.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
-
KINH TRẠM XE
- (Rathavivutasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương
Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo
người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
– Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa
phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán
thán như sau: "Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo;
tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và
giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng về
không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về
tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giới hạnh và giảng
về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu Thiền định
và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu
trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu
giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình
thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến
cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ,
vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ".
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna
Mantaniputta-là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng
một địa phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và nói về
thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm
hạnh hoan hỷ.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi
cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc
thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta!
Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm
một trước mặt bậc Đạo Sư, và được bậc Đạo Sư chấp nhận; có thể
chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một chỗ nào, trong một thời
gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả.
Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá)
lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và
đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông
Anathapindika. Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: "Thế Tôn đã đến
Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika". Rồi Tôn
giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi
Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến Savatthi, Jetavana, vườn ông
Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi
xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi
một bên, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi được
Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn
giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: "Hiền giả
Sariputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này
được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ,
hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ
trưa". Rồi Tôn giả Sariputta vội vã đem theo tọ ụ, đi theo sau lưng Tôn
giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi
Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới
một gốc cây. Tôn giả Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ
trưa dưới một gốc cây. Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền
định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta, sau
khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời chào đón, hỏi
thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta:
– Hiền giả, có phải chúng ta sống
phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
– Thật như vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến
thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích kiến thanh tịnh...
(như trên)."...
– Hiền giả, có phải sống phạm
hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
Và Hiền giả trả lời:
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy với mục đích
gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
– Hiền giả, với mục đích vô
thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của
Thế Tôn.
– Hiền giả, có phải giới thanh
tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải kiến thanh
tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đoạn nghi
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo phi đạo
tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo tri kiến
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tri kiến
thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải cái gì
ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải giới thanh
tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh
là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải kiến thanh tịnh... (như
trên)...
– Có phải tri kiến thanh tịnh là
vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải cái gì ngoài các pháp
này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói
này cần phải được hiểu như thế nào?
– Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên
bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố
vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn.
Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế
Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn
nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến
thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh...
Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước
Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng
đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn
tuyên bo ái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ
phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các
pháp ấy. Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số
kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩ ủa lời nói. Hiền giả, như
vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi
lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và
Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi
Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được
trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ
trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai...
đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm
xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm
xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên
trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ
bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến
được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ
trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:
"– Tâu Đại vương có phải với
trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?"
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala
phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala
phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn:
"– Ở đây, trong khi ta ở
Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được
sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi
Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến
được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ
hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm
xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến
được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe
thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe
thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo
lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại
cửa nội thành".
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala
trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.
Cũng vậy, này Hiền giả, giới
thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ
có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo
phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri
kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho
được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt
cho được)vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh
dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.
Khi được nói vậy, Tôn giả
Sariputta nói với Tôn giả Punna Mantaniputta:
– Tôn giả tên là gì? Và các vị
đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tên tôi là Punna và
các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.
– Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật
kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng
điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc
Đạo Sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh
phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị
đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna
Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna Mantaniputta
trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được
thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc
cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho
chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!
Khi được nói vậy, Tôn giả Punna
Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta:
– Tôn giả tên là gì, và các vị
đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tôi tên là Upatissa,
và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta.
– Tôi đang luận bàn với bậc đệ
tử được xem là ngang hàng với bậc Đạo Sư mà không được biết là
Tôn giả Sariputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, thì
chúng tôi đã không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật
kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng
điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc
Đạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay
cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng
phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu
các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một cuộn
vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật hạnh
phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh
phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng,
được thân cận Tôn giả Sariputta!
Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng
nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục