KHEN BÁT NHÃ
Thứ 32-9
Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì bố thí Ba la mật đa vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa
vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Bố thí Ba la mật
đa vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; tịnh giới cho
đến tĩnh lự Ba la mật đa vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô diệt. Bố thí Ba la mật đa vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô tự tánh; tịnh giới cho đến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa vô tự
tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Bố thí Ba la mật
đa vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; tịnh giới
cho đến tĩnh lự Ba la mật đa vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sở hữu. Bố thí Ba la mật đa không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng không; tịnh giới cho đến tĩnh lự Ba la mật đa không, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Bố thí Ba la mật đa vô tướng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; tịnh giới cho đến tĩnh lự vô
tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Bố thí Ba la mật
đa vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; tịnh giới
cho đến tĩnh lự Ba la mật đa vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô nguyện. Bố thí Ba la mật đa xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng xa lìa; tịnh giới cho đến tĩnh lự Ba la mật đa xa lìa, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Bố thí Ba la mật đa vắng lặng,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; tịnh giới cho đến tĩnh
lự Bát nhã Ba la mật đa vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vắng lặng. Bố thí Ba la mật đa bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng bất khả đắc; tịnh giới cho đến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa
bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Bố thí
Ba la mật đa bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất
khả tư nghì; tịnh giới cho đến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa bất khả tư
nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Bố thí Ba
la mật đa vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác
tri; tịnh giới cho đến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa vô giác tri, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Bố thí Ba la mật đa chẳng trọn
nên thế lực, nên Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; tịnh
giới cho đến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa chẳng trọn nên thế lực, nên Bát
nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây
nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì nội không vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
sanh. Nội không vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt;
ngoại không cho đến vô tự tánh không vô diệt nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô diệt. Nội không vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô tự tánh; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không vô tự tánh,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Nội không vô sở hữu,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; ngoại không cho đến vô
tánh tự tánh không vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
sở hữu. Nội không không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không;
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không không, nên phải biết Bát nhã la
mật đa cũng không. Nội không vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô tướng; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không vô tướng, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Nội không vô nguyện, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; ngoại không cho đến vô tánh
tự tánh không vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện. Nội không xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa;
ngoại không cho đến vô tự tánh không xa lìa, nên phải biết Bát nhã ba la
mật đa cũng xa lìa. Nội không vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vắng lặng; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không vắng lặng,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Nội không bất khả đắc,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc; ngoại không cho đến
vô tánh tự tánh không bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
bất khả đắc. Nội không bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng bất khả tư nghì; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không bất khả tư
nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Nội không
vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; ngoại
không cho đến vô tánh tự tánh không vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô giác tri. Nội không chẳng trọn nên thế lực, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; ngoại không cho đến
vô tánh tự tánh không chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ
Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại ba la la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì chơn như vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô sanh; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh.
Chơn như vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; pháp
giới cho đến bất tư nghì giới vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô diệt. Chơn như vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô tự tánh; pháp giới cho đến bất tư nghì giới vô tự tánh, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Chơn như vô sở hữu, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; pháp giới cho đến bất tư nghì giới vô
sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Chơn như không,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; pháp giới cho đến bất tư
nghì giới không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Chơn như
vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; pháp giới cho
đến bất tư nghì giới vô tướng nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
tướng. Chơn như vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện; pháp giới cho đến bất tư nghì giới vô nguyện, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Chơn như xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng xa lìa; pháp giới cho đến bất tư nghì giới xa lìa, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Chơn như vắng lặng, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; pháp giới cho đến bất tư nghì giới
vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Chơn như bất
khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc; pháp giới
cho đến bất tư nghì giới bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng bất khả đắc. Chơn như bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng bất khả tư nghì; pháp giới cho đến bất tư nghì giới bất khả tư
nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Chơn như vô
giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; pháp giới
cho đến bất tư nghì giới vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô giác tri. Chơn như chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; pháp giới cho đến bất tư nghì
giới chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng
trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát
nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì khổ thánh đế vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh; tập diệt đạo thánh đế vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh. Khổ thánh đế vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô diệt; tập diệt đạo thánh đế vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô diệt. Khổ thánh đế vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô tự tánh; tập diệt đạo thánh đế vô tự tánh, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Khổ thánh đế vô sở hữu, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; tập diệt đạo thánh đế vô sở
hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Khổ thánh đế
không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; tập diệt đạo thánh
đế không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Khổ thánh đế vô
tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; tập diệt đạo
thánh đế vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Khổ
thánh đế vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; tập
diệt đạo thánh đế vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện. Khổ thánh đế xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa
lìa; tập diệt đạo thánh đế xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
xa lìa. Khổ thánh đế vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vắng lặng; tập diệt đạo thánh đế vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vắng lặng. Khổ thánh đế bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng bất khả đắc; tập diệt đạo thánh đế bất khả đắc, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Khổ thánh đế bất khả tư nghì,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; tập diệt đạo
thánh đế bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả
tư nghì. Khổ thánh đế vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô giác tri; tập diệt đạo thánh đế vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô giác tri. Khổ thánh đế chẳng trọn nên thế lực, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; tập diệt đạo thánh
đế chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng
trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát
nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì bốn tĩnh lự vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô sanh, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô sanh. Bốn tĩnh lự vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô diệt; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô diệt, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Bốn tĩnh lự vô tánh, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tánh; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô tự
tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Bốn tĩnh lự vô
sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; bốn vô lượng,
bốn vô sắc định vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở
hữu. Bốn tĩnh lự không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; bốn
vô lượng, bốn vô sắc định không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
không. Bốn tĩnh lự vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
tướng; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô tướng. Bốn tĩnh lự vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô nguyện; bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô nguyện, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Bốn tĩnh lự xa lìa, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; bốn vô lượng, bốn vô sắc định xa
lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Bốn tĩnh lự vắng
lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; bốn vô lượng, bốn
vô sắc định vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng.
Bốn tĩnh lự bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả
đắc; bốn vô lượng, bốn vô sắc định bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng bất khả đắc. Bốn tĩnh lự bất khả tư nghì, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; bốn vô lượng, bốn vô sắc định bất
khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Bốn
tĩnh lự vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri;
bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô giác tri. Bốn tĩnh lự chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; bốn vô lượng, bốn vô sắc
định chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng
trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn. Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát
nhã Ba la mật đa, tên Ðại Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì tám giải thoát vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô sanh; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô sanh, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Tám giải thoát vô diệt, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
diệt. Tám giải thoát vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô tự tánh; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô tự tánh, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Tám giải thoát vô sở hữu,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; tám thắng xứ, chín thứ
đệ định, mười biến xứ vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô sở hữu. Tám giải thoát không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
không; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ không, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Tám giải thoát vô tướng, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Tám
giải thoát vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện;
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô nguyện, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Tám giải thoát xa lìa, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Tám giải thoát
vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vắng lặng. Tám giải thoát bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng bất khả đắc; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Tám
giải thoát bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất
khả tư nghì; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ bất khả tư nghì,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Tám giải thoát vô
giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô giác tri. Tám giải thoát chẳng trọn nên thế lực, nên
phải biết Bát nhã ba la mật tri cũng chẳng trọn nên thế lực; tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây
nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng
giác chi, tám thánh đạo chi vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh. Bốn niệm trụ vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô diệt; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vô diệt, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Bốn niệm trụ vô tự tánh, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự
tánh. Bốn niệm trụ vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
sở hữu; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vô sở hữu, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Bốn niệm trụ không, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng không, bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi
không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Bốn niệm trụ vô
tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; bốn chánh đoạn
cho đến tám thánh đạo chi vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô tướng. Bốn niệm trụ vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô nguyện; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vô nguyện, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Bốn niệm trụ xa lìa, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Bốn
niệm trụ vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; bốn
chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vắng lặng. Bốn niệm trụ bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi
bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Bốn niệm
trụ bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư
nghì; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi bất khả tư nghì, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Bốn niệm trụ vô giác tri,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; bốn chánh đoạn cho
đến tám thánh đạo chi vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô giác tri. Bốn niệm trụ chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh
đạo chi chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha
tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì không giải thoát môn vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô sanh, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Không giải thoát môn vô diệt, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Không
giải thoát môn vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng vô tự
tánh; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Không giải thoát môn vô sở hữu, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Không
giải thoát môn không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng không. Không giải thoát môn vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô tướng; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô tướng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Không giải thoát môn vô nguyện,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện. Không giải thoát môn xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng xa lìa; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn xa lìa, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Không giải thoát môn vắng lặng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Không
giải thoát môn bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất
khả đắc; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn bất khả đắc, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Không giải thoát môn bất khả tư nghì,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng bất khả tư nghì. Không giải thoát môn vô giác tri, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô
giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Không giải
thoát môn chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
chẳng trọn nên thế lực; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng trọn nên
thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực.
Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa,
tên Ðại Ba la mật đa.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì năm nhãn vô sanh, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô sanh; sáu thần thông vô sanh, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Năm nhãn vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô diệt; sáu thần thông vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô diệt. Năm nhãn vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô tự tánh; sáu thần thông vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Năm nhãn vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô sở hữu; sáu thần thông vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Năm nhãn không, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng không; sáu thần thông không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng không. Năm nhãn vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô tướng; sáu thần thông vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô tướng. Năm nhãn vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện; sáu thần thông vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô nguyện. Năm nhãn xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa
lìa; sáu thần thông xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa
lìa. Năm nhãn vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng
lặng; sáu thần thông vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vắng lặng. Năm nhãn bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
bất khả đắc; sáu thần thông bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng bất khả đắc. Năm nhãn bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng bất khả tư nghì; sáu thần thông bất khả tư nghì, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Năm nhãn vô giác tri, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; sáu thần thông vô giác tri,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Năm nhãn chẳng trọn
nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế
lực; sáu thần thông chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ
Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì Phật mười lực vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô sanh; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô sanh. Phật mười lực vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô diệt; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô diệt,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Phật mười lực vô tự tánh,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô tự tánh. Phật mười lực vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô sở hữu; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở
hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Phật mười lực
không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
không. Phật mười lực vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
tướng; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tướng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Phật mười lực vô nguyện, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; bốn vô sở úy cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện. Phật mười lực xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa
lìa; bốn sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xa lià, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Phật mười lực vắng lặng, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng
lặng. Phật mười lực bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
bất khả đắc; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Phật mười lực bất khả tư nghì,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng bất khả tư nghì. Phật mười lực vô giác tri, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác
tri. Phật mười lực chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng chẳng trọn nên thế lực; bốn vô sở úy cho đến mười tám phát Phật
bất cộng chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha
tát Bát nhã ba la la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì pháp vô vong thất vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh; tánh hằng trụ xả vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh. Chánh pháp vô vong thất vô diệt, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; tánh hằng trụ xả vô diệt, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Pháp vô vong thất vô tự tánh, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; tánh hằng trụ xả vô tự tánh, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Pháp vô vong thất vô sở
hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; tánh hằng trụ xả
vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Pháp vô vong
thất không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; tánh hằng trụ
xả không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Pháp vô vong thất
vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; tánh hằng trụ
xả vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Pháp vô
vong thất vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện;
tánh hằng trụ xả vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
nguyện. Pháp vô vong thất xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
xa lìa; tánh hằng trụ xả xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa thất
cũng xa lìa. Pháp vô vong thất vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vắng lặng; tánh hằng trụ xả vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vắng lặng. Pháp vô vong thất bất khả đắc, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc; tánh hằng trụ xả bất khả đắc, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Pháp vô vong thất bất khả tư
nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; tánh hằng
trụ xả bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư
nghì. Pháp vô vong thất vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô giác tri; tánh hằng trụ xả vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô giác tri. Pháp vô vong thất chẳng trọn nên thế lực, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; tánh hằng trụ
xả chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng
trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát
nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì nhất thiết trí vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô sanh; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Nhất thiết trí vô diệt, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí vô diệt, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Nhất thiết
trí vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô tự tánh. Nhất thiết trí vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô sở hữu; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sở hữu,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Nhất thiết trí không,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Nhất thiết
trí vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng; đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô tướng. Nhất thiết trí vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng vô nguyện; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô nguyện, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Nhất thiết trí xa lìa, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Nhất thiết trí
vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vắng lặng. Nhất thiết trí bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng bất khả đắc; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí bất khả đắc,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Nhất thiết trí bất
khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng bất khả tư nghì. Nhất thiết trí vô giác tri, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Nhất
thiết trí chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
chẳng trọn nên thế lực; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng trọn nên
thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực.
Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa,
tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Vì tất cả đà la ni môn vô sanh, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô sanh; tất cả tam na địa môn vô sanh, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô sanh. Tất cả đà la ni môn vô diệt, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; tất cả tam na địa môn vô diệt, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Tất cả đà la ni môn vô tự tánh,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; tất cả tam na địa môn
vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Tất cả đà
la ni môn vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu;
tất cả tam na địa môn vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô sở hữu. Tất cả đà la ni môn không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng không; tất cả tam na địa môn không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật
đa cũng không. Tất cả đà la ni môn vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô tướng; tất cả tam na địa môn vô tướng, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Tất cả đà la môn vô nguyện, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện; tất cả tam na địa môn vô nguyện, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Tất cả đà la ni môn xa lìa,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa; tất cả tam na địa môn xa
lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Tất cả đà la ni môn
vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng; tất cả tam
na địa môn vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng.
Tất cả đà la ni môn bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
bất khả đắc; tất cả tam na địa môn bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã ba
la mật đa cũng bất khả đắc. Tất cả đà la ni môn bất khả tư nghì, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì; tất cả tam na địa môn bất
khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Tất
cả đà la ni môn vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
giác tri; tất cả tam na địa môn vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng vô giác tri. Tất cả đà la ni môn chẳng trọn nên thế lực, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; tất cả tam na
địa môn chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây nên nói Bồ Tát Ma ha
tát Bát nhã Ba la mật đa, tên đại Ba la mật đa.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Dự lưu vô sanh, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng vô sanh; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô sanh, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Dự lưu vô diệt, nên phải biết
Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô diệt,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Dự lưu vô tự tánh, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh; Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán vô tự tánh, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Dự lưu
vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu; Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán vô sở hữu, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô
sở hữu. Dự lưu không, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng không; Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán không, nên phải biết Bát nhã ba la mật đa cũng
không. Dự lưu vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng;
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô tướng, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa
cũng vô tướng. Dự lưu vô nguyện, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng
vô nguyện; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô nguyện, nên phải biết Bát nhã
Ba la mật đa cũng vô nguyện. Dự lưu xa lìa, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng xa lìa; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán xa lìa, nên phải biết Bát
nhã Ba la mật đa cũng xa lìa. Dự lưu vắng lặng, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vắng lặng; Nhất lai Bất hoàn A la hán vắng lặng, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vắng lặng. Dự lưu bất khả đắc, nên phải
biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
bất khả đắc, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Dự lưu
bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì;
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán bất khả tư nghì, nên phải biết Bát nhã Ba la
mật đa cũng bất khả tư nghì. Dự lưu vô giác tri, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng vô giác tri; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô giác tri, nên
phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng vô giác tri. Dự lưu chẳng trọn nên thế
lực, nên phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực; Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán chẳng trọn nên thế lực, nên phải biết Bát nhã Ba
la mật đa cũng chẳng trọn nên thế lực. Bạch Thế Tôn! Tôn vin ý đây nên nói
Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa.
Nguồn: www.quangduc.com
Phẩm