Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Bốn vô lượng, bốn vô sắc định là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.
Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát
là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không
vậy. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ là pháp đã sanh, tôi
chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Không giải thoát
môn là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh
không vậy. Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn là pháp đã sanh, tôi chẳng
muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Năm nhãn là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Sáu thần thông là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì
tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Phật mười lực là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao?
Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí là pháp đã sanh, tôi chẳng
muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì
tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong
thất là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh
không vậy. Tánh hằng trụ xả là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì
cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn là pháp đã
sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Tất cả
tam ma địa môn là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì
tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Dị sanh là pháp
đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Dị
sanh pháp là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Dự lưu là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến
sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Dự lưu pháp là pháp đã sanh, tôi
chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Nhất
lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh
không vậy. Nhất lai pháp là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ
sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bất hoàn là pháp đã sanh, tôi chẳng
muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Bất hoàn pháp là pháp đã
sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi
Tử! A la hán là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự
tánh không vậy. A la hán pháp là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.
Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Độc giác là pháp đã sanh, tôi
chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Độc giác pháp là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Bồ tát là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao?
Vì tự tánh không vậy. Bồ tát pháp là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến
sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Như lai là pháp đã sanh,
tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không vậy. Như lai pháp
là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì cớ sao? Vì tự tánh không
vậy. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện
Hiện rằng: Nhân giả nay vì muốn khiến nó sanh, hay vì muốn khiến bất sanh
nó sanh ư? Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến sanh nó sanh, cũng chẳng
muốn khiến bất sanh nó sanh. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Sanh cùng bất sanh hai
pháp như thế, đều chẳng tương ưng chẳng phải bất tương ưng, chẳng hữu sắc
chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng phải vô kiến, chẳng hữu đối chẳng
phải vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Xá Lợi Tử! Do vì duyên
cớ này, nên tôi chẳng muốn khiến sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến bất
sanh nó sanh. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện
Hiện rằng: Nhân giả với đã thuyết pháp vô sanh là muốn biện thuyết tướng
vô sanh ư? Thiện Hiện đáp: Tôi đối đã thuyết pháp vô sanh cũng chẳng muốn
biện thuyết tướng vô sanh. Sở vì sao? Vì hoặc pháp vô sanh, hoặc tướng vô
sanh, hoặc muốn biện thuyết, tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải
bất tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng phải
vô kiến, chẳng hữu đối chẳng phải vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng. Xá Lợi Tử nói: Đối với pháp
bất sanh khởi lời nói bất sanh, lời nói bất sanh đây cũng bất sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Như vậy, như vậy. Sở vì sao? Xá Lợi Tử! Sắc bất sanh, thọ
tưởng hành thức cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá
Lợi Tử! Nhãn xứ bất sanh, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng bất sanh. Vì cớ sao?
Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Sắc xứ bất sanh, thanh hương vị xúc
pháp xứ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Nhãn giới bất
sanh, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các
thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Nhĩ
giới bất sanh, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên
sanh ra các thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá
Lợi Tử! Tỷ giới bất sanh, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm
duyên sanh ra các thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Thiệt giới bất sanh, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc,
thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Thân giới bất sanh, xúc giới, thân thức giới và
thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì
đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Ý giới bất sanh, pháp giới, ý thức giới
và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều
bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Địa giới bất
sanh, thủy hỏa phong không thức giới cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Khổ thánh đế bất sanh, tập diệt đạo thánh đế
cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Vô minh
bất sanh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão
tử sầu thán khổ ưu não cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không
vậy. Xá Lợi Tử! Nội không bất
sanh; ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì
đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật
đa bất sanh, tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa cũng
bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự bất
sanh, bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát bất sanh; tám thắng xứ, chín thứ
đệ định, mười biến xứ cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ bất
sanh, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá
Lợi Tử! Không giải thoát môn bất sanh; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Năm nhãn
bất sanh, sáu thần thông cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không
vậy. Xá Lợi Tử! Phật mười lực
bất sanh, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh
không vậy. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí bất sanh; đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử!
Pháp vô vong thất bất sanh; tánh hằng trụ xả cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì
đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn bất sanh, tất cả
tam ma địa môn cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Dị sanh bất
sanh, dị sanh pháp cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá
Lợi Tử! Dự lưu bất sanh, Dự lưu pháp cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Nhất lai bất sanh, Nhất lai pháp cũng bất sanh.
Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bất hoàn bất sanh, Bất
hoàn pháp cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử!
A la hán bất sanh, A la hán pháp cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh
không vậy. Xá Lợi Tử! Độc giác bất sanh, Độc giác pháp cũng bất sanh. Vì
cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Bồ tát bất sanh, Bồ tát pháp
cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Như lai
bất sanh, Như lai pháp cũng bất sanh. Vì cớ sao? Vì đều bản tánh không
vậy. Xá Lợi Tử! Thân hành bất sanh; ngữ hành, ý hành cũng bất sanh. Vì cớ
sao? Vì đều bản tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ
này, nên đối pháp bất sanh khởi lời bất sanh cũng nghĩa vô sanh. Xá Lợi
Tử! Hoặc pháp sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, kẻ thuyết, kẻ nghe đều là
bất sanh vậy. Khi ấy, Xá Lợi Tử khen
Thiện Hiện rằng: Với trong những hạng người thuyết pháp, nhân giả rất là
đệ nhất. Vì cớ sao? Vì tùy chỗ gạn hỏi đều năng thù đáp không có bị trệ
ngại vậy. Thiện Hiện đối lời: Đệ tử
các Đức Phật, đối với tất cả pháp không có chỗ nương dính. Lẽ pháp vậy đều
năng tùy chỗ gạn hỏi, mỗi mỗi thù đáp tự tại vô úy. Vì cớ sao? Vì tất cả
pháp không có nương vậy. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện
Hiện rằng: Vì sao các pháp đều không có chỗ nương? Thiện Hiện đáp: Xá Lợi
Tử! Sắc bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng
khá được. Thọ tưởng hành thức bản tánh không, nên nương trong nương ngoài
nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Nhãn xứ bản tánh không, nên
nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Sắc xứ
bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được.
Thanh hương vị xúc pháp xứ bản tánh không, nên nương trong nương ngoài
nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Nhãn giới bản
tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Sắc
giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ bản
tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá
Lợi Tử! Nhĩ giới bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa
hai chẳng khá được. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm
duyên sanh ra các thọ bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Tỷ giới bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Hương
giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi
Tử! Thiệt giới bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai
chẳng khá được. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên
sanh ra các thọ bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai
chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Thân giới bản tánh không, nên nương trong nương
ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc,
thân xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh không, nên nương trong nương
ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Ý giới bản tánh không,
nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Pháp giới, ý
thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh không, nên
nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Địa giới bản
tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được.
Thủy hỏa phong không thức giới bản tánh không, nên nương trong nương ngoài
nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Khổ thánh đế bản tánh không, nên
nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Tập diệt đạo thánh
đế bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Xá Lợi Tử! Vô minh bản tánh không, nên nương trong nương ngoài
nương giữa hai chẳng khá được. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não bản tánh không, nên nương trong
nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Nội không bản
tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được.
Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không bản tánh không, nên nương trong
nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật
đa bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi
Tử! Bốn tĩnh lự bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai
chẳng khá được. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Tám giải
thoát bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ bản tánh không, nên
nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Bốn
niệm trụ bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng
khá được. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác
chi, tám thánh đạo chi bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn bản tánh không,
nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Năm nhãn bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Sáu thần thông bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Phật mười lực
bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được.
Bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa
hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai
chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Tánh hằng trụ xả bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi
Tử! Tất cả đà la ni môn bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Tất cả tam ma địa môn bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Dị sanh bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Dị sanh
pháp bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Xá Lợi Tử! Dự lưu bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Dự lưu pháp bản tánh không, nên nương trong nương
ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Nhất lai bản tánh không,
nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Nhất lai pháp
bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được.
Xá Lợi Tử! Bất hoàn bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương
giữa hai chẳng khá được. Bất hoàn pháp bản tánh không, nên nương trong
nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! A la hán bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. A la hán
pháp bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Xá Lợi Tử! Độc giác bản tánh không, nên nương trong nương ngoài
nương giữa hai chẳng khá được. Độc giác pháp bản tánh không, nên nương
trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Bồ tát bản
tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Bồ
tát pháp bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng
khá được. Xá Lợi Tử! Như lai bản tánh
không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá được. Như lai
pháp bản tánh không, nên nương trong nương ngoài nương giữa hai chẳng khá
được. Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ
này, nên tôi nói các pháp đều không có chỗ nương
Nên tịnh địa
giới, nên tịnh thủy hỏa phong không thức giới. Nên tịnh khổ thánh đế, nên
tịnh tập diệt đạo thánh đế. Nên tịnh vô minh; nên tịnh hành, thức, danh
sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não.
Nên tịnh nội không; nên tịnh ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Nên tịnh bố thí Ba la mật đa; nên
tịnh tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Nên
tịnh bốn tĩnh lự; nên tịnh bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Nên tịnh tám
giải thoát; nên tịnh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Nên
tịnh bốn niệm trụ; nên tịnh bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Nên tịnh không giải thoát môn;
nên tịnh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Nên tịnh năm nhãn; nên tịnh
sáu thần thông. Nên tịnh Phật
mười lực; nên tịnh bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Nên tịnh pháp vô vong thất, nên tịnh
tánh hằng trụ xả. Nên tịnh tất cả đà la ni môn, nên tịnh tất cả tam ma
địa môn. Nên tịnh nhất thiết trí; nên tịnh đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí. Nên tịnh Bồ đề đạo. Khi ấy, Xá
Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao Bồ tát Ma ha tát khi tu hành sáu món
Ba la mật đa phải tịnh Bồ đề đạo? Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sáu Ba la
mật đa đều có hai thứ: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian bố thí Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma
ha tát làm đại thí chủ, năng thí tất cả những vị Sa môn, Bà la môn; những
kẻ nghèo, bệnh, côi quạnh, đi đường, hành khất. Cần ăn cho ăn, cần uống
cho uống, cần cưỡi cho cưỡi, cần áo cho áo, cần hương cho hương, cần hoa
cho hoa, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần
thuốc thang cho thuốc thang, cần soi sáng cho soi sáng, cần đồ ngồi nằm
cho đồ ngồi nằm; tất cả như thế, tùy kẻ kia cần dùng đồ thập vật giúp sống
thảy đều thí cho. Hoặc có kẻ đến xin trai cho trai, xin gái cho gái, xin
vợ hầu cho vợ hầu, xin quan vị cho quan vị, xin cõi nước cho cõi nước, xin
ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu mắt cho đầu mắt, xin tay chân cho tay
chân, xin từng lóng đốt cho từng lóng đốt, xin máu thịt cho máu thịt, xin
cốt tủy cho cốt tủy, xin tai mắt cho tai mắt, xin tôi tớ cho tôi tớ, xin
của báu cho của báu, xin sanh loại cho sanh loại; tất cả như thế, kia tùy
chỗ cầu xin vật nội ngoại, thảy đều thí cho. Tuy làm thí này mà có chỗ ỷ
y nghĩa là tác lên nghĩ này: “Ta thí kia nhận, ta là thí chủ, ta chẳng
tham lam. Ta theo lời Phật dạy năng xả tất cả, ta hành bố thí Ba la mật
đa”. Khi kia hành thí đem hữu sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình
đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại còn tác lên nghĩ này
nữa: “Ta đem phước này thí cho các hữu tình, khiến được đời này, đời khác
an vui cho đến chứng được Vô dư Niết bàn”. Kia chấp trước ba luân mà hành
bố thí: Một là nghĩ mình, hai là nghĩ kia, ba là nghĩ thí. Bởi chấp
trước ba luân này mà hành bố thí nên gọi là thế gian bố thí Ba la mật đa.
Duyên nào thí đây gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng cộng hành vậy,
chẳng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là thế gian bố thí Ba
la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian bố thí Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi hành bố thí thanh tịnh ba luân: Một là chẳng chấp ta là
kẻ thí, hai là chẳng chấp kia là kẻ nhận, ba là chẳng đắm nhân thí và quả
thí. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi hành bố thí ba luân thanh tịnh. Lại
nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm thượng thủ, chỗ tu
thí phước, khắp thí cho hữu tình, đối các hữu tình đều vô sở đắc. Mặc dù
cùng các hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà với
trong ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều vô sở chấp mà hành thí vậy, nên
gọi là xuất thế gian bố thí Ba la mật đa. Duyên nào thí đây gọi xuất thế
gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng cộng hành vậy, năng vượt khỏi pháp xuất
thế gian vậy. Như thế gọi là xuất thế gian bố thí Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian tịnh giới Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát
Ma ha tát tuy thọ trì giới mà có chỗ ỷ y nghĩa là tác lên nghĩ này: “Ta
vì nhiêu ích tất cả hữu tình thọ trì tịnh giới. Ta theo lời Phật dạy với
tịnh giới nhỏ năng không bị phạm. Ta hành tịnh giới Ba la mật đa”. Khi
kia trì giới đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng
cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại còn tác lên nghĩ này nữa:
“Ta đem phước này thí cho các hữu tình, khiến được đời này đời khác an
vui, cho đến chứng được Vô dư Niết bàn”. Kia chấp trước ba luân mà thọ
trì giới: Một là nghĩ mình, hai là nghĩ kia, ba là nghĩ giới. Bởi chấp
trước ba luân thọ trì giới, nên gọi là thế gian tịnh giới Ba la mật đa.
Duyên nào tịnh giới đây gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng cộng hành
vậy, chẳng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là thế gian tịnh
giới Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian tịnh giới Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi thọ trì giới thanh tịnh ba luân: Một là chẳng chấp
ta năng trì giới, hai là chẳng chấp sở hộ hữu tình, ba là chẳng đắm nhân
giới quả giới. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi thọ trì giới ba luân thanh
tịnh. Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm thượng
thủ, được phước trì giới khắp thí hữu tình. Ðối các hữu tình đều vô sở
đắc. Tuy cùng tất cả hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề, mà với trong ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều vô sở chấp mà thọ trì
giới, nên gọi là xuất thế gian tịnh giới Ba la mật đa. Duyên nào tịnh
giới đây gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng cộng hành vậy,
năng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là xuất thế gian tịnh
giới Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian an nhẫn Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát
Ma ha tát tuy an nhẫn mà có chỗ ỷ y nghĩa là tác lên nghĩ này: “Ta vì
nhiêu ích tất cả hữu tình mà tu an nhẫn. Ta theo lời Phật dạy, với thắng
an nhẫn năng chính tu tập. Ta hành an nhẫn Ba la mật đa”. Khi kia tu
nhẫn đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng cộng hồi
hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại còn tác lên nghĩ này nữa: “Ta đem
phước này thí cho các hữu tình, khiến được đời này đời khác an vui, cho
đến chứng được Vô dư Niết bàn”. Kia chấp trước ba luân mà tu an nhẫn:
Một là nghĩ mình, hai là nghĩ kia, ba là nghĩ nhẫn. Bởi chấp trước ba
luân tu an nhẫn, nên gọi thế gian an nhẫn Ba la mật đa. Duyên nào an nhẫn
này gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng cộng hành vậy, chẳng vượt khỏi
pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là thế gian an nhẫn Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian an nhẫn Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành an nhẫn thanh tịnh ba luân: Một là chẳng chấp
ta năng tu nhẫn, hai là chẳng chấp nhẫn bởi hữu tình, ba là chẳng đắm nhân
nhẫn và quả nhẫn. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu nhẫn ba luân thanh
tịnh. Lại nữa, Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm thượng thủ, tu
được phước nhẫn khắp thí hữu tình. Với các hữu tình đều vô sở đắc. Tuy
cùng tất cả hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà
với trong ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều không chỗ chấp mà tu an nhẫn
vậy, nên gọi là xuất thế gian an nhẫn Ba la mật đa. Duyên nào an nhẫn đây
gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng cộng hành vậy, năng
vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là xuất thế gian an nhẫn Ba
la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian tinh tiến Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát
Ma ha tát tuy siêng tinh tiến mà có chỗ ỷ y nghĩa là tác lên nghĩ này:
“Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình mà siêng tinh tiến. Ta theo lời Phật dạy
gắng gổ thân tâm không từng biếng trễ. Ta hành tinh tiến Ba la mật đa.
Khi kia tinh tiến đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình
đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề”. Lại còn tác lên nghĩ này
nữa: “Ta đem phước này thí cho các hữu tình, khiến được đời này đời khác
an vui cho đến chứng được Vô dư Niết bàn. Kia đắm ba luân mà siêng tinh
tiến: Một là nghĩ mình, hai là nghĩ kia, ba là nghĩ tinh tiến. Bởi đắm
ba luân mà tu tinh tiến, nên gọi là thế gian tinh tiến Ba la mật đa.
Duyên nào tinh tiến này gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng cộng hành
vậy, chẳng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là thế gian tinh
tiến Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian tinh tiến Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi siêng tinh tiến thanh tịnh ba luân: Một là chẳng
chấp ta năng tinh tiến, hai là chẳng chấp vì chúng hữu tình, ba là chẳng
đắm nhân và quả tinh tiến. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi siêng tinh tiến
thanh tịnh ba luân. Lại nữa, Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm
thượng thủ, tu phước tinh tiến khắp thí cho hữu tình. Ðối các hữu tình
đều vô sở đắc. Tuy cùng tất cả hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, mà với trong ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều không
chỗ chấp mà siêng tinh tiến vậy, nên gọi là xuất thế gian tinh tiến Ba la
mật đa. Duyên nào tinh tiến này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng thế
gian đồng cộng hành vậy, năng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy. Như thế
gọi là xuất thế gian tinh tiến Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian tĩnh lự Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát
Ma ha tát tuy tu tĩnh lự mà có chỗ ỷ y nghĩa là tác lên nghĩ này: “Ta vì
nhiêu ích tất cả hữu tình mà tu tĩnh lự. Ta theo lời Phật dạy với thắng
đẳng trì năng chính tu tập. Ta hành tĩnh lự Ba la mật đa”. Khi kia tu
định đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng cộng hồi
hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại còn tác lên nghĩ này nữa: “Ta đem
phước này thí cho các hữu tình, khiến được đời này đời khác an vui, cho
đến chứng được Vô dư Niết bàn”. Kia đắm ba luân mà tu tĩnh lự: Một là
nghĩ mình, hai là nghĩ kia, ba là nghĩ tĩnh lự. Bởi đắm ba luân mà tu
tĩnh lự, nên gọi là thế gian tĩnh lự Ba la mật đa. Duyên nào tĩnh lự này
gọi là thế gian? Vì cùng thế gian đồng cộng hành vậy, chẳng vượt khỏi
pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là thế gian tĩnh lự Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian tĩnh lự Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu tĩnh lự thanh tịnh ba luân: Một là chẳng chấp ta
năng tu định, hai là chẳng chấp vì các hữu tình, ba là chẳng đắm nhân và
quả tĩnh lự. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu tĩnh lự thanh tịnh ba luân.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm thượng thủ, tu phước
tĩnh lự khắp thí hữu tình. Ðối các hữu tình đều vô sở đắc. Tuy cùng tất
cả hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà với trong
ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều không chỗ chấp mà tu tĩnh lự, nên gọi
là xuất thế gian tĩnh lự Ba la mật đa. Duyên nào tĩnh lự này gọi là xuất
thế gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng cộng hành vậy, năng vượt khỏi pháp
xuất thế gian vậy. Như thế gọi là xuất thế gian tĩnh lự Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là thế gian bát nhã Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát
Ma ha tát tuy tu bát nhã mà có chỗ ỷ y nghĩa là tác lên nghĩ này: “Ta vì
nhiêu ích tất cả hữu tình mà tu bát nhã. Ta theo lời Phật dạy với thắng
bát nhã năng chính tu hành. Ta năng ăn năn từ bỏ ác tự đã làm. Ta thấy
kẻ khác ác trọn chẳng chê khinh. Ta năng tùy hỷ kẻ khác tu phước. Ta
năng thỉnh Phật quay xe diệu pháp. Ta tùy chỗ nghe năng chính quyết
chọn. Ta hành bát nhã Ba la mật đa”. Khi kia tu huệ đem hữu sở đắc mà
làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề”. Lại còn tác lên nghĩ này nữa: “Ta đem phước này thí cho các
hữu tình, khiến được đời này đời khác an vui, cho đến chứng được Vô dư
Niết bàn”. Kia đắm ba luân mà tu bát nhã: Một là nghĩ mình, hai là nghĩ
kia, ba là nghĩ bát nhã. Bởi đắm ba luân mà tu bát nhã, nên gọi là thế
gian bát nhã Ba la mật đa. Duyên nào bát nhã này gọi là thế gian? Vì
cùng thế gian đồng cộng hành vậy, chẳng vượt khỏi pháp xuất thế gian vậy.
Như thế gọi là thế gian bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử
hỏi: Sao là xuất thế gian bát nhã Ba la mật đa? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu bát nhã thanh tịnh ba luân: Một là chẳng chấp ta
năng tu huệ, hai là chẳng chấp vì chúng hữu tình, ba là chẳng đắm nhân và
quả bát nhã. Ðấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu bát nhã thanh tịnh ba luân.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát đem đại bi làm thượng thủ, tu phước
bát nhã khắp thí cho hữu tình. Ðối các hữu tình đều vô sở đắc. Tuy cùng
tất cả hữu tình đồng cộng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà với
trong ấy chẳng thấy chút tướng. Bởi đều không chỗ chấp mà tu bát nhã, nên
gọi là xuất thế gian bát nhã Ba la mật đa. Duyên nào bát nhã này gọi là
xuất thế gian? Vì chẳng cùng thế gian đồng cộng hành vậy, năng vượt khỏi
pháp xuất thế gian vậy. Như thế gọi là xuất thế gian bát nhã Ba la mật
đa. Xá Lợi Tử!
Như vậy Bồ tát Ma ha tát khi tu sáu món Ba la mật đa, tịnh Bồ đề đạo. Khi ấy, Xá
Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Những gì gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Nội không gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo.
Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến
dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự
tánh không gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Chơn như gọi là
Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất
biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế,
hư không giới, bất tư nghì giới gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi
Tử! Khổ thánh đế gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Tập diệt đạo thánh
đế gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật đa gọi
là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
bát nhã Ba la mật đa gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Bốn
tĩnh lự gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định
gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát gọi là Bồ
tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ gọi
là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ gọi là Bồ tát Ma
ha tát Bồ đề đạo. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá
Lợi Tử! Không giải thoát môn gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi
Tử! Năm nhãn gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Sáu thần thông gọi là Bồ
tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Phật mười lực gọi là Bồ tát Ma ha
tát Bồ đề đạo. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá
Lợi Tử! Pháp vô vong thất gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Tánh hằng
trụ xả gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn
gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Tất cả tam ma địa môn gọi là Bồ tát Ma
ha tát Bồ đề đạo. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ
đề đạo. Ðạo tướng trí, nhất thiết tướng trí gọi là Bồ tát Ma ha tát Bồ đề
đạo. Xá Lợi Tử! Như thế thảy vô lượng vô biên đống đại công đức gọi là
Bồ tát Ma ha tát Bồ đề đạo. Khi ấy, Xá
Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Hay thay! Hay thay! Thật như lời vừa nói.
Công đức như thế là do thế lực Ba la mật nào gây nên? Thiện Hiện đáp: Xá
Lợi Tử! Công đức như thế đều do thế lực Bát nhã Ba la mật gây nên? Vì cớ
sao? Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa như vậy năng làm mẹ cho tất cả
thiện pháp của tất cả Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như Lai từ đấy sanh
vậy. Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa như vậy, khắp năng nhiếp thọ tất cả
thiện pháp. Thiện pháp của tất cả Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát, Như Lai
nương đấy trụ vậy. Xá Lợi Tử!
Các Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đa cực viên mãn, nên đã chứng
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Các
Phật vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật đa cực viên mãn, nên sẽ chứng Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Các
Phật hiện tại mười phương thế giới tu hành Bát nhã Ba la mật đa cực viên
mãn, nên hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô
lượng chúng sanh!
Thứ 21 – 1