Phần
5
Chương
V : Tương Ưng Tỷ Kheo Ni
I. Alavikhà (S.i.128)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Tỷ-kheo-ni Alavikà, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để tìm sự yên tĩnh viễn ly.
3) Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Alavikà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ yên tĩnh viễn ly, nên đi đến Tỷ-kheo-ni Alavikà và nói lên bài kệ:
Đời không có
xuất ly,
Sống viễn ly
làm gì?
Hãy trọn hưởng
dục lạc,
Chớ hối hận
về sau.
4) Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"
5) Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: "Chính Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn làm ta từ bỏ yên tĩnh viễn ly nên đã nói lên bài kệ đó".
6) Tỷ-kheo-ni Alavikà biết được: "Đấy là Ác ma", liền nói lên bài kệ:
Ở đời có
xuất ly,
Nhờ trí tuệ,
ta chứng.
Này Bà con phóng
dật,
Biết sao được
pháp ấy?
Ái dục như
kiếm thương,
Đài chém đầu
các uẩn.
Điều Ông
gọi dục lạc,
Ta gọi là
bất lạc.
7) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Alavikà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
II. Somà (S.i.129)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
Rồi Tỷ-kheo-ni Somà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.
2) Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, nàng ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
3) Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Somà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Somà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Somà:
Địa vị khó
chứng đạt,
Chỉ Thánh nhân
chứng đạt,
Trí nữ nhân
hai ngón,
Sao hy vọng
chứng đạt?
4) Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: "Ai đã nói bài kệ này? Người hay không phải người?"
5) Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: "Đây là Ác ma muốn làm cho ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ đó".
6) Tỷ-kheo-ni Somà biết được : "Đây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Nữ tánh chướng
ngại gì,
Khi tâm khéo
Thiền định,
Khi trí tuệ
triển khai,
Chánh quán pháp
vi diệu?
Ai tự mình tìm
hỏi :
"Ta, nữ nhân,
nam nhân,
Hay ta là ai khác?"
Xứng nói
chuyện Ác ma,
Ác ma thật cân
xứng.
7) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Somà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
III. Gotamii (S.i.129)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực.
2) Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày; sau khi đi sâu vào rừng Andha, đến ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
3) Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii; sau khi đi đến, liền nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii:
Sao nàng như
mất con,
Một mình,
mặt ứa lệ.
Hay một mình vào
rừng,
Để tìm đàn
ông nào?
4) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"
5) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii suy nghĩ: "Đây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó".
6) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii biết được: "Đây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Con hại, đã
qua rồi,
Đàn ông đã
chấm dứt,
Ta không sầu,
không khóc,
Ta sợ gì các
Ông?
Khắp nơi hỷ,
ái đoạn,
Khối mê ám nát
tan,
Chiến thắng
quân thần chết,
Vô lậu, ta an
trú.
7) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamii đã biết ta" nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
IV. Vijayà
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Vijayà vào buổi sáng đắp y... và ngồi xuống dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
2) Ác Ma muốn làm cho Tỳ-kheo-ni Vijayà sợ hãi ... muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỳ-kheo-ni Vijayà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỳ-kheo-ni Vijayà:
Nàng vừa trẻ,
vừa đẹp,
Ta vừa trẻ,
vừa xuân,
Với cung đàn
năm điệu,
Nàng cùng ta
vui hưởng.
3) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : " Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"
4) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : " Đây là Ác ma... nói lên bài kệ đó."
5) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : "Đây là Ác ma", liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Sắc, tiếng,
vị, hương, xúc,
Làm cho ý đam
mê,
Ta nhường
lại Ác ma,
Ta đâu có
cần chúng.
Với thân bất
tịnh này,
Dễ hư hoại
mong manh,
Ta bực phiền,
tủi hổ,
Dục ái được
đoạn tận.
Họ sanh hưởng
sắc giới,
Chúng vọng vô
sắc giới,
Thiền chứng
an tịnh ấy,
Mọi nơi, mê
ám diệt.
6) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Aijayà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
V. Uppalavannà (S.i.131)
1) Nhân duyên Sàvatthi.
Rồi Tỷ-kheo-ni Uppalavannà vào buổi sáng đắp y... và đứng dưới gốc cây tala có trổ hoa.
2) Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Uppalavannà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Uppalavannà.
3) Sau khi đến, Ác ma nói lên bài kệ này với Tỷ-kheo-ni Uppalavannà:
Này nàng
Tỷ-kheo-ni,
Dưới gốc cây
tala,
Đang nở nụ
trăm hoa,
Nàng đến đứng
một mình,
Nhan sắc Nàng
tuyệt đẹp,
Không ai dám sánh
bằng!
Tại đây Nàng
đã đến,
Trong tư thế
như vậy,
Nàng ngu dại
kia ơi,
Không sợ cám
dỗ sao?
4) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay là không phải người?"
5) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: "Đây là Ác ma... đã nói lên bài kệ đó."
6) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà biết được : "Đây là Ác ma", liền trả lời với bài kệ:
Trăm ngàn người
cám dỗ,
Có đến đây
như Ông,
Mảy lông ta không
động,
Ta không gì
sợ hãi.
Ác ma, ta không
sợ,
Ta đứng đây
một mình,
Ta có thể
biến mất,
Hay vào bụng các
Ông.
Ta đứng giữa
hàng mi,
Ông không
thấy ta được.
Với tâm khéo
khiếp phục,
Thần túc khéo
tu trì,
Ta thoát mọi
trói buộc,
Ta đâu có sợ
Ông?
Này Hiền giả
Ác ma!.
7) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Uppalavannà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
VI. Càlà (S.i.132)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Càlà vào buổi sáng đắp y... ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
2) Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Càlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Càlà:
- Này Tỷ-kheo-ni, Nàng không vui thích gì?
- Này Hiền giả, ta không vui thích sanh.
- Sao Nàng không vui thích sanh?
- Khi đã sanh, phải thọ hưởng các dục.
- Này Tỷ-kheo-ni, ai dạy cho nàng: "Chớ có vui thích sanh"?
(Càlà):
3) Sanh ra rồi
phải chết,
Đã sanh thấy
khổ đau,
Kiết sử trói
gia hại,
Do vậy không
thích sanh.
Đức Phật
thuyết giảng pháp,
Khiến vượt
khỏi tái sanh,
Đoạn trừ
mọi khổ não,
Giúp ta trú chân
thật.
Chúng sanh hướng
sắc giới,
Họ vọng vô
sắc giới,
Nếu không
biết đoạn diệt,
Họ đi đến tái
sanh.
4) Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Càlà đã biết ta", buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
VII. Upacàlà
1) Ở tại Sàvatthi.
2) Rồi Tỷ-kheo-ni Upacàlà, vào buổi sáng, đắp y... và ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày... nói với Tỷ-kheo-ni Upacàlà:
- Này Tỷ-kheo-ni, Nàng muốn tái sanh tại chỗ nào?.
3) Ta không muốn tái sanh tại một chỗ nào cả, này Hiền giả.
4) Chư Thiên Ba
mươi ba,
Dạ-ma, Đâu-suất
thiên,
Chư vị Hóa
lạc thiên,
Tha hóa Tự
tại thiên,
Nàng hãy hướng
tâm này,
Đến cảnh
giới chư Thiên,
Rồi Nàng được
tái sanh,
Hưởng an lạc
cảnh ấy.
5) Chư Thiên Ba
mươi ba,
Dạ-ma, Đâu-suất
thiên,
Chư vị Hóa
Lạc thiên,
Tha hóa, Tự
tại thiên,
Vì ái dục trói
buộc,
Lại bị ma
chinh phục.
Toàn thế
giới cháy đỏ,
Toàn thế
giới hỏa thiêu,
Toàn thế
giới bùng cháy,
Toàn thế
giới rung động.
Không rung, không
dao động,
Không hệ lụy,
phàm phu,
Chỗ nào ma không
đến,
Chỗ ấy ta vui
thích.
6) Rồi Ác ma biết được... biến mất tại chỗ ấy.
VIII. Sisupacàlà
1) Tại Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà vào buổi sáng đắp y rồi ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày.
2) Rồi Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà:
Này Tỷ-kheo-ni, Nàng thích thú tà giáo của ai không?
3) Này Hiền giả, ta không thích thú tà giáo của ai cả.
4) Vì ai Nàng
trọc đầu,
Hiện tướng
nữ Sa-môn?
Nàng không thích
tà giáo,
Vậy nàng tu
cho ai,
Này kẻ Ngu
muội kia?
(Sisupacàlà):
5) Những kẻ
tin tà kiến,
Thuộc ngoại
đạo tà giáo.
Ta không thích
pháp họ,
Ta không giỏi
pháp họ!
Có dòng họ Thích-ca.
Đản sanh
Phật vô tỷ,
Ngài chinh
phục tất cả,
Ngài đại phá
chúng ma,
Tại mọi chỗ,
mọi nơi,
Không ai chiến
thắng Ngài.
Ngài giải thoát
hoàn toàn,
Không bị gì
triền phược.
Bậc Pháp nhãn
thấy khắp;
Tất cả
nghiệp đoạn diệt,
Giải thoát,
diệt sanh y.
Thế Tôn, Đạo
Sư ta,
Ta thích giáo
pháp Ngài.
6) Rồi Ác ma biết được... liền biến mất tại chỗ ấy.
IX. Selà (S.i.134)
1) Ở tại Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Selà vào buổi sáng đắp y... ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
2) Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Selà run sợ... nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Selà:
Bởi vì bong bóng
này,
Được tạo tác
làm ra,
Ai là người sáng
tạo,
Bong bóng như
huyễn này?
Từ đâu bong bóng
sanh?
Đi đâu bong bóng
diệt?
3) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"
4) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà suy nghĩ: " Đây là Ác ma, muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ ấy".
5) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà được biết: "Đây là Ác ma", nên trả lời Ác ma với bài kệ:
Bong bóng như
huyễn này,
Không phải
tự ngã làm,
Sự vật bạc
phước này,
Không phải người
khác làm.
Do nhân duyên
quy tụ,
Sự vật được
hình thành,
Do nhân duyên tán
ly,
Sự vật bị
tiêu diệt.
Hột giống
gieo vào ruộng,
Được nẩy
mầm, sinh lộc,
Khi nhiễm
thấm cả hai,
Vị đất và
khí ướt.
Cũng vậy uẩn
và giới,
Cùng với sáu
xứ này,
Do nhân duyên
quy tụ,
Chúng sẽ được
hình thành,
Do nhân duyên tán
ly,
Chúng bị
hoại, tiêu diệt.
6) Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Selà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
X. Vajirà
1) Ở tại Sàvatthi.
Tỷ-kheo-ni Vajirà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirà đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày, đi sâu vào rừng Andha và ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày.
2) Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Vajirà:
3) Do ai, hữu tình
này,
Được sanh,
được tạo tác?
Người tạo
hữu tình này,
Hiện nay ở
tại đâu?
Từ đâu hữu
tình sanh?
Đi đâu hữu tình
diệt?
4) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà suy nghĩ: "Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?"
5) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà lại suy nghĩ: "Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ này".
6) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà biết được: "Đây là Ác ma", liền trả lời Ác ma với bài kệ:
Sao Ông lại nói
hoài,
Đến hai chữ
chúng sanh?
Phải chăng, này
Ác ma,
Ông rơi vào tà
kiến?
Đây quy tụ các
hành,
Chúng sanh được
hình thành,
Như bộ phận
quy tụ,
Tên xe được
nói lên.
Cũng vậy,
uẩn quy tụ,
Thông tục
gọi chúng sanh.
Chỉ có khổ
được sanh,
Khổ tồn tại,
khổ diệt,
Ngoài khổ, không
gì sanh,
Ngoài khổ không
gì diệt.
7) Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo-ni Vajirà đã biết ta", nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com