Lại
nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi duyên cớ nào nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ
có giả danh đều vô tự tánh ấy. Xá Lợi Tử! Bởi danh các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ nhiếp vào khách vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Duyên cớ nào nói bởi danh các Bồ Tát Ma ha tát chỉ nhiếp vào khách?
Thiện Hiện đáp rằng: Như danh tất
cả pháp chỉ nhiếp vào khách; với mười phương ba đời không từ đâu đến,
không chỗ đến đi, cũng không chỗ trụ. Trong tất cả pháp không danh, trong
danh không tất cả pháp, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Sở dĩ vì
sao? Vì tất cả pháp cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không,
hoặc tất cả pháp hoặc danh đều vô sở hữu, trọn tất bất khả đắc. Danh các
Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách, không từ đâu đế,
không chỗ đến đi, cũng không chỗ trụ, chỉ giả danh thi thiết. Do đây nên
nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh sắc uẩn cho đến
thức uẩn chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Sắc uẩn thảy phi danh, danh
phi sắc uẩn thảy. Trong sắc uẩn thảy không danh, trong danh không sắc uẩn
thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì sắc uẩn thảy
cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc uẩn thảy,
hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng
lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ
có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn xứ cho đến
ý xứ chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn xứ thảy phi danh, danh thảy
phi nhãn xứ. Trong nhãn xứ thảy không danh, trong danh không nhãn xứ thảy,
chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn xứ thảy cùng
danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc uẩn thảy, hoặc
danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại
như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có
giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh sắc xứ cho đến
pháp xứ chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Sắc xứ thảy phi danh, danh phi
sắc xứ thảy. Trong sắc xứ thảy không danh, trong danh không sắc xứ thảy,
chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì sắc xứ thảy cùng
danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc xứ thảy, hoặc
danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại
như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có
giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn giới cho
đến ý giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn giới thảy phi danh,
danh phi nhãn giới thảy. Trong nhãn giới thảy không danh, trong danh không
nhãn giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn
giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc nhãn
giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma
ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma
ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh sắc giới cho
đến pháp giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Sắc giới thảy phi danh,
danh phi sắc giới thảy. Trong sắc giới thảy không danh, trong danh không
sắc giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì sắc
giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc
giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma
ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma
ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn giới cho
đến ý thức giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn thức giới thảy phi
danh, danh phi nhãn thức giới thảy. Trong nhãn thức giới thảy không danh,
trong danh không nhãn thức giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi
thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn thức giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy.
Trong tự tánh không, hoặc nhãn thức giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu,
trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp
vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không
tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn xúc cho
đến ý xúc chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn xúc thảy phi danh, danh
phi nhãn xúc thảy. Trong nhãn xúc thảy không danh, trong danh không nhãn
xúc thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn xúc
thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xúc
thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát
cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh sắc xứ cho đến
pháp xứ chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Sắc xứ thảy phi danh, danh phi
sắc xứ thảy. Trong sắc xứ thảy không danh, trong danh không sắc xứ thảy,
chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì sắc xứ thảy cùng
danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc xứ thảy, hoặc
danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại
như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có
giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn giới cho
đến ý giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn giới thảy phi danh,
danh phi nhãn giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ
sao? Vì nhãn giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh
không, hoặc nhãn giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc.
Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây
nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh sắc giới cho
đến pháp giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Sắc giới thảy phi danh,
danh phi sắc giới thảy. Trong sắc giới thảy không danh, trong danh không
sắc giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì sắc
giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc sắc
giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma
ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma
ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn thức giới
cho đến ý thức giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn thức giới thảy
phi danh, danh phi nhãn thức giới thảy. Trong nhãn thức giới thảy không
danh, trong danh không nhãn thức giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả
thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn thức giới thảy cùng danh đều tự tánh không
vậy. Trong tự tánh không, hoặc nhãn giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu,
trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp
vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không
tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn xúc cho
đến ý xúc chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn xúc thảy phi danh, danh
phi nhãn xúc thảy. Trong nhãn xúc thảy không danh, trong danh không nhãn
xúc thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn xúc
thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xúc
thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát
cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chỉ nhiếp
vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy phi danh,
danh phi nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ
giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy cùng
danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các
Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các
Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh địa giới cho
đến thức giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Ðịa giới thảy phi danh,
danh phi địa giới thảy. Trong địa giới thảy không danh, trong danh không
địa giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì địa
giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc địa
giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma
ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma
ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhân duyên cho
đến tăng thượng duyên chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nhân duyên thảy
phi danh, danh phi nhân duyên thảy. Trong nhân duyên thảy không danh,
trong danh không nhân duyên thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết.
Vì cớ sao? Vì nhân duyên thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự
tánh không, hoặc nhân duyên thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả
đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do
đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh vô minh cho đến
lão tử chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Vô minh thảy phi danh, danh phi
vô minh thảy. Trong vô minh thảy không danh, trong danh không vô minh
thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì vô minh thảy
cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc vô minh thảy,
hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng
lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ
có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh bố thí Ba la
mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Bố
thí Ba la mật đa thảy phi danh, danh phi bố thí Ba la mật đa thảy. Trong
bố thí Ba la mật đa thảy không danh, trong danh không bố thí Ba la mật đa
thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la
mật đa thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc bố
thí Ba la mật đa thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các
Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các
Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nội không cho
đến vô tánh tự tánh không chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Nội không
thảy phi danh, danh phi nội không thảy. Trong nội không thảy không danh,
trong danh không nội không thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết.
Vì cớ sao? Vì nội không thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự
tánh không, hoặc nội không thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả
đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do
đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh chơn như cho
đến bất tư nghì giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Chơn như thảy phi
danh, danh phi chơn như thảy. Trong chơn như thảy không danh, trong danh
không chơn như thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì
chơn như thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc
chơn như thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát
Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát
Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh đoạn giới cho
đến vô vi giới chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Ðoạn giới thảy phi danh,
danh phi đoạn giới thảy. Trong đoạn giới thảy không danh, trong danh không
đoạn giới thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì đoạn
giới thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc đoạn
giới thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma
ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma
ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh khổ tập diệt
đạo thánh đế chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? khổ thánh đế thảy phi
danh, danh phi khổ thánh đế thảy. Trong khổ thánh đế thảy không danh,
trong danh không khổ thánh đế thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi
thiết. Vì cớ sao? Vì khổ thánh đế thảy cùng danh đều tự tánh không vậy.
Trong tự tánh không, hoặc khổ thánh đế thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn
bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào
khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự
tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh bốn niệm trụ
cho đến tám thánh đạo chi chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Bốn niệm trụ
thảy phi danh, danh phi bốn niệm trụ thảy. Trong bốn niệm trụ không danh,
trong danh không bốn niệm trụ, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì
cớ sao? Vì bốn niệm trụ thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự
tánh không, hoặc bốn niệm trụ thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả
đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do
đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh bốn tĩnh lự,
bốn vô lượng, bốn vô sắc định chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Bốn tĩnh
lự thảy phi danh, danh phi bốn tĩnh lự thảy. Trong bốn tĩnh lự thảy không
danh, trong danh không bốn tĩnh lự thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi
thiết. Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự thảy cùng danh đều tự tánh không vậy.
Trong tự tánh không, hoặc bốn tĩnh lự thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn
bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào
khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự
tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh tám giải thoát,
chín định thứ lớp chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Tám giải thoát thảy
phi danh, danh phi tám giải thoát thảy. Trong tám thoát thảy không danh,
trong danh không tám giải thoát thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi
thiết. Vì cớ sao? Vì tám giải thoát thảy cùng danh đều tự tánh không vậy.
Trong tự tánh không, hoặc tám giải thoát thảy, hoặc danh đều vô sở hữu,
trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp
vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không
tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Không
giải thoát môn thảy phi danh, danh phi không giải thoát môn thảy. Trong
không giải thoát môn thảy không danh, trong danh không không giải thoát
môn thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì không giải
thoát môn thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc
không giải thoát môn thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh
các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói
các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh Tịnh quán địa
cho đến Như Lai địa chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Tịnh quán địa thảy
phi danh, danh phi Tịnh quán địa thảy. Trong Tịnh quán địa thảy không
danh, trong danh không Tịnh quán địa thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả
thi thiết. Vì cớ sao? Vì Tịnh quán địa thảy cùng danh đều tự tánh không
vậy. Trong tự tánh không, hoặc Tịnh quán địa thảy, hoặc danh đều vô sở
hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ
nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều
không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh Cực hỷ địa cho
đến Pháp vân địa chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Cực hỷ địa thảy phi
danh, danh phi Cực hỷ địa thảy. Trong Cực hỷ địa không danh, trong danh
không cực hỷ địa, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì
Cực hỷ địa thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc
Cực hỷ địa thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ
Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ
Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh năm nhãn, sáu
thần thông chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Năm nhãn thảy phi danh, danh
phi năm nhãn thảy. Trong năm nhãn thảy không danh. Trong danh không năm
nhãn thảy, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì năm nhãn
thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc năm nhãn
thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát
cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh Như Lai mười
lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao?
Như Lai mười lực thảy phi danh, danh phi Như Lai mười lực thảy. Trong Như
Lai mười lực thảy không danh, trong danh không Như Lai mười lực thảy,
chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì Như Lai mười lực
thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc Như Lai
mười lực thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát
Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát
Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh pháp vô vong
thất, tánh hằng trụ xả chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Pháp vô vong
thất thảy phi danh, danh phi pháp vô vong thất thảy. Trong pháp vô vong
thất thảy không danh, trong danh không pháp vô vong thất thảy, chẳng hợp
chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì pháp vô vong thất thảy cùng
danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc pháp vô vong thất
thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát
cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh nhất thiết trí,
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Ðạo
tướng trí thảy phi danh, danh phi đạo tướng trí thảy. Trong đaọ tướng trí
thảy không danh, trong danh không đạo tướng trí thảy, chẳng hợp chẳng tan,
chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì đạo tướng trí thảy cùng danh đều tự tánh
không vậy. Trong tự tánh không, hoặc đạo tướng trí thảy, hoặc danh đều vô
sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ
nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều
không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh đà la ni môn,
tam ma địa môn chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Ðà la ni môn thảy phi
danh, danh phi đà la ni môn thảy. Trong đà la ni môn không danh, trong
danh không đà la ni môn, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ
sao? Vì đà la ni môn thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh
không, hoặc đà la ni môn thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc.
Danh các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây
nên nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Xá Lợi Tử! Như danh Thanh Văn, Ðộc
giác, đại thừa chỉ nhiếp vào khách. Sở dĩ vì sao? Thanh Văn thảy phi danh,
danh phi Thanh Văn thảy. Trong Thanh Văn không danh, trong danh không
Thanh Văn, chẳng hợp chẳng tan, chỉ giả thi thiết. Vì cớ sao? Vì Thanh văn
thảy cùng danh đều tự tánh không vậy. Trong tự tánh không, hoặc Thanh Văn
thảy, hoặc danh đều vô sở hữu, trọn bất khả đắc. Danh các Bồ Tát Ma ha tát
cũng lại như thế, chỉ nhiếp vào khách. Do đây nên nói các Bồ Tát Ma ha tát
chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều
vô tự tánh ấy.
Xá Lợi Tử! Ngã rốt ráo vô sở hữu
bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh; cho đến kiến giả cũng rốt ráo vô sở hữu
bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh?
Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo vô sở hữu
bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh? Thọ tưởng hành thức cũng rốt ráo vô sở
hữu bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh? Như vậy cho đến Thanh Văn thừa rốt
ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh? Ðộc giác thừa Ðại Thừa cũng
rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao sẽ có sanh? Xá Lợi Tử! Do nhân
duyên đây, tôi tác thuyết này: Như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có
giả danh đều vô tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói các pháp cũng vậy, rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh
đều vô tự tánh ấy. Xá Lợi Tử! Các pháp đều không tự tánh hòa hợp. Vì cớ
sao? Vì hòa hợp có pháp, tự tánh không vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào đều không tự tánh hòa hợp? Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!
Sắc uẩn đều không tự tánh hòa hợp, thọ tưởng hành thức uẩn cũng đều không
tự tánh hòa hợp. Ðộc giác thừa, Ðại Thừa cũng đều không tự tánh hòa hợp.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi tác thuyết này: Các pháp cũng vậy, rốt
ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp phi
thường cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp phi thường tánh vô tận
vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào phi thường cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn phi thường cũng không tan mất, thọ tưởng hành thức uẩn phi thường cũng
không tan mất. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa phi thường cũng không tan
mất. Ðộc giác thừa, Ðại Thừa phi thường cũng không tan mất. Vì cớ sao? Xá
Lợi Tử! Nếu pháp phi thường thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh thời vô tận
vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp phi
lạc cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp phi lạc tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào phi lạc cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Sắc uẩn phi
lạc cũng không tan mất, thọ tưởng hành thức uẩn phi lạc cũng không tan
mất. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa phi lạc cũng không tan mất. Ðộc giác
thừa, Ðại Thừa phi lạc cũng không tan mất. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Nếu pháp
phi lạc thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh thời vô tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp phi
ngã cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp phi ngã, tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào phi ngã cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn phi ngã cũng không tan mất, thọ tưởng hành thức uẩn phi ngã cũng không
tan mất. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa phi ngã cũng không tan mất. Ðộc
giác thừa, Ðại Thừa phi ngã cũng không tan mất. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Nếu
pháp phi ngã thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh thời vô tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp
vắng lặng cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp vắng lặng tánh vô tận
vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào vắng lặng cũng không tan mất? Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi
Tử! Sắc uẩn sắc vắng lặng cũng không tan mất, thọ tưởng hành thức vắng
lặng cũng không tan mất. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa vắng lặng cũng
không tan mất. Ðộc giác thừa, Ðại Thừa vắng lặng cũng không tan mất. Vì cớ
sao? Xá Lợi Tử! Nếu pháp vắng lặng thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh thời vô
tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp xa
lìa cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp xa lìa tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào xa lìa cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn xa lìa cũng không tan mất, thọ tưởng hành thức uẩn xa lìa cũng không
tan mất. Như vậy cho đến Thanh Văn thừa xa lìa cũng không tan mất. Vì cớ
sao? Xá Lợi Tử! Nếu pháp xa lìa thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh thời vô
tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp
không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp là
không, vô tướng, vô nguyện tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn là không, vô tướng, vô nguyện cũng không tan mất; thọ tưởng hành thức
uẩn là không, vô tướng vô nguyện cũng không tan mất. Như vậy cho đến Thanh
Văn thừa là không, vô tướng, vô nguyện thời vô tự tánh, nếu vô tự tánh
thời vô tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp là
thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không
tan mất. Vì cớ sao? Nếu pháp là thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất
thế, thanh tịnh, vô vi tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào là thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh tịnh,
vô vi cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng
không tan mất; thọ tưởng hành thức uẩn là thiện, vô tội, vô lậu, lìa
nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan mất. Như vậy cho đến
Thanh Văn thừa là thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh tịnh,
vô vi cũng không tan mất. Ðộc giác thừa, Ðại Thừa là thiện, vô tội, vô
lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh tịnh, vô vi cũng không tan mất. Vì cớ sao?
Xá Lợi Tử! Nếu pháp là thiện, vô tội, vô lậu, lìa nhiễm, xuất thế, thanh
tịnh, vô vi thời vô tự tánh; nếu vô tự tánh thời vô tận vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp phi
thường phi hoại.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Pháp nào là phi thường phi hoại?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
uẩn phi thường phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh là vậy. Thọ tưởng hành
thức uẩn cũng phi thường phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh là vậy. Như vậy
cho đến Thanh Văn thừa phi thường phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh là vậy.
Ðộc giác thừa, Ðại Thừa cũng phi thường phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh
là vậy.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tóm lại mà nói:
Hoặc pháp thiện pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp
hữu tội pháp vô tội, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc pháp hữu nhiễm
pháp vô nhiễm, hoặc pháp thế gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp tạp nhiễm
pháp thanh tịnh, hoặc pháp sanh tử pháp Niết Bàn, hoặc pháp hữu vi pháp
vô vi, tất cả như thế đều phi thường phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh là
vậy. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi tác thuyết này: Các pháp cũng vậy,
rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói những gì sắc cho đến thức rốt ráo chẳng sanh. Như vậy cho
đến những gì Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa rốt ráo chẳng sanh ấy?
Xá Lợi Tử! Tất cả sắc cho đến thức
bản tánh chẳng sanh. Vì cớ sao? Sắc cho đến thức bản tánh đều không, vô
tác vô khởi. Sở dĩ vì sao? Không pháp tác giả bất khả đắc vậy. Như vậy cho
đến tất cả Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa bản tánh chẳng sanh. Vì cớ sao?
Tất cả Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa bản tánh đều không, vô tác vô khởi.
Sở dĩ vì sao? Không pháp tác giả bất khả đắc vậy. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên
đây, tôi tác thuyết này: Những gì sắc cho đến thức rốt ráo chẳng sanh. Như
vậy cho đến những gì Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa rốt ráo chẳng sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh Văn, Ðộc giác,
Ðại Thừa ấy.
Xá Lợi Tử! Sắc cho đến thức bản
tánh không vậy. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc
sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Bởi duyên cớ đây, nếu rốt ráo chẳng
sanh thời chẳng gọi sắc cho đến thức. Vì cớ sao? Vì không chẳng phải sắc
thọ tưởng hành thức vậy.
Như vậy cho đến Thanh Văn, Ðộc
giác, Ðại Thừa bản tánh không vậy. Nếu pháp bản tánh không thời chẳng thể
thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Bởi duyên cớ đây, nếu
rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa. Vì cớ
sao? Vì không chẳng phải Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vậy.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi
tác thuyết này: Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh Văn, Ðộc giác,
Ðại Thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói tôi đâu năng đem rốt ráo chẳng sanh Bát nhã Ba la mật đa
dạy răn dạy trao rốt ráo chẳng sanh Bồ Tát Ma ha tát ấy. Xá Lợi Tử! Rốt
ráo chẳng sanh tức là bát nhã Ba la mật đa. Bát nhã Ba la mật đa tức là
rốt ráo chẳng sanh. Vì cớ sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng Bát nhã Ba la
mật đa không hai, không hai phần vậy.
Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức
là Bồ Tát Ma ha tát. Bồ Tát Ma ha tát tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì cớ
sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng Bồ Tát Ma ha tát cũng không hai, không hai
phần vậy.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi
tác thuyết này: Tôi đâu năng đem rốt ráo chẳng sanh Bát nhã Ba la mật đa
dạy răn dạy trao rốt ráo chẳng sanh Bồ Tát Ma ha tát.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không Bồ Tát Ma ha tát năng
hành Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ấy. Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chẳng thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có
Bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Bồ Tát Ma
ha tát. Vì cớ sao? Vì hoặc rốt ráo chẳng sanh, hoặc Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm, hoặc Bồ Tát Ma ha tát đều không hai, không hai phần vậy.
Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi
hành bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có
sắc cho đến thức. Vì cớ sao? Vì hoặc rốt ráo chẳng sanh, hoặc sắc cho đến
thức đều không hai, không hai phần vậy. Như vậy cho đến các Bồ Tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thấy lìa rốt ráo chẳng
sanh có Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa đều không hai, không hai phần vậy.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi
tác thuyết này: Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không Bồ Tát Ma ha tát năng
hành Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
duyên cớ nào nói Nếu Bồ Tát Ma ha tát nghe thuyết như thế tâm chẳng chìm
đắm, cũng chẳng ưu hối, nơi tâm chẳng kinh, chẳng e chẳng sợ, phải biết Bồ
Tát Ma ha tát này năng hành Bát nhã Ba la mật đa ấy.
Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chẳng thấy các pháp có giác có dụng;
quán tất cả pháp như huyễn, như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng,
như ánh nắng, như việc biến hóa, như thành tầm hương, tuy hiện tựa có mà
không nơi thật. Nghe thuyết các pháp bản tánh đều không, vui mừng nhảy
nhót, thâm tâm tin vui.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây, tôi
tác thuyết này: Nếu Bồ Tát Ma ha tát nghe thuyết như thế, tâm chẳng chìm
đắm, cũng chẳng ưu hối, nơi tâm chẳng kinh chẳng e chẳng sợ, phải biết Bồ
Tát Ma ha tát này năng hành Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát Ma ha tát hành bát nhã Ba la mật
đa thẳm sâu quán sát các pháp, bấy giờ Bồ Tát Ma ha tát đối sắc cho đến
thức đều vô sở đắc, không thọ không lấy, không trụ không chấp, cũng chẳng
thi thiết là sắc uẩn cho đến thức uẩn, đối nhãn xứ cho đến ý xứ, đối sắc
xứ cho đến pháp xứ, đối nhãn giới cho đến ý giới, đối sắc giới cho đến
pháp giới, đối nhãn thức giới cho đến ý thức giới, đối nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, đối địa giới cho
đến thức giới, đối nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, đối vô minh cho
đến lão tử cũng lại như thế.
Bấy giờ, Bồ Tát Ma ha tát đối bố
thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa đều vô sở đắc, không thọ
không lấy, không trụ không chấp, cũng chẳng thi thiết là bố thí Ba la mật
đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Ðối nội không cho đến vô tánh tự tánh
không, đối khổ thánh đế cho đến đạo thánh đế, đối bốn niệm trụ cho đến tám
thánh đạo chi; đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định;
đối tám giải thoát, chín định thứ lớp;
đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Ðối Tịnh quán địa cho đến Như Lai
địa, đối Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ; đối năm nhãn, sáu thần thông;
đối Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; đối pháp vô vong
thất, tánh hằng trụ xả; đối tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn; đối các
Bồ Tát Ma ha tát hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề; đối chơn như
cho đến bất tư nghì giới, đối đoạn giới cho đến vô vi giới; đối nhất thiết
trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng lại như thế.
Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma
ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chẳng thấy sắc uẩn cho
đến thức uẩn. Như vậy cho đến chẳng thấy nhất thiết trí, đaọ tướng trí,
nhất thiết tướng trí vậy. Sở dĩ vì sao? Vì tánh sắc uẩn không, vô sanh vô
diệt, tánh thọ tưởng hành thức không vô sanh vô diệt. Như vậy cho đến vì
tánh nhất thiết trí không vô sanh vô diệt; tánh đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí không vô sanh vô diệt.
Bạch Thế Tôn! Sắc vô sanh vô diệt
tức phi sắc, thọ tưởng hành thức vô sanh vô diệt tức phi thọ tưởng hành
thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí vô sanh diệt tức phi nhất thiết trí;
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh vô diệt không hai không khia
phần. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì pháp vô sanh vô diệt, phi nhất phi nhị
đa phi dị. Vậy nên sắc co đến thức vô sanh vô diệt tức phi sắc cho đến
thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
vô sanh vô diệt tức phi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng hai tức phi
sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai tức phi thọ tưởng hành thức. Như vậy
cho đến nhất thiết trí chẳng hai tức phi nhất thiết trí; đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí chẳng hai tức phi đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc vào pháp số vô
nhị, thọ tưởng hành thức vào pháp số vô nhị, vậy nên gọi sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến nhất thiết trí vào pháp số vô nhị; đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí vào pháp số vô nhị; vậy nên gọi nhất thiết trí, đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng: Nhân giả đã nói, nếu khi Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu quán sát các pháp ấy. Sao gọi Bồ Tát Ma ha tát? Sao gọi
Bát nhã Ba la mật đa? Làm sao quán sát các pháp?
Thiện Hiện đáp rằng: Tôn giả đã hỏi
sao gọi Bồ Tát Ma ha tát ấy. Xá Lợi Tử! Vì muốn lợi vui các hữu tình nên
siêng cầu Vô thượng Chánh đẳng bồ đề, nên gọi Bồ Tát. Ðủ giác như thật, dù
biết rõ khắp tướng tất cả pháp mà không sở chấp, nên lại gọi Ma ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát đủ giác như thật dù biết rõ khắp tướng tất
cả pháp mà không sở chấp?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Các
Bồ Tát Ma ha tát dù như thật biết tất cả tướng sắc mà không sở chấp, dù
như thật biết tất cả tướng thọ tưởng hành thức mà không sở chấp. Như vậy
cho đến dù như thật biết tất cả tướng nhất thiết trí mà không sở chấp, dù
như thật biết tất cả tướng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà không sở
chấp.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Những gì gọi là tướng tất cả pháp? Thiện Hiện đáp rằng: Nếu do các
hành tướng trạng như vầy biểu hiện các pháp: Là sắc là thanh là hương là
vị là xúc là pháp, là nội là ngoại, là hữu lậu là vô lậu, là hữu vi là vô
vi, thảy đấy gọi là tướng tất cả pháp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
sao gọi Bát nhã Ba la mật đa ấy. Xá Lợi Tử! Có thắng diệu huệ, đối tất cả
pháp năng giác như thật, có chỗ xa lìa nên gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Ðây đối pháp nào mà năng lìa được? Thiện Hiện đáp rằng: Ðây đối các
pháp uẩn các xứ các giới duyên khởi thảy đều năng xa lìa, nên gọi Bát nhã
Ba la mật đa.
Lại Xá Lợi Tử! Có thắng diệu huệ
đối tất cả pháp năng giác như thật có chỗ xa đến, nên gọi Bát nhã Ba la
mật đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng: Ðây đối pháp nào mà năng xa đến? Thiện Hiện đáp rằng: Ðây đối bố thí
Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa đều năng xa đến. Như vậy cho đến
đây đối nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đều năng xa
đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây nói là Bát
nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi
sao là quán sát các pháp ấy. Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, quán sát sắc cho đến thức chẳng thường chẳng vô
thường chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất
tịnh, chẳng không chẳng bất không, chẳng hữu tướng chẳng vô tướng, chẳng
hữu nguyện chẳng vô nguyện, chẳng vắng lặng chẳng phải chẳng vắng lặng,
chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa.
Xá Lợi Tử! Ðây thảy gọi là quán sát
các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa
thẳm sâu nên làm quán sát các pháp như thế.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng: Thưa nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc cho đến thức
vô sanh vô diệt tức phi sắc cho đến thức? Như vậy cho đến nhất thiết trí,
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh vô diệt tức phi nhất thiết
trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
cho đến thức, tánh sắc cho đến thức không. Trong tánh không đây không sanh
không diệt, cũng không sắc cho đến thức. Do đây nên nói sắc cho đến thức
vô sanh vô diệt tức phi sắc cho đến thức.
Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí; tánh nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí không. Trong tánh không đây không sanh không diệt, cũng
không nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Do đây nên nói
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sanh vô diệt tức
phi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng: Thưa Nhân Giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc cho đến thức
chẳng hai tức phi sắc cho đến thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng hai tức phi nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử!
Hoặc sắc hoặc chẳng hai, cho đến hoặc thức hoặc chẳng hai. Như vậy cho đến
hoặc nhất thiết trí hoặc chẳng hai; hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí hoặc chẳng hai. Như vậy tất cả chẳng hợp chẳng tan, vô sắc vô kiến, vô
đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói sắc cho đến thức chẳng
hai tức phi sắc cho đến thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí chẳng hai tức phi nhất thiết trí, đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng: Thưa Nhân Giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc cho đến thức
vào pháp số vô nhị, vậy nên gọi sắc cho đến thức. Như vậy cho đến nhất
thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vào pháp số vô nhị, vậy nên
gọi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc
cho đến thức chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác sắc
cho đến thức. Sắc cho đến thức tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức
là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Nhất thiết trí, đạo tướng trí tức là vô sanh vô diệt, vô
sanh vô diệt tức là nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Do đây nên nói sắc cho đến thức vào pháp số vô nhị, vậy nên gọi sắc cho
đến thức. Như vậy cho đến nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí vào pháp số vô nhị, vậy nên gọi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí.