhãn
thức. Tánh thấy của người hằng ngày
tiếp xúc và huân tập những cảnh bất
thiện nghiệp, ác đức, nhiễm ô
lúc sắp chết họ sẽ thấy toàn lửa
rực trời cháy khắp mười phương.
Thần thức của người nầy bay lên theo
khói rồi rơi xuống sa vào địa ngục. Ở
nơi địa ngục thần thức chỉ còn thấy
hai hiện tướng: sáng và tối. Thấy
sáng thì thấy những cảnh kinh hoàng,
bạo ác, mọi vật trở thành cảnh sợ
hãi, chết chóc. Thần thức vô cùng
khủng khiếp khổ sở đớn đau, không
một chỗ nơi có thể nương tựa hoặc
kêu gào cầu cứu. Khi thấy tối thì một
màu đen lặng lẽ bao trùm, thần thức
cực độ đau thương, tuyệt vọng.
Tánh
thấy bất thiện tác hợp với những
tánh nghe, ngửi, nếm, xúc, biết hiển
hiện ra: vạc dầu sôi, nước đồng
chảy, lửa rực, khói đen, hoàn sắt
nóng, lò than, sao lửa rưới khắp đầy
ngập cõi hư không, khiến cho thần thức
người chết khổ sở đớn đau cùng
cực.
Hai
là ác báo do tánh nghe của nhĩ thức.
Cái tánh nghe của con người trong cuộc
sống hằng ngày tiếp xúc và huân tập
nghe những điều ác đức, hiểm độc,
lúc sắp chết nghe và thấy sóng cuộn
ngập trời. Thần thức người chết bị
cuốn trôi theo dòng nước mà vào địa
ngục. Ở nơi địa ngục thần thức chỉ
còn nghe hai hiện tướng: rõ và điếc.
Nghe rõ thì nghe những tiếng rít khủng
khiếp, những tiếng nghiến rợn người
làm cho thần thức rối loạn, sợ hãi,
khổ đau cùng cực. Lúc nghe điếc thì
lặng lẽ im lìm như màn đêm nơi hoang vu,
như cõi chết khiến cho thần thức cực
kỳ sợ hãi đau thương.
Tánh
nghe độc hại đau thương nầy tác động
hỗn hợp vào các tánh thấy, ngửi,
nếm, xúc, biết của năm thức kia tạo
thành lời trách mắng tra hỏi, sấm sét,
hơi độc, mưa mù và rưới các thứ
sâu độc đầy khắp thân thể, tưới
các thứ máu mủ hôi tanh, các thứ
phẩn tiểu nhơ nhớp; còn hóa ra tia
chớp kinh hồn, sấm rang long óc, mưa đá
đập đè, thần thức người chết khổ
sở không sao kể xiết !
Ba
là ác báo do tánh ngửi của tỷ thức.
Cái tánh ngửi của con người trong cuộc
sống tiếp xúc và huân tập những thứ
hương trần không lành mạnh, lúc sắp
chết cảm nghe mùi độc khí khắp mọi
nơi. Thần thức người chết tự thấy
mình từ đất trổi lên, rồi lại rơi
vào địa ngục. Ở nơi địa ngục, thần
thức cảm nhận hai hiện tướng: thông
và nghẹt. Khi ngửi thông thì hít phải
toàn ám khí độc hại, ngột ngạt, thần
thức vô cùng khổ đau rối loạn, lúc
ngửi nghẹt thì lăn lộn vật vã, chết
thì không được mà sống cũng không
xong.
Cái
tánh ngửi độc hại nầy tác động hỗn
hợp vào với các tánh thấy, nghe, nếm,
xúc, biết hóa thành lửa dữ, thiêu
đốt, nước sôi nung nấu, sóng to nhận
chìm, hóa thành núi, thành gạch to, đá
lớn bay rớt đập nát thân thể làm cho
người chết đau khổ tột cùng
Bốn
là ác báo do tánh nếm vị của thiệt
thức. Cái tánh nếm vị của con người
trong cuộc sống hàng ngày huân tập thói
quen những thức ăn có tánh tàn hại
giết chóc, ác đức bất nhân thì lúc
sắp chết thần thức thấy khắp cõi
không gian bao trùm bằng một thứ lưới
sắt nung đỏ. Thần thức người chết
từ dưới đất tung lên, bị vướng
lưới lộn đầu rơi xuống sa vào địa
ngục, thần thức còn nhận biết có hai
hiện tướng: nuốt vô và mửa ra. Nuốt
vô thì cảm nhận toàn băng giá lạnh
tê tái, lạnh nứt nẻ cả thân thể;
mửa ra thì rừng rực thứ lửa dữ bay
ra và tự đốt cháy thân thể của chính
mình.
Cái
tánh nếm tội lỗi ác hại nầy tác
động hỗn hợp với các tánh: thấy,
nghe, ngửi, xúc và biết hóa thành sự
xác nhận, sự tự thú. Lại hóa thành
binh khí sắc bén, đâm chặt, lồng sắt
nung đỏ nhốt, cung tên bắn vào thân
làm cho thần thức người chết đau
đớn cùng cực, cầu sống không
được, muốn chết cũng không được.
Năm
là ác báo do tánh cảm xúc của thân
thức. Tánh cảm xúc của con người
hằng ngày tiếp xúc và huân tập những
ác hạnh, lúc sắp chết thần thức thấy
núi lớn bốn mặt hợp lại ép vào mà
không có lối thoát; lại thấy cái
thành sắt lớn đầy chó lửa, rắn
lửa, cọp, beo, lang, sói, sư tử lửa
như chực muốn ăn nuốt; lại thấy ngục
tối đầu trâu, mặt ngựa, tay cầm gươm
giáo lùa đẩy thần thức người chết
tống vào địa ngục - Ở nơi địa ngục,
thần thức chỉ còn thấy hai hiện
tướng: Hợp và ly. Hợp thì thấy núi
ép thân thể xương thịt nát tan. Ly thì
thấy giáo gươm đâm chỉa vào mình, thi
thể ruột gan banh nát
Tánh
xúc ác hại tác động hỗn hợp với
các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm và
biết hóa thành người săn đuổi,
người bắn giết, người xử tội; hóa
thành sảnh đường, tòa án; hóa thành
đốt, nung, đập, nhốt, trói buộc, chặt
ném; hóa thành té ngã, bay lên, hóa
thành nấu luộc
làm cho thần thức
đau đớn không sao kể xiết
Sáu
là ác báo do sự suy nghĩ của ý thức.
Ý thức của con người trong cuộc sống
huân tập những tư tưởng bất thiện,
lúc sắp chết thấy cuồng phong tàn bạo
thổi cõi nước tan tành, thần thức
người chết bị thổi bay trên không,
xoáy lốc theo gió, lại rơi xuống sa vào
địa ngục. Bấy giờ thần thức chỉ còn
cảm nhận hai hiện tướng: Mê sảng và
tỉnh biết. Lúc mê sảng thì kinh hoàng,
sợ hãi, chạy cuồng, chạy ngong không
ngừng nghỉ. Khi tỉnh biết lại bị đốt
cháy liên tục đau đớn cùng cực,
sống không an, chết không được.
Ý
thức bất thiện nầy tác động hỗn
hợp với các tánh: Thấy, nghe, ngửi,
nếm, xúc hóa thành phương sở quan
thự, đài gương soi, cáo trạng, người
chứng, sương giá lạnh, gộp đá to
nặng, ngục lửa, tiếng kêu la, gào
khóc, thần thức phải chịu muôn lần
sống, muôn lần chết trong một ngày khổ
đau vô cùng vô cực.
A
Nan ! Như Lai đã chỉ dạy cho ông mười
tập nhân và sáu quả báo ở địa
ngục. Nhân quả ấy là do mê vọng của
chúng sanh tạo ra. Dựa trên sáu căn ba
nghiệp của con người trong sự tạo ác
nghiệp mà thần thức có thể đọa vào
8 ngục vô gián hoặc 18 hoặc 36 hoặc 108
ngục khác nhau. Chúng sanh tạo nghiệp thì
riêng, nhưng tội trạng, tội danh trùng
hợp giống nhau cho nên chịu quả đồng
phận như nhau, cảnh giới đó do vọng
tưởng sanh ra nó chớ không phải bản
lai tự có.
*
* *
TRỰC
CHỈ
Dâm
dục, tham lam, giận dữ, ngã mạn, giả
dối, lường gạt, oán thù, ác kiến, vu
cáo, kiện thưa là những nguyên nhân
gây ra vô vàn ác khác, Phật gọi đó
là mười nhân ác, nó đã thành thói
quen trong cuộc sống của con người không
có ý thức phản tỉnh hồi quang, trau dồi
đạo đức.
Nhân
xấu ác thì không thể có quả an vui.
Những ác nhân ấy không phải trời
xuôi đất khiến mà do chính con người;
do thân, miệng và ý của con người; khi
con người đánh mất lý trí sáng suốt;
con người không còn làm chủ được
thân, miệng, ý của mình.
Những
ác quả khổ đau cùng cực trong các địa
ngục dù khác nhau, nhưng tất cả đều
chỉ là những hình ảnh phản chiếu trung
thực của nhất tâm của tam nghiệp của
căn, trần, thức của con người. Đó
là giờ phút "tòa án lương
tâm" của con người hành xử cái
chức năng: "chí công vô tư"
tuyệt đối, tuyệt đối của "thể
tánh tịnh minh" vốn có của chính con
người.
Ngày,
giờ, năm, tháng ở địa ngục không
thể tính số theo khái niệm nhận thức
ở nhân gian. Ai có nằm mộng và có tư
duy về "hoàng lương mộng" có
thể hiểu thời gian ở địa ngục tương
đối dễ dàng hơn. Giấc mộng khoảng một
tiếng đồng hồ hơn kém, vậy mà đối
với lư sinh là cả 80 năm thăng trầm
vinh nhục, 80 năm ân oán giang hồ, bừng
tỉnh dậy thì ra mình vẫn là một thư sinh
thi trượt, đang mơ màng bên quán trọ
với tâm trạng âu sầu, thất vọng trên
đường trở lại cố hương.
Cái
khổ lâu dài ở địa ngục của những
"linh hồn" đã tạo nhiều ác
nghiệp, một giờ hấp hối trong phút sắp
lâm chung biết đâu đó chẳng là 80 năm
đau khổ nghiệp cảm tội hành do hậu quả
trong một đời tích lũy !
VII
- NÓI VỀ CÁC DƯ BÁO SAU KHI RA KHỎI ĐỊA
NGỤC[^]
Nầy
A Nan ! Những người trái phạm luật nghi,
phá Bồ tát giới, bất tín tam bảo,
chống báng Bồ đề, Niết bàn Phật thì
vĩnh viễn họ sống trong địa ngục; còn
những người phạm phải những nghiệp
phức tạp khác, sau khi chịu khổ quả ở
địa ngục mãn rồi, dư báo còn lại
phần nhiều luân hồi đọa vào con
đường quỷ. Vì vậy, mà quỷ có nhiều
loại khác nhau do tạo nhân bất thiện
chẳng đồng nhau.
Nặng
về tham vật chất, dư báo tham hợp với
vật chất thành Quái quỷ.
Nặng về tham sắc dư báo tham hợp
với gió thành Bạt quỷ.
Nặng về dối trá dư báo tham hợp
với súc vật thành M?quỷ.
Nặng về sân hận dư báo tham hợp
các loài sâu thành Cổ độc quỷ.
Nặng về oán thù dư báo tham hợp
với vận suy của kẻ thù thành Lệ quỷ.
Nặng về ngã mạn dư báo tham hợp
với khí thành Ngạ quỷ.
Nặng về lừa đảo, lường gạt dư
báo tham hợp với u ẩn thành Áp quỷ.
Nặng về ác kiến dư báo tham hợp
với tinh hoa thành Vọng lượng quỷ.
Nặng về vu oan giá họa dư báo tham
hợp với linh hiển thành Dịch sử quỷ.
Nặng về bè phái, ô lọng dư báo
tham hợp với con người thành Truyền
thống quỷ.
A
Nan ! Những thần thức đó do nặng tình
và thuần tình cho nên phải đọa lạc
vào địa ngục và dư báo còn lại phải
sanh vào đường quỷ. Như vậy đều do
vọng tưởng của tự tâm chuốc lấy,
chớ không do ai phạt, ai hành. Nếu có
nhân duyên tột tỏ ngộ Bồ đề, Niết
bàn tự tánh thì những thứ ác quả
khổ đau đó vốn chẳng có thật.
Lại
nữa, A Nan !
Quái
quỷ theo vật chất, vật chất tiêu, báo
hết sinh nơi thế gian phần nhiều thành
loài chim kiêu.
Bạt quỷ theo gió, gió tiêu, báo hết
sanh nơi thế gian phần nhiều thành các
loài Cửu trưng kỳ dị.
M?quỷ theo súc, súc tiêu, báo hết
sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài
chồn, cáo.
Cổ quỷ theo sâu, sâu tiêu, báo hết
sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài
có độc.
Lệ quỷ theo vận suy, vận suy tiêu,
báo hết sanh nơi thế gian phần nhiều
thành giun.
Ngạ quỷ theo gió, gió tiêu, báo hết
sanh nơi thế gian phần nhiều thành loài
cung cấp thịt ăn.
Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu, báo
hết sanh nơi thế gian phần nhiều thành
loài cung cấp đồ mặc.
Vọng lượng quỷ theo tinh hoa, tinh hoa
tiêu, báo hết sanh nơi thế gian phần
nhiều thành loài chim mùa.
Dịch sử quỷ theo loại linh hiển, linh
hiển tiêu, báo hết sanh nơi thế gian
phần nhiều thành loại hưu trưng kỳ dị.
Truyền thống quỷ theo người, người
chết, báo hết sanh nơi thế gian phần
nhiều thành các loại quấn quít bên
người.
Nầy
A Nan ! Những loài như thế đều do quả
báo của tự tâm hư vọng của họ. Nếu
có duyên lành tỏ ngộ Bồ đề, Niết
bàn tự tánh thì đó chỉ là hình ảnh
huyễn mộng vốn chẳng có gì !
Nầy
A Nan ! Những ác quả của bọn Bảo Liên
Hương, Lưu Ly, Thiện Tinh Tỳ kheo đều do
tự họ gây ra nghiệp nhân tội lỗi.
Tội lỗi ấy không phải trên trời cao
xuống, không phải dưới đất phát ra,
không do người khác làm mà chính do
vọng tưởng của họ gây ra rồi tự
mình phải chịu quả báo. Đối với tâm
tánh Bồ đề, thì đó chỉ là sự kết
động vọng tưởng hư huyễn nào có
đáng kể gì !
Nầy
A Nan ! Vấn đề vay trả nợ nần thật là
phức tạp: có lúc làm súc sanh để
trả nợ cho người; người ít phúc
đức hưởng quá phần nợ, phải làm
súc sanh trả lại số dư cho người chủ
nợ ở kiếp sau. Do vậy, súc có thể
thành người, người có thể thành súc
để đền đáp nợ nần, vay trả, trả
vay. Trừ khi tu tập pháp xa ma tha, tam ma
bát đề, thiền na hoặc quay về nương
học với Tam bảo thì sự luân hồi vay
trả không có lúc ngừng quay.
Nầy
A Nan ! Loại chim kiêu trả nợ đủ rồi
được sanh trong nhơn đạo nó tham hợp
với hạng ngoan cố.
Giống
Cửu trưng trả nợ đủ rồi được sanh
trong nhơn đạo nó tham hợp với hạng
quái dị.
Loài chồn, cáo trả nợ hết rồi
được sanh trong nhơn đạo nó tham hợp
với hạng đần độn, ngu si.
Những loài có độc trả nợ hết
rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham
hợp với hạng người nham hiểm.
Loài giun trả nợ hết rồi được
sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp với
những hạng hèn nhát.
Loài cung cấp thịt ăn, trả nợ hết
rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham
hợp với hạng người nhu nhược.
Loài cung cấp đồ mặc, trả nợ hết
rồi được sanh trong nhơn đạo, nó tham
hợp với với hạng người lao lực.
Loài chim mùa, trả nợ hết rồi
được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp
với hạng người có văn hóa.
Loài hưu trưng, trả nợ hết rồi
được sanh trong nhơn đạo, nó tham hợp
với hạng người thông minh.
Loài quấn quít theo người, khi trả
nợ hết rồi được sanh trong nhơn đạo,
nó tham hợp với hạng người hiển
đạt.
A
Nan ! Những hạng người đó đều do
nghiệp bất thiện của họ tạo ra; sanh
nhau, giết nhau, ăn nuốt lẫn nhau rồi vay
trả, trả vay mà xoay vần như vậy. Nếu
không gặp Như Lai, không nghe chánh pháp
của Như Lai thì ở trong trần lao máy móc
xoay vần không có ngày chấm dứt. Như
Lai gọi đó là những chúng sanh đáng
thương xót.
VIII
- MƯỜI THỨ TIÊN DO TU DỊ NHÂN KẾT
THÀNH DỊ QUẢ[^]
Này
A Nan ! Có những chúng sanh từ loài
người, không nương theo cái nhân chánh
giác tu tập lại đam mê chuyên luyện
những dị nhân; họ hy vọng củng cố hình
hài trường sanh bất lão, vào trong
rừng núi vắng vẻ những chỗ khó có
người đến được họ chuyên luyện dị
thuật của mình và kết quả được
thành Tiên gồm có mười thứ khác
nhau:
Hạng
chuyên luyện đồ ăn, tìm các chất bổ
dưỡng để ăn, luyện mãi khi "đạo
ăn" thành tựu thì gọi là Địa
hành tiên.
Hạng chuyên luyện dược tính, tìm
thuốc trong các thứ cỏ cây luyện hoài,
khi "đạo thuốc" thành tựu thì
gọi là Phi hành tiên.
Hạng chuyên luyện đá, vàng, đơn sa,
cửu chuyển luyện mãi, khi "đạo hóa
chất" thành tựu thì gọi là Du hành
tiên.
Hạng chuyên luyện động tác, luyện
hoài khi "đạo khí tinh" thành
tựu thì gọi là Không hành tiên.
Hạng chuyên luyện nước bọt, luyện
mãi khi "đạo thanh nhuận" thành
tựu thì gọi là Thiên hành tiên.
Hạng chuyên luyện hấp thụ tinh hoa,
luyện hoài khi "đạo hấp thụ"
thành tựu thì gọi là Thông hành tiên.
Hạng chuyên luyện phù chú, luyện
mãi khi "đạo thuật pháp" thành
tựu thì gọi là Đạo hành tiên.
Hạng chuyên luyện về nhớ nghĩ,
luyện hoài khi "đạo nhớ nghĩ"
thành tựu thì gọi là Chiếu hành tiên.
Hạng chuyên luyện về thủy hỏa giao
cấu, luyện mãi khi "đạo cảm
ứng" được thành tựu thì gọi là
Tinh hành tiên.
Hạng chuyên luyện về biến hóa,
luyện hoài khi "đạo biến hóa"
thành tựu thì gọi là Tuyệt hành tiên.
A
Nan ! Các hạng Tiên đó ở ngay trong
loài người mà tu luyện. Tuy họ không tu
đúng cái nhân chánh giác, nhưng vẫn
có được kết quả. Họ có thể sống
thọ ngàn, muôn tuổi. Họ ẩn thâm sơn,
cùng đảo cách biệt người đời, họ
có thú an vui riêng họ. Dù vậy, họ
vẫn chưa lóng gạn sạch hết cái nhân
luân hồi cho nên khi hết phước vẫn
trở lại luân hồi.
IX
- TRỜI DỤC GIỚI[^]
Nầy
A Nan ! Những người thế gian, chưa cầu
chánh giác, chưa bỏ được ái ân vợ,
nhưng tâm không buông lung trong việc tà
dâm. Có chút ít định tâm, sanh ra sáng
suốt, sau khi chết sanh vào một cõi ở
gần với mặt trời, mặt trăng, gọi
đó là Trời Tứ thiên vương.
Hạng
người đối với vợ, dâm ái ít ỏi
nhưng trong lúc tỉnh tâm chưa hưởng trọn
vẹn sự khinh an, sau khi chết vượt ánh
sáng trời trăng, ở trên cõi nhân
gian, gọi đó là Trời Đao Lợi (2).
Có
người gặp cảnh dục lạc tạm theo, nhưng
trong lúc thôi không nghĩ tới, ở trong
nhân gian, động ít tỉnh nhiều, sau khi
chết sáng rỡ và ở yên một cõi trong
hư không. Mặt trời, mặt trăng không soi
đến cõi nầy. Người cõi trời nầy
tự có ánh sáng, gọi đó là Trời Tu
Diệm ma (3).
Hạng
người lúc nào cũng tỉnh, nhưng khi có
những điều cảm xúc đến chưa chống
lại được, sau khi chết họ sanh lên cõi
tinh vi, không tiếp với cảnh nhân thiên
cõi dưới. Tam tai, hoại kiếp không hủy
hoại đến cõi nầy. Đây gọi là Trời
Đâu suất đà (4).
Hạng
người không có tâm dâm dục chỉ vì
đáp ứng với người khác mà làm.
Trong lúc hành lạc, cảm thấy vô vị như
ăn sáp, người nầy sau khi chết vượt
lên và sanh vào cõi biến hóa, gọi đó
là Trời lạc biến hóa (5).
Hạng
người không có tâm thế gian chỉ hòa
đồng với thế gian làm việc ngũ dục,
trong lúc làm việc vẫn là siêu thoát.
Sau khi chết họ vượt trên cảnh biến
hóa và không biến hóa, gọi đó là
Trời Tha hóa tự tại (6).
A
Nan ! Sáu cõi trời đó hình thức tuy ít
động nhưng tâm không còn vướng mắc
nhiều vì vậy gọi đó là cõi Trời
Dục (7).
--- o0o ---
Mục lục
Mục lục tập 01
|
chương 1 | chương 2 |chương 3 - chương 3a
Mục
lục tập 02 |
chương 4 |chương 5 | chương 6
Mục lục tập 03 |
chương 7| chương 8 | chương 9 | chương 10|
Phụ lục
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục