Quyển Thứ 173
Hội Thứ Nhất
Phẩm Khen Bát Nhã
Thứ 32–2
Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tám giải thoát nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn!
Vì sao Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tám giải thoát nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì tám
giải thoát vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả,
không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tám giải thoát,
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô
xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát bốn niệm trụ nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn
phát bốn niệm trụ nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn
phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì
bốn niệm trụ vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô
xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát bốn niệm trụ,
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô
xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát bốn chánh
đoạn cho đến tám thánh đạo chi, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát không giải thoát môn nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát không giải thoát môn nên dẫn phát được Bát
nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát vô tướng, vô nguyện giải thoát môn nên
dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì không giải thoát môn vô
tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự
tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát không giải thoát môn, nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô
tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự
tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát năm nhãn nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát sáu thần thông nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn
phát năm nhãn nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát
năm nhãn nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì năm nhãn vô
tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự
tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát năm nhãn, nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa. Vì sáu thần thông vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô
thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng
vì dẫn phát sáu thần thông, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát Phật mười lực nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát
chẳng vì dẫn phát Phật mười lực nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng vì dẫn phát bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật
đa? Xá Lợi Tử! Vì Phật mười lực vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành
vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn
phát Phật mười lực, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô
thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng
vì dẫn phát bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát pháp vô vong thất nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát tánh hằng trụ xả nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát
chẳng vì dẫn phát pháp vô vong thất nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật
đa, chẳng vì dẫn phát tánh hằng trụ xả nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật
đa? Xá Lợi Tử! Vì pháp vô vong thất vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô
thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng
vì dẫn phát pháp vô vong thất, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì
tánh hằng trụ xả vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc
vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tánh hằng
trụ xả, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát nhất thiết trí nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát nhất thiết trí nên dẫn phát được Bát nhã
Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì nhất thiết
trí vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không
có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát nhất thiết trí, nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô
tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự
tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tất cả đà la ni môn nên dẫn
phát được Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát tất cả tam ma địa môn
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát chẳng vì dẫn phát tất cả đà la ni môn nên dẫn phát được Bát nhã Ba la
mật đa, chẳng vì dẫn phát tất cả đà la ni môn nên dẫn phát được Bát nhã Ba
la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì tất cả tam đà la ni môn vô tác vô chỉ, vô sanh vô
diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha
tát chẳng vì dẫn phát tất cả đà la ni môn, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la
mật đa. Vì tất cả tam ma địa môn vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành
vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn
phát tất cả tam ma địa môn, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát quả Dự lưu nên dẫn phát được
Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vì dẫn phát quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát chẳng vì dẫn phát quả Dự lưu nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa,
chẳng vì dẫn phát quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán nên dẫn phát được Bát
nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì quả Dự lưu vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt,
vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát
chẳng vì dẫn phát quả Dự lưu, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Vì
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành
vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn
phát quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật
đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát Ðộc giác Bồ đề nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì
dẫn phát Ðộc giác Bồ đề nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử!
Vì Ðộc giác Bồ đề vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc
vô xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát Ðộc giác
Bồ đề, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát chẳng vì dẫn phát tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát nên dẫn phát được Bát
nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát vô tác vô
chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, không có tự tánh
vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát, nên
dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nên
dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả,
không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Lại nữa,
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tất cả pháp nên dẫn phát
được Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì
dẫn phát tất cả pháp nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa? Xá Lợi Tử! Vì
tất cả pháp vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô đắc vô
xả, không có tự tánh vậy; Bồ Tát Ma ha tát chẳng vì dẫn phát tất cả pháp,
nên dẫn phát được Bát nhã Ba la mật đa. Khi ấy,
Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát dẫn phát Bát
nhã Ba la mật đa như thế hiệp cùng pháp nào? Phật nói: Xá Lợi Tử! Bồ Tát
Ma ha tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật đa như thế, chẳng hiệp cùng tất cả
pháp, vì chẳng hiệp nên được tên Bát nhã Ba la mật đa. Bạch Thế
Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng hiệp cùng tất cả pháp nào? Xá Lợi
Tử! Bát nhã Ba la mật đa như thế, chẳng hiệp cùng pháp thiện, chẳng hợp
cùng pháp phi thiện, chẳng hiệp cùng pháp hữu tội, chẳng hiệp cùng pháp vô
tội, chẳng hiệp cùng pháp hữu lậu, chẳng hiệp cùng pháp vô lậu, chẳng hiệp
cùng pháp hữu vi, chẳng hiệp cùng pháp vô vi, chẳng hiệp cùng pháp tạp
nhiễm, chẳng hiệp cùng pháp thanh tịnh, chẳng hiệp cùng pháp nhiễm ô,
chẳng hiệp cùng pháp bất nhiễm ô, chẳng hiệp cùng pháp thế gian, chẳng
hiệp cùng pháp xuất thế gian, chẳng hiệp cùng pháp sanh tử, chẳng hiệp
cùng pháp Niết Bàn. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật đa như thế,
đối tất cả pháp vô sở đắc vậy. Bấy giờ,
Thiên Ðế Thích thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế,
đâu cũng chẳng hiệp Nhất thiết trí trí? Phật nói: Kiều Thi Ca! Như vậy!
Như vậy! Bát nhã Ba la mật đa đây cũng chẳng hiệp Nhất thiết trí trí, do
vì đây đối với kia bất khả đắc vậy. Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đa đối Nhất thiết trí trí không hiệp cũng
không đắc? Kiều Thi Ca! Chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa đối Nhất thiết trí
trí như danh, như tướng, như sở tác kia có hiệp có đắc. Bạch Thế Tôn! Vì
sao Bát nhã Ba la mật đa đối Nhất thiết trí trí cũng có hiệp có đắc? Kiều
Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa đối Nhất thiết trí trí, như danh, như tướng
thảy không thọ, không lấy, không trụ, không dứt, không chấp, không bỏ.
Hiệp đắc như thế mà không hiệp đắc. Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa như
thế, đối tất cả pháp cũng như danh tướng thảy, không thọ, không lấy, không
trụ, không dứt, không chấp, không bỏ. Hiệp đắc như thế mà không hiệp đắc. Khi ấy,
Thiên Ðế Thích lại thưa Phật rằng: Thế Tôn hiếm có! Bát nhã Ba la mật đa
như thế, vì tất cả pháp vô tác vô chỉ, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại,
vô đắc vô xả, không có tự tánh vậy mà hiện tại tiền, tuy có hiệp có đắc
nhưng không hiệp không đắc. Bấy giờ,
cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát
khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật đa
hiệp cùng tất cả pháp, Bát nhã Ba la mật đa chẳng hiệp cùng tất cả pháp.
Bồ Tát Ma ha tát này đều vứt bỏ Bát nhã Ba la mật đa, đều xa lìa Bát nhã
Ba la mật đa. Phật
nói: Thiện Hiện! Lại có nhân duyên gì mà Bồ Tát Ma ha tát vứt bỏ Bát nhã
Ba la mật đa, xa lìa Bát nhã Ba la mật đa? Nghĩa là Bồ Tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật đa như
thế vô sở hữu, phi chơn thật, chẳng kiên cố, chẳng tự tại. Bồ Tát Ma ha
tát này đều vứt bỏ Bát nhã Ba la mật đa, đều xa lìa Bát nhã Ba la mật đa. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, hãy chẳng tin pháp nào nữa? Phật nói: Thiện Hiện!
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin sắc,
chẳng tin thọ tưởng hành thức. bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin sắc, chẳng tin thọ tưởng hành
thức? Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán sắc
bất khả đắc, quán thọ tưởng hành thức bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha
tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin sắc, chẳng tin thọ tưởng
hành thức. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nhãn xứ, chẳng tin nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát
Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin nhãn xứ, chẳng tin
nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ? Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa, quán nhãn xứ bất khả đắc, quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ bất khả
đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tin nhãn
xứ, chẳng tin nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin sắc xứ, chẳng tin thanh hương vị xúc pháp xứ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin sắc xứ, chẳng
tin thanh hương vị xúc pháp xứ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành
Bát nhã Ba la mật đa, quán sắc xứ bất khả đắc, quán thanh hương vị xúc
pháp xứ bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật
đa, thời chẳng tin sắc xứ, chẳng tin thanh hương vị xúc pháp xứ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nhãn giới, chẳng tin sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin nhãn giới, chẳng tin sắc giới, nhãn
thức giới và nhãn xú, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện! Vì
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán quán nhãn giới bất
khả đắc, quán sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả
đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin
nhãn giới, chẳng tin sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nhĩ giới, chẳng tin thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm
duyên sanh ra các thọ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát
nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin nhĩ giới, chẳng tin thanh giới, nhĩ thức
giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát
Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán nhĩ giới bất khả đắc, quán
thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc. Vậy nên
Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin nhĩ giới,
chẳng tin thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tỷ giới, chẳng tin hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm
duyên sanh ra các thọ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát
nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tỷ giới, chẳng tin hương giới, tỷ thức
giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma
ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán nhĩ giới bất khả đắc, quán
thanh giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc. Vậy nên
Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tỷ giới,
chẳng tin hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin thiệt giới, chẳng tin vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin thiệt giới, chẳng tin vị giới, thiệt
thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện!
Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán thiệt giới bất khả
đắc, quán vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc.
Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin
thiệt giới, chẳng tin vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin thân giới, chẳng tin xúc giới,
thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin thân giới, chẳng tin xúc giới, thân
thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện! Vì
Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán thân giới bất khả
đắc, quán xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc.
Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin xúc
giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin ý giới, chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba
la mật đa, thời chẳng tin ý giới, chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý
xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa, quán ý giới bất khả đắc, quán pháp giới cho đến
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin ý giới, chẳng tin pháp giới cho
đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin địa giới, chẳng tin thủy hỏa phong không thức giới. Bạch Thế Tôn! Vì
sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin địa
giới, chẳng tin thủy hỏa phong không thức giới? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma
ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán địa giới bất khả đắc, quán thủy
hỏa phong không thức giới bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin địa giới, chẳng tin thủy hỏa phong
không thức giới. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin vô minh, chẳng tin hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin vô minh, chẳng tin hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ
ưu não? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa,
quán vô minh bất khả đắc, quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma
ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin vô minh, chẳng tin
hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin bố thí Ba la mật đa, chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
Bát nhã ba la mật đa. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát
nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin bố thí Ba la mật đa, chẳng tin tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã ba la mật đa? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát
Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán bố thí Ba la mật đa bất khả
đắc, quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã ba la mật đa bất
khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã ba la mật đa. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nội không, chẳng tin ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh
tự tánh không. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la
mật đa, thời chẳng tin nội không, chẳng tinh ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa, quán nội không bất khả đắc, quán ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin ngoại không cho đến vô tánh tự
tánh không. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin chơn như, chẳng tin pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư
không giới, bất tư nghì giới. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin chơn như, chẳng tin pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới? Thiện
Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán chơn như bất
khả đắc, quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới bất khả đắc. Vậy nên Bồ
Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin pháp giới cho
đến bất tư nghì giới. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin bốn tĩnh lự, chẳng tin bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bạch Thế Tôn! Vì
sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin bốn tĩnh
lự, chẳng tin bốn vô lượng, bốn vô sắc định? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán bốn tĩnh lự bất khả đắc, quán bốn
vô lượng, bốn vô sắc định bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin bốn tĩnh lự, chẳng tin bốn vô lượng,
bốn vô sắc định. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tám giải thoát, chẳng tin tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa,
thời chẳng tin tám giải thoát, chẳng tin tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật
đa, quán tám giải thoát bất khả đắc, quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la
mật đa, thời chẳng tin tám thắng xứ, chẳng tin tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin bốn niệm trụ, chẳng tin bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma
ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin bốn niệm trụ, chẳng
tin bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi ? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật
đa, quán bốn niệm trụ bất khả đắc, quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi bất khả đắc. Vậy nên Bồ
Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin bốn niệm trụ,
chẳng tin bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin không giải thoát môn, chẳng tin vô tướng vô nguyện giải thoát môn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời
chẳng tin không giải thoát môn, chẳng tin vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán
không giải thoát môn bất khả đắc, quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời
chẳng tin không giải thoát môn, chẳng tin vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin năm nhãn, chẳng tin sáu thần thông. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin năm nhãn, chẳng tin sáu
thần thông? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa,
quán năm nhãn bất khả đắc, quán sáu thần thông bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát
Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin năm nhãn, chẳng tin
sáu thần thông. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin Phật mười lực, chẳng tin bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin Phật mười lực,
chẳng tin bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa, quán Phật mười lực bất khả đắc, quán bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin Phật mười lực, chẳng tin bốn vô
sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin pháp vô vong thất, chẳng tin tánh hằng trụ xả. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ
Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin pháp vô vong
thất, chẳng tin tánh hằng trụ xả? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành
Bát nhã Ba la mật đa, quán pháp vô vong thất bất khả đắc, quán tánh hằng
trụ xả bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa,
thời chẳng tin pháp vô vong thất, chẳng tin tánh hằng trụ xả. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nhất thiết trí, chẳng tin đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bạch
Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin nhất thiết trí, chẳng tin đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí? Thiện
Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán nhất thiết
trí bất khả đắc, quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí bất khả đắc. Vậy
nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin nhất
thiết trí, chẳng tin đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tất cả đà la ni môn, chẳng tin tất cả tam ma địa môn. Bạch Thế Tôn! Vì
sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tất cả
đà la ni môn, chẳng tin tất cả tam ma địa môn? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán tất cả đà la ni môn bất khả đắc,
quán tất cả tam ma địa môn bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin
Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tất cả đà la ni môn, chẳng tin tất cả
tam ma địa môn. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin quả Dự lưu, chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Bạch Thế Tôn!
Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin quả
Dự lưu, chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát
Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán quả Dự lưu bất khả đắc, quán
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi
tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin quả Dự lưu, chẳng tin quả Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin Ðộc giác Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã
Ba la mật đa, thời chẳng tin Ðộc giác Bồ đề? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán Ðộc giác Bồ đề bất khả đắc. Vậy
nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin Ðộc giác
Bồ đề. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát
khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát?
Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, quán tất cả
hạnh Bồ Tát Ma ha tát bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát
nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha
tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa,
quán chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma ha
tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng
tin tất cả pháp. Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát khi tin Bát nhã Ba
la mật đa, thời chẳng tin tất cả pháp? Thiện Hiện! Vì Bồ Tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa, quán tất cả pháp bất khả đắc. Vậy nên Bồ Tát Ma
ha tát khi tin Bát nhã Ba la mật đa, thời chẳng tin tất cả pháp. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba
la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Phật nói: Thiện Hiện! Ngươi vin ý nào mà
nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa? Thiện
Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, đối
sắc chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm
lớn làm nhỏ. Ðối sắc chẳng làm nhóm làm tan. Ðối sắc chẳng làm hữu lượng
chẳng làm vô lượng, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm hữu lượng chẳng
làm vô lượng. Ðối sắc chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, đối thọ tưởng hành
thức cũng chẳng làm rộng chẳng làm hẹp. Ðối sắc chẳng làm hữu lực chẳng
làm vô lực, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm hữu lực chẳng làm vô
lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây, nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la
mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, đối nhãn xứ chẳng làm
lớn chẳng làm nhỏ, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng làm lớn chẳng làm
nhỏ. Ðối nhãn xứ chẳng làm nhóm chẳng làm tan, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ
cũng chẳng làm nhóm chẳng làm tan. Ðối nhãn xứ chẳng làm hữu lượng chẳng
làm vô lượng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng làm hữu lượng chẳng
làm vô lượng. Ðối nhãn xứ chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, đối nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ cũng chẳng làm rộng chẳng làm hẹp. Ðối nhãn xứ chẳng làm hữu lực
chẳng làm vô lực, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng làm hữu lực chẳng
làm vô lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây, nên nói Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã
Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, đối sắc xứ chẳng làm
lớn chẳng làm nhỏ, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng làm lớn chẳng
làm nhỏ. Ðối sắc xứ chẳng làm nhóm chẳng làm tan, đối thanh hương vị xúc
pháp xứ cũng chẳng làm nhóm chẳng làm tan. Ðối sắc xứ chẳng làm hữu lượng
chẳng làm vô lượng, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng làm hữu
lượng chẳng làm vô lượng. Ðối sắc xứ chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, đối
thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng làm rộng chẳng làm hẹp. Ðối sắc xứ
chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng
chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực. Bạch Thế Tôn! Tôi vin ý đây, nên nói
Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa, tên Ðại Ba la mật đa.