Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đã nói. Ở trong tất cả pháp tánh bình đẳng hoặc các dị
sanh, hoặc các Thánh giả cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, pháp và hữu
tình đều không sai khác. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu trong tất cả pháp tánh bình đẳng dị sanh, Thánh
giả, pháp và hữu tình đều không sai khác, vì sao Tam Bảo xuất hiện thế
gian, thường gọi Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo? Phật nói: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng mỗi có khác chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Như tôi
hiểu nghĩa Phật đã nói ấy, Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng đều
không có khác. Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật bảo, hoặc Pháp bảo, hoặc Tăng bảo,
hoặc tánh bình đẳng, như vậy tất cả đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ứng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Nhưng
Phật Thế Tôn với trong vô tướng phương tiện khéo léo kiến lập nhiều các
pháp thảy có khác rằng: Đây là dị sanh, đây là tùy tín hành, đây là tùy
pháp hành, đây là Đệ bát, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn,
đây là A la hán, đây là Nhất giác, đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác. Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đã nói. Như Lai đối pháp phương tiện khéo léo, năng đối
vô tướng kiến lập nhiều các pháp thảy sai khác. Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu
sao? Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề, giả sử chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà chẳng vì hữu tình Thiên
Đế Thích Thiết tướng các pháp sai khác.
Các loại hữu tình vì năng tự biết được: Đây là địa ngục, đây là bàng sanh,
đây là quỷ giới, đây là người, đây là trời Bốnn đại vương chúng, đây là
trời Ba mươi ba, đây là trời Dạ ma, đây là trời Đổ sử đa, đây là trời Lạc
biến hóa, đây là trời tha hóa tự tại, đây là trời Phạm chúng, đây là trời
phạm phụ, đây là trời Phạm tội, đây là trời Đại phạm, đây là trời Quang,
đây là trời Thiểu quang, đây là trời Vô lượng quang, đây là trời Cực quang
tịnh, đây là trời Tịnh, đây là trời Thiểu tịnh, đây là trời Vô lượng tịnh,
đây là trời Biến tịnh, đây là trời Vô lượng quảng, đây là trời Quảng quả,
đây là trời Vô tưởng, đây là trời Vô phiền, đây là trời vô nhiệt, đây là
trời Thiện Hiện, đây là trời Thiện kiến, đây là trời Sắc cứu cánh, đây là
trời Không vô biên xứ, đây là trời Thức vô biên xứ, đây là trời Vô sở hữu
xứ, đây là trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là sắc, đây là thọ tưởng
hành thức. Đây là nhãn xứ, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Dây là sắc xứ,
đây là thanh hương vị xúc pháp xứ. Đây là nhãn giới, đây là nhĩ tỷ thiệt
thân ý giới. Đây là sắc giới, đây là thanh hương vị xúc pháp giới. Đây là
nhãn thức giới, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Đây là nhãn xúc, đây
là nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, đây
là nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Đây là địa giới, đây là thủy
hỏa phong không thức giới. Đây là nhân duyên, đây là đẳng vô gián duyên,
sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Đây là các pháp theo duyên sanh ra. Đây
là vô minh; đây là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất
thế gian. Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp hữu vi, đây
là pháp vô vi. Đây là bố thí Ba la mật đa; đây
là tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo,
diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa. Đây là bốnn ni䭠trụ; đây là bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi , tám thánh đạo
chi. Đây là nội không; đây là ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không. Đây là chơn như; đây là pháp
giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.
Đây là khổ thánh đế, đây là tập diệt đạo thánh đế. Đây là bốn tĩnh lự; đây là bốn
vô lượng, bốn vô sắc định. Đây là tám giải thoát; đây là tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ. Đây là đà la ni môn, đây là tam ma địa
môn. Đây là không giải thoát môn; đây là vô thường, vô nguyện giải thoát
môn. Đây là Cực hỷ địa; đây là Ly
cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa,
Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Đây là năm nhãn,
đây là sáu thần thông. Đây là Phật mười lực, đây là bốn vô sở úy, bốn vô
ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Đây là ba mươi hai tướng Đại sĩ, đây là tám mươi tùy hảo. Đây là pháp vô
vong thất, đây là tánh hằng trụ xả. Đây là nhất thiết trí; đây là đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Đây là nhất thiết tướng diệu nguyện trí,
đây là Nhất thiết trí trí. Đây là Phật Bảo, đây là Pháp
Bảo, đây là Tăng Bảo. Đây là Thanh văn thừa, đây là Độc giác thừa, đây là
Vô thượng thừa. Đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là Bất
hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các loại hữu tình đối tướng sai khác như thế
thảy tự năng biết được chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng biết. Bạch Thiện Thệ! Chẳng biết. Nếu Phật chẳng vì hữu tình
thi thiết tướng sai khác như thế thảy, các loại hữu tình chẳng năng tự
biết được các tướng sai khác như thế thảy. Phật nói: Thiện Hiện! Vậy nên
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối pháp vô tướng phương tiện khéo léo tuy vì
hữu tình thi thiết nhiều các tướng sai khác, mà đối các pháp pháp tánh
bình đẳng đều không chỗ động. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả pháp
pháp tánh bình đẳng đều không chỗ động, như vậy tất cả ngu phu dị sanh
cũng đối các pháp pháp tánh bình đẳng không chỗ động chăng? như vậy tùy
tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai,
hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ tát Ma ha tát cũng
đối các pháp pháp tánh bình đẳng không chỗ động chăng? Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Vì tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng vượt khỏi pháp tánh bình
đẳng, đều đối các pháp pháp tánh bình đẳng, đều không chỗ động. Thiện Hiện phải biết: Tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hữu chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư
vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới tức là chơn như, pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới của
ngu phu dị sanh. Cũng tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng
tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới của tùy tín hành, tùy pháp hành,
Đệ bát, Dư lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát.
Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp và
các hữu tình đều chẳng vượt khỏi chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư
vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới của tùy tín hành, tùy pháp
hành, Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha
tát. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp và
các hữu tình đều chẳng vượt khỏi chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư
vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Thiện Hiện phải biết: Chơn
như cho đến bất tư nghì giới tánh không sai khác. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp pháp tánh bình đẳng, tức là pháp tánh
bình đẳng dị sanh, cũng tức là pháp tánh bình đẳng tùy tín hành, tùy pháp
hành, Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha
tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác pháp tánh bình đẳng; khiến tất cả pháp và
các hữu tình tướng mỗi khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh
cũng ưng mỗi khác? Nghĩa là tương sắc khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng thọ tưởng hành thức khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Yướng nhãn xứ khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ khác, nên tánh cũng ưng khác.
Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng sắc xứ khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng thanh hương vị xúc pháp xứ khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhãn giới khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng sắc giới khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng thanh hương vị xúc pháp giới khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhãn thức giới, nên tánh
cũng ưng khác; tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhãn xúc khác, nên tánh
cũng ưng khác.; tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhãn xúc làm duyên sanh
ra các thọ khác, nên tánh cũng ưng khác; tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ khác, nên tánh cũng ưng khác.. Vậy thời pháp tánh
cũng ưng mỗi khác? Tướng địa giới khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng thủy hỏa phong không thức giới khác, nên tánh cũng
ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhân duyên khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên
khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng các pháp theo duyên sanh
ra khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng vô minh khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời
pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng tham khác, nên tánh cũng
ưng khác; tướng sân, si khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh
cũng ưng mỗi khác? Tướng dị sanh kiến thú khác,
nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng bốn tĩnh lự khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng bốn vô lượng, bốn vô sắc định khác, nên tánh
cũng ưng khác.Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng bốn niệm trụ khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy
thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng không giải thoát môn
khác, nên tánh cũng ưng khác; tướng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nội không khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,
tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác?
Tướng khổ thánh đế khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng tập diệt đạo thánh đế khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng bô thí Ba la mật đa kkác,
nên tánh cũng ưng khác; tướng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát
nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Bát nhã Ba la mật đa
khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng tám giải thoát khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng tất cả đà la ni môn khác,
nên tánh cũng ưng khác; tướng tất cả tam ma địa môn khác, nên tánh cũng
ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng Cực hỷ địa khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan
thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp
vân địa khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi
khác? Tướng năm nhãn khác, nên tánh
cũng ưng khác; tướng sáu thần thông khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời
pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng Phật mười lực khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khác, nên tánh cũng ưng khác.
Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng ba mươi hai tướng Đại sĩ
khác, nên tánh cũng ưng khác; tướng tám mươi tùy hảo khác, nên tánh cũng
ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng pháp vô vong thất khác,
nên tánh cũng ưng khác; tướng tánh hằng trụ xả khác, nên tánh cũng ưng
khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng nhất thiết trí khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng đạo trí, nhất thiết tướng trí khác, nên tánh
cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng mỗi khác? Tướng dị sanh ngu phu khác, nên
tánh cũng ưng khác; tướng tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát, Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng ưng
mỗi khác? Tướng các pháp thế gian, pháp
xuất thế gian khác, nên tánh cũng ưng khác; tướng các pháp hữu vô lậu,
pháp hữu vi vô vi khác, nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng
ưng mỗi khác? Bạch Thế Tôn! Vì sao với tướng
khác pháp thảy khá được an lập pháp tánh nhất tướng? Vi sao Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng phân biệt pháp và các hữu tình
có các thứ tánh? Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng phân biệt pháp và các hữu tình
có các thứ tánh, thời lẽ chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa. Nếu
chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, thời lẽ chăng năng tới vào Bồ tát
Chánh tánh ly sanh vượt các Thanh văn và bậc Độc giác. Nếu chẳng năng tới
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, vượt các Thanh văn và bậc Độc giác, thời lẽ
chẳng năng viên mãn thần thông Ba la mật đa, thời chẳng năng viên mãn bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện
xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa. Nếu chẳng năng viên mãn bố thí
cho đến trí Ba la mật đa, thời lẽ chẳng năng du hý thần thông từ một cõi
Phật đến một cõi Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen chư Phật
Thế Tôn; cũng lẽ chẳng năng ở chỗ chư Phật trồng các căn lành. Nếu chẳng
năng ở chỗ chư Phật trồng các căn lành thời lẽ chẳng năng thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu chẳng năng thành thục hữu tình, nghiêm
tịnh cõi Phật, thời lẽ chẳng năng chứng được Vô thượng Chánh đảng Bồ đề? Phật bảo: Thiện Hiện! Như ngươi
đã nói: Nếu tất cả pháp pháp tánh bình đẳng tức là pháp tánh bình đẳng của
dị sanh, cũng tức là pháp tánh bình đẳng của tùy tín hành, tùy pháp hành,
Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát,
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác pháp tánh bình đẳng, khiến tất cả pháp và các
hữu tình tướng mỗi khác nên tánh cũng ưng khác. Vậy thời pháp tánh cũng
ứng mỗi khác, vì sao với các tướng khác pháp thảy khá được an lập pháp
tánh nhất tướng. Vì sao Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa
chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh thảy ấy. Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao?
Pháp tánh các sắc là không tánh chăng? Pháp tánh các thọ tưởng hành thức
là không tánh chăng? Pháp tánh các nhãn xứ là không tánh chăng? Pháp tánh
các nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là không tánh chăng? Pháp tánh các thanh hương
vị xúc pháp xứ là không tánh chắng? Pháp tánh các nhãn giới là
không tánh chăng? Pháp tánh các nhĩ tỷ thiệt thân ý giới là không tánh
chăng? Pháp tánh các sắc giới là không tánh chắng? Pháp tánh các thanh
hương vị xúc pháp giới là không tánh chắng? Pháp tánh các nhãn thức giới
là không tánh chắng? Pháp tánh các nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới là không
tánh chắng? Pháp tánh các nhãn xúc là không
tánh chắng? Pháp tánh các nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là không tánh chắng?
Pháp tánh các nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là không tánh chắng? Pháp tánh các
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là không tánh chắng? Pháp tánh các nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là không tánh chắng? Pháp tánh các địa giới là không
tánh chắng? Pháp tánh các thủy hỏa phong không thức giới là không tánh
chắng? Pháp tánh các nhân duyên là không tánh chắng? Pháp tánh các đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là không tánh chăng? Pháp
tánh các pháp theo duyên sanh ra là không tánh chắng? Pháp tánh các vô minh là không
tánh chắng? Pháp tánh các hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não là không tánh chăng? Pháp tánh các
tham là không tánh chắng? Pháp tánh các sân, si là không tánh chắng? Pháp
tánh các sân, si là không tánh chắng? Pháp tánh các dị sanh kiến thú là
không tánh chắng? Pháp tánh các bốn tĩnh lự là
không tánh chắng? Pháp tánh các bốn vô lượng, bốn vô sắc định là không
tánh chắng? Pháp tánh các bốn niệm trụ là không tánh chắng? Pháp tánh các bốn niệm trụ là
không tánh chắng? Pháp tánh các bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi là không tánh chắng? Pháp tánh
các không giải thoát môn là không tánh chắng? Pháp tánh các không giải
thoát môn là không tánh chắng? Pháp tánh các vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn là không tánh chắng? Pháp tánh các nội không là
không tánh chắng? Pháp tánh các ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không là không tánh chắng? Pháp tánh các khổ thánh đế là
không tánh chắng? Pháp tánh các tập diệt đạo thánh đế là không tánh chắng?
Pháp tánh các bố thí Ba la mật đa là không tánh chăng? Pháp tánh các tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu
nguyện, lực, trí Ba la mật đa là không tánh chăng? Pháp tánh tám giải thoát là
không tánh chăng? Pháp tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
là không tánh chăng? Pháp tánh tất cả đà la ni môn là không tánh chăng?
Pháp tánh các tam ma địa môn là không tánh chăng? Pháp tánh các Cực hỷ địa là
không tánh chăng? Pháp tánh các Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa,
Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ
địa, Pháp vân địa là không tánh chăng? Pháp tánh năm nhãn là không tánh
chăng? Pháp tánh sáu thần thông là không tánh chăng? Pháp tánh Như lai
mười lực là không tánh chăng? Pháp tánh bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải,
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không tánh
chăng? Pháp tánh ba mươi hai tướng Đại
sĩ là không tánh chăng? Pháp tánh tám mươi tùy hảo là không tánh chăng?
Pháp tánh các pháp vô vong thất là không tánh chăng? Pháp tánh các tánh
hằng trụ xả là không tánh chăng? Pháp tánh các nhất thiết trí là không
tánh chăng? Pháp tánh các đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí là không
tánh chăng? Pháp tánh các ngu phu dị sanh
là không tánh chăng? Pháp tánh các tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát, Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác là không tánh chăng? Pháp tánh các pháp thế gian, xuất thế
gian là không tánh chăng? Pháp tánh pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi
là không tánh chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Như vậy. Bạch Thiện Thệ! Như vậy. Tất cả pháp tánh đều là không tánh. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Ở trong không tánh tướng khác pháp thảy vì khá được chăng? Nghĩa
là tướng khác sắc vì khá được chăng? Tướng khác thọ tưởng hành thức vì khá
được chăng? Tướng khác nhãn xứ vì khá được
chăng? Tướng khác nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vì khá được chăng? Tướng khác sắc
xứ vì khá được chăng? Tướng khác thanh hương vị xúc pháp xứ vì khá được
chăng? Tướng khác nhãn giới vì khá được chăng? Tướng khác nhĩ tỷ thiệt
thân ý giới vì khá được chăng? Tướng khác sắc giới vì khá được chăng?
Tướng khác thanh hương vị xúc pháp giới vì khá được chăng? Tướng khác nhãn
thức giới vì khá được chăng? Tướng khác nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới vì
khá được chăng? Tướng khác nhãn xúc vì khá được chăng? Tướng khác nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc vì khá được chăng? Tướng khác nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ vì khá được chăng? Tướng khác nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ vì khá được chăng? Tướng khác địa giới vì khá được chăng?
Tướng khác thủy hỏa phong không thức giới vì khá được chăng? Tướng khác
nhân duyên vì khá được chăng? Tướng khác đẳng vô gián duyên, sở duyên
duyên, tăng thượng duyên vì khá được chăng? Tướng khác các pháp theo duyên
sanh ra vì khá được chăng? Tướng khác vô minh vì khá được
chăng? Tướng khác hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não vì khá được chăng? Tướng khác tham vì khá
được chăng? Tướng khác sân si vì khá được chăng? Tướng khác dị sanh ngu
phu kiến thú vì khá được chăng? Tướng khác bốn tĩnh lự vì khá
được chăng? Tướng khác bốn vô lượng, bốn vô sắc định vì khá được chăng?
Tướng khác bốn niệm trụ vì khá được chăng? Tướng khác bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi vì khá
được chăng? Tướng khác không giải thoát môn vì khá được chăng? Tướng khác
vô giải thoát môn vì khá được chăng? Tướng khác không giải thoát môn vì
khá được chăng? Tướng khác vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vì khá được
chăng? Tướng khác nội không vì khá
được chăng? Tướng khác ngoại không. nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không vì khá được chăng? Tướng khác khổ thánh đế vì khá
được chăng? Tướng khác tập diệt đạo thánh đế vì khá được chăng? Tướng khác
bố thí Ba la mật đa vì khá được chăng? Tướng khác tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu tiến, tĩnh lự, bát
nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa vì khá được
chăng? Tướng khác tám giải thoát vì
khá được chăng? Tướng khác tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vì
khá được chăng? Tướng khác tất cả đà la ni môn vì khá được chăng? Tướng
khác tất cả tam ma địa môn vì khá được chăng? Tướng khác Cực hỷ địa vì khá
được chăng? Tướng khác Ly cấu địa, hiện tiền địa, Phát quang địa, Diệm huệ
địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện
huệ địa, Pháp vân địa vì khá được chăng? Tướng khác năm nhãn vì khá được
chăng? Tướng khác sáu thần thông vì khá được chăng? Tướng khác Như Lai
mười lực vì khá được chăng? Tướng khác bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vì khá được chăng?
Tướng khác ba mươi hai tướng
Đại sĩ vì khá được chăng? Tướng khác tám mươi tùy hảo vì khá được chăng?
Tướng khác pháp vô vong vì khá được chăng? Tướng khác tánh hằng trụ xả vì
khá được chăng? Tướng khác nhất thiết trí vì khá được chăng? Tướng khác
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vì khá được chăng? Tướng khác ngu phu dị sanh vì
khá được chăng? Tướng khác tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, Dự lưu,
Nhất lai, bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát, Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác vì khá được chăng? Tướng khác pháp thế gian, xuất thế gian
vì khá được chăng? Tướng khác pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vì khá được
chăng? Thiện Hiện! đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng được. Bạch Thiện Thệ! Chẳng được. Ở trong không tánh tất cả
tướng khác đều chẳng khá được. Phật bảo: Thiện Hiện! Do đây
phải biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải sắc, chẳng lìa sắc. Chẳng phải
thọ tưởng hành thức, chẳng lìa thọ tưởng hành thức. Chẳng phải nhãn xứ, chẳng lìa
nhãn xứ. Chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ. Chẳng phải sắc xứ, chẳng lìa
sắc xứ. Chẳng phải thanh hương vị xúc pháp xứ, chẳng lìa thanh hương vị
xúc pháp xứ. Chẳng phải nhãn giới, chẳng lìa
nhãn giới. Chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt
thân ý giới. Chẳng phải sắc giới, chẳng lìa
sắc giới. Chẳng phải thanh hương vị xúc pháp giới, chẳng lìa thanh hương
vị xúc pháp giới. Chẳng phải nhãn thức giới,
chẳng lìa nhãn thức giới. Chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, chẳng
lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng phải nhãn xúc, chẳng lìa
nhãn xúc. Chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân
ý xúc. Chẳng phải nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ, chẳng lìa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng phải
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng phải địa giới, chẳng lìa
địa giới. Chẳng phải thủy hỏa phong không thức giới, chẳng lìa thủy hỏa
phong không thức giới. Chẳng phải nhân duyên, chẳng
lìa nhân duyên. Chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng
duyên; chẳng lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Chẳng phải các pháp theo duyên sanh ra, chẳng lìa các pháp theo duyên sanh
ra. Chẳng phải vô minh, chẳng lìa
vô minh. Chẳng phải hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não; chẳng lìa hành cho đến lão tử sầu thán
khổ ưu não. Chẳng phải tham, chẳng lìa
tham. Chẳng phải sân si, chẳng lìa sân si. Chẳng phải các kiến thú, chẳng
lìa các kiến thú. Chẳng phải bốn tĩnh lự, chẳng
lìa bốn tĩnh lự. Chẳng phải bốn vô lượng, bốn vô sắc định; chẳng lìa bốn
vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng phải bốn niệm trụ, chẳng
lìa bốn niệm trụ. Chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; chẳng lìa bốn chánh đoạn cho
đến tám thánh đạo chi. Chẳng phải không giải thoát
môn, chẳng lìa không giải thoát môn. Chẳng phải vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn; chẳng lìa vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng phải nội không, chẳng lìa
nội không. Chẳng phải ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vì khá được chăng? không, vô vi không, tất
cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự
tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; chẳng lìa ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng phải khổ thánh đế, chẳng
lìa khổ thánh đế. Chẳng phải tập diệt đạo thánh đế, chẳng lìa tập diệt đạo
thánh đế. Chẳng phải bố thí Ba la mật đa,
chẳng lìa bố thí Ba la mật đa. Chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật
đa; chẳng lìa tịnh giới cho đến trí Ba la mật đa. Chẳng phải tám giải thoát,
chẳng lìa tám giải thoát. Chẳng phải thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ; chẳng lìa tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chẳng phải tất cả đà la ni môn,
chẳng lìa tất cả đà la ni môn. Chẳng phải tất cả tam ma địa môn, chẳng lìa
tất cả tam ma địa môn. Chẳng phải Cực hỷ địa, chẳng
lìa Cực hỷ địa. Chẳng phải Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực
nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa,
Pháp vân địa; chẳng lìa Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa. Chẳng phải năm nhãn, chẳng lìa
năm nhãn. Chẳng phải sáu thần thông, chẳng lìa sáu thần thông. Chẳng phải Phật mười lực, chẳng
lìa Phật mười lực. Chẳng phải bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chảng lìa bốn vô sở úy
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng phải ba mươi hai tướng
Đại sĩ, chẳng lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ. Chẳng phải tám mươi tùy hảo,
chẳng lìa tám mươi tùy hảo. Chẳng phải pháp vô vong thất,
chẳng lìa pháp vô vong thất. Chẳng phải tánh hằng trụ xả, chẳng lìa tánh
hằng trụ xả. Chẳng phải nhất thiết trí,
chẳng lìa nhất thiết trí. Chẳng phải đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí;
chẳng lìa đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chẳng phải ngu phu dị sanh,
chẳng lìa ngu phu dị sanh. Chẳng phải tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát,
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát, Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác; chẳng lìa tùy tín hành cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác. Chẳng phải pháp thế gian xuất
thế gian, chẳng lìa pháp thế gian xuất thế gian. Chẳng phải pháp hữu lậu
vô lậu, pháp hữu vi vô thi thiết vi; chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp
hữu vi vô vi. Chẳng phải pháp thế gian xuất
thế gian, chẳng lìa pháp thế gian xuất thế gian. Chẳng phải pháp hữu lậu
vô lậu, pháp hữu vi vô vi; chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô
vi. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng vì là hữu vi hay là vô vi? Phật bảo: Thiện Hiện! Pháp tánh
bình đẳng chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi. Nhưng lìa pháp hữu vi
pháp vô vi chẳng khá được. Lìa pháp vô vi pháp hữu vi cũng chẳng khá được.
Thiện Hiện! Hoặc hữu vi giới,
hoặc vô vi giới, hai giới như thế chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, vô sắc vô kiến, vô đối nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Tất cả Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương thế tục mà thuyết, chớ chẳng phải trong
thắng nghĩa khá có thân hành, ngữ hành, ý hành thắng nghĩa khá được. Thiện Hiện phải biết: Tức pháp
tánh bình đẳng hữu vi vô vi nói tên thắng nghĩa. Vậy nên, Bồ tát Ma ha tát
khi Tướng khác hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng động thắng nghĩa mà hành
hạnh Bồ tát Ma ha tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, năng
chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp thảy pháp tánh bình đẳng, bản tánh
đều không. Bổn tánh không đây đối pháp có không chẳng phải năng sở làm ra.
Bồ tát Ma ha tát làm sao khi Tướng khác hành Bát nhã Ba la mật đa chảng
động thắng nghĩa mà làm những việc Bồ tát cần làm, dùng bố thí, ái ngữ,
lợi hành, đồng sựﬠnhiêu ích hữu tình? Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đã nói. Tất cả pháp thảy pháp tánh bình đẳng, bổn tánh
đều không. Bổn tánh không đây đối pháp có không chẳng phải năng sở làm ra. Thiện Hiện! Nếu các hữu tình tự
biết các pháp bổn tánh đều không, thời các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và
các chúng Bồ tát Ma ha tát chẳnng hiện thần thông làm việc hiếm có. Nghĩa
là đối trong các pháp bổn tánh không, tuy vô sở động mà khiến hữu tình xa
lìa các thứ vọng tưởng điên đảo, an trụ các pháp không, giải thoát khổ
sanh tử. Nghĩa là khiến các hữu tình xa lìa tưởng ngã, tưởng hữu tình,
tưởng mạng giả, tưởng sanh giả, tưởng dưỡng giả, tưởng sĩ phu, tưởng bổ
đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng nho đồng, tưởng tác giả, tưởng khiến tác
giả, tưởng khởi giả, tưởng khiến khởi giả, tưởng thọ giả, tưởng khiến thọ
giả, tưởng tri giả, tưởng khiến tri giả, tưởng kiến giả, tưởng khiến kiến
giả. Cũng khiến xa lìa tưởng sắc,
tưởng thọ tưởng hành thức. Cũng khiến xa lìa tưởng nhãn xứ, tưởng nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ. Cũng khiến xa lìa tưởng sắc xứ, tưởng thanh hương vị xúc
pháp xứ. Cũng khiến xa lìa tưởng sắc xứ, tưởng thanh hương vị xúc pháp xứ.
Cũng khiến xa lìa tưởng nhãn thức giới, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức
giới. Cũng khiến xa lìa tưởng nhãn xúc, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc.
Cũng khiến xa lìa tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tưởng nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh các thọ. Cũng khiến xa lìa tưởng địa
giới, tưởng thủy hỏa phong không thức giới. Cũng khiến xa lìa tưởng nhân
duyên, tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cũnng
khiến xa lìa tưởnng các pháp theo duyên sanh ra. Cũng khiến xa lìa tưởng
vô minh, tưởng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử sầu thán khổ ưu não. Cũng khiến xa lìa tưởng pháp thế gian, xuất
thế gian, tưởng pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi. An trụ vô vi giới,
giải thoát khổ sanh tử. Vô vi giới ấy tức các pháp không, nương thế tục
nói tên vô vi giới. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Do không nào nên nói các pháp không? Phật bảo: Thiện Hiện! Do không
tưởng nên nói các pháp không. Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu
sao? Như thân biến hóa lại làm việc hóa, đây hữu thật sự mà chẳng không ư? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng thật. Bạch Thiện Thệ! Chẳng thật. Các bị biến hóa đều vô thật
sự, tất cả đều không. Phật bảo: Thiện Hiện! Biến hóa
cùng không, hai pháp như thế chẳng phải hợp chẳng phải tan; hai đây đều
lấy không không nên không. Chẳng nên phân biệt đây không, đây hóa.Vì cớ
sao? Thiện Hiện! Chẳng phải trong không tánh có không có hoá hai việc khá
được, vì tất cả pháp rốt ráo không vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Vô sắc phi
hóa, vô thọ tưởng hành thức phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều
không. Thiện Hiện! Vô nhãn xứ phi hóa,
vô nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ phi hóa. Các hóa này này ấy không có chẳng đều
không. Thiện Hiện! Vô nhãn giới phi
hóa, vô nhĩ tỷ thiệt thân ý giới phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng
đều không. Thiện Hiện! Vô sắc xứ phi hóa,
vô thanh hương vị xúc pháp giới phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều
không. Thiện Hiện! Vô nhãn giới phi
hóa, vô nhĩ tỷ thiệt thân ý giới phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng
đều không. Thiện Hiện! Vô sắc giới phi
hóa, vô thanh hương vị xúc pháp giới phi hóa. Các hóa này ấy không có
chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô nhãn thức giới
phi hóa, vô thi thiết nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới phi hóa. Các hóa này
ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô nhãn xúc làm
duyên sanh các thọ, vô nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh các thọ phi
hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô địa giới phi
hóa, vô thủy hỏa phong không thức giới phi hóa. Các hóa này ấy không có
chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô nhân duyên phi
hóa, vô đẳng gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên phi hóa. Các
hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô các pháp theo
duyên sanh ra phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô vô minh phi hóa,
vô hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu
thán khổ ưu não phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô bố thí Ba la mật
đa phi hóa, vô tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương
tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Bát nhã Ba la mật đa phi hóa. Các
hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô bốn niệm trụ phi
hóa, vô bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô không giải thoát
môn phi hóa; vô vô tướng, vô nguyện giải thoát môn phi hóa. Các hóa này ấy
không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô nội không phi
hóa, vô ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô khổ thánh đế phi
hóa, vô tập diệt đạo thánh đế phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều
không. Thiện Hiện! Vô bốn tĩnh lự phi
hóa, vô bốn vô lượng, bốn vô sắc định phi hóa. Các hóa này ấy không có
chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô tám giải thoát
phi hóa, vô tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ phi hóa. Các hóa
này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô đà la ni môn phi
hóa, vô tam ma địa môn phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô Cực hỷ địa phi
hóa, vô Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện
tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa phi
hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô năm nhãn phi
hóa, vô sáu thần thông phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô phật mười lực
phi hóa, vô bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều
không. Thiện Hiện! Vô ba mươi hai
tướng Đại sĩ phi hóa, vô tám mươi tùy hảo phi hóa. Các hóa này ấy không có
chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô pháp vô vong
thất phi hóa, vô tánh hằng trụ xả phi hóa. Các hóa này ấy không có chẳng
đều không. Thiện Hiện! Vô nhất thiết trí
phi hóa, vô đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí phi hóa. Các hóa này ấy
không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô quả Dự lưu phi
hóa, vô đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí phi hóa. Các hóa này ấy không
có chẳng đều không. Thiện Hiện! Vô hạnh Bồ tát Ma
ha tát phi hóa, vô chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phi hóa. Các hóa
này ấy không có chẳng đều không. Thiện Hiện! Nương pháp như thế
Thiên Đế Thích Thiết các thứ bổ đặc già la chỗ
gọi dị sanh. Hoặc tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, hoặc Dự
lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ
tát Ma ha tát, hoặc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy tất cả không có,
chẳng phải là hóa. Các hóa này ấy không có chẳng đều không. Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! các uẩn, các xứ, các giới, duyên khởi, duyên
sanh, chi duyên khởi thảy của thế gian có thể đều là hóa. Chứ các Ba la
mật đa xuất thế gian như ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, hoặc ba môn giải
thoát, hoặc tất cả không, hoặc các thánh đế, hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vô sắc định, hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ, hoặc đà la ni môn, tam ma địa môn, hoặc Bồ tát thập
địa, hoặc năm nhãn, sáu thần thông, hoặc Phật mười lực, bốn vô sở úy,bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, hoặc pháp vô vong thất,
tánh hằng trụ xả, hoặc nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí. Nếu do pháp kia sở đắc các quả, nếu nương pháp kia thi thiết nhiều
thứ bổ đặc già la đâu cũng là hóa? Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả
pháp thế gian, xuất thế gian không pháp nào chẳng phải là hóa. Nhưng ở
trong ấy có là Thanh văn sở hóa, có là Độc giác sở hóa, có là Bồ tát sở
hóa, có là Như Lai sở hóa, có là phiên não sở hóa, có là thiện pháp sở
hóa. Thiện Hiện! Bởi nhân duyên đây
mới nói tất cả pháp đều như biến hóa,ngang nhau không sai khác. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu đoạn quả, nghĩa là quả Dự lưu, quả Nhất
lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Như Lai, dứt
hẳn tập khí phiền não nối nhau, đâu cũng là hóa? Phật bảo: Thiện Hiện! Các pháp
như thế nếu cùng hai sanh diệt hợp nhau, ấy cũng đều là hóa. Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng
phải hóa? Thiện Hiện! Nếu pháp chẳng cùng
sanh diệt hợp nhau, pháp này chẳng phải hóa. Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng
cùng sanh diệt hợp nhau? Thiện Hiện! Pháp chẳng dối gạt
tức là Niết bàn. Pháp này chẳng cùng sanh diệt hợp nhau. Vậy nên chẳng
phải hóa. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Như Thế Tôn thuyết: Pháp tánh bình đẳng, tất cả đều không, không kẻ
năng động, không hai khá được, không có chút pháp chẳng tự tánh không. Vì
sao Niết bàn khá nói chẳng phải hóa? Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đả nói. Không có chút pháp chẳng tự tánh không. Tự tánh
không đây chẳng phải Thanh văn làm, chẳng phải Độc giác làm, chẳng phải Bồ
tát làm, chẳng phải Như Lai làm, cũng chẳng ai khác làm. Có Phật không
Phật, tánh kia thường không. Đây tức Niết bàn. Vậy nên Ta nói Niết bàn phi
hóa. Chẳng phải thật có pháp gọi là Niết bàn khá nói vô sanh vô diệt phi
hóa.