Mục Lục Toàn
Bộ
Thay lời tựa.
Lời nói đầu.
Nghi thức sám hối trước khi tụng kinh.
Nghi thức trì tụng.
TẬP 1
01. Phẩm
Thế-Chủ Diệu-Nghiêm thứ nhất. (Hán bộ từ quyển 1 đến hết quyển 5)
02. Phẩm
Như-Lai hiện-tướng thứ hai. (Hán bộ trọn quyển 6)
03. Phẩm
Phổ-Hiền Tam-muội thứ ba. (Hán bộ phần đầu quyển 7)
04. Phẩm
Thế-giới thành-tựu thứ tư. (Hán bộ phần sau quyển 7)
05. Phẩm
Hoa-tạng thế-giới thứ năm. (Hán bộ từ quyển 8 đến hết quyển 10)
TẬP 2
06. Phẩm
Tỳ-Lô-Giá-Na thứ sáu. (Hán bộ trọn quyển 11)
07. Phẩm
Như-Lai danh-hiệu thứ bẩy. (Hán bộ phần đầu quyển 12)
08. Phẩm
Tứ-Thánh-Ðế thứ tám. (Hán bộ phần sau quyển 12)
09. Phẩm
Quang-minh giác thứ chín. (Hán bộ phần đầu quyển 13)
10. Phẩm
Bồ-Tát Vấn Minh thứ mười. (Hán bộ phần sau quyển 13)
11. Phẩm Tịnh
Hạnh thứ mười một. (Hán bộ phần đầu quyển 14)
12. Phẩm Hiền
Thủ thứ mười hai. (Hán bộ phần sau quyển 14 đến hết quyển 15)
13. Phẩm
Thăng Tu-Di sơn-đảnh thứ mười ba. (Hán bộ ở đầu quyển 16)
14. Phẩm
Tu-Di sơn-đảnh kệ tán thứ mười bốn. (Hán bộ phần đầu quyển 16)
15. Phẩm
Thập-trụ thứ mười lăm. (Hán bộ phần sau quyển 16)
16. Phẩm
Phạm-hạnh thứ mười sáu. (Hán bộ phần đầu quyển 17)
17. Phẩm Sơ
phát-tâm công-đức thứ mười bảy. (Hán bộ phần sau quyển 17)
18. Phẩm Minh
pháp thứ mười tám. (Hán bộ trọn quyển 18)
19. Phẩm
Thăng Dạ-Ma Thiên-cung thứ mười chín. (Hán bộ phần đầu quyển 19)
20. Phẩm
Dạ-Ma Cung kệ tán thứ hai mươi. (Hán bộ phần giữa quyển 19)
21. Phẩm
Thập-Hạnh thứ hai mươi mốt. (Hán bộ phần sau quyển 19 đến hết quyển
20)
TẬP 3
22. Phẩm Vô
tận tạng. (Hán bộ trọn quyển 21)
23. Phẩm
Thăng Ðâu-Suất Thiên-cung. (Hán bộ trọn quyển 22)
24. Phẩm
Ðâu-Suất kệ tán. (Hán bộ phần đầu quyển 23)
25. Phẩm Thập
hồi-hướng. (Hán bộ phần đầu quyển 23 đến hết quyển 30)
TẬP 4
25. Phẩm Thập
hồi-hướng. (Hán bộ phần sau quyển 31 đến hết quyển 33)
26. Phẩm
Thập-địa. (Hán bộ từ quyển 34 đến quyển 39)
TẬP 5
27. Phẩm
Thập-định. (Hán bộ quyển 40)
28. Phẩm
Thập-thông. (Hán bộ phần đầu quyển 44)
29. Phẩm
Thập-nhẫn. (Hán bộ phần sau quyển 44)
30. Phẩm
A-tăng-Kỳ. (Hán bộ phần đầu quyển 45)
31. Phẩm Thọ
Lượng. (Hán bộ phần giữa quyển 45)
32. Phẩm chư
Bồ-Tát Trụ Xứ. (Hán bộ phần sau quyển 45)
33. Phẩm Phật
bất-tư-nghì. (Hán bộ quyển 46 đến quyển 47)
34. Phẩm
Như-Lai thập thân tướng hải. (Hán bộ quyển phần đầu quyển 48)
35. Phẩm
Như-Lai tùy hảo quang-minh công-đức. (Hán bộ phần sau quyển 48)
36. Phẩm
Phổ-Hiền hạnh. (Hán bộ trọn quyển 49)
TẬP 6
37. Phẩm
Như-Lai xuất hiện. (Hán bộ từ đầu quyển 50 đến hết quyển 52)
38. Phẩm Ly
Thế Gian. (Hán bộ từ đầu quyển 53 đến hết quyển 59)
TẬP 7
39. Phẩm Nhập
Pháp-giới (Phần trên). (Hán bộ từ quyển 60 đến hết quyển 70)
TẬP 8
39. Phẩm Nhập
Pháp-giới (phần dưới). (Hán bộ từ quyển 60 đến hết quyển 80)
(Còn thiếu
từ trang 189 đến trang 548)
40. Phẩm Nhập
bất-tư-nghì giải-thoát cảnh-giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện. (Hán bộ trọn
quyển. 81)
Thay Lời Tựa
^
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội
dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân,
tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt
đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư
tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn
pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng
trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu.
Tâm chơn thì pháp giới tánh với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm
thanh tịnh thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt thông pháp giới vô ngại,
thể nhập bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ
cho chúng-sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng
tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn
hóa, như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất cả vạn pháp trong pháp
giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có
thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn
pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Ðó
là bản tánh vô ngại của Tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình
và vô tình; lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng tánh bất tư
nghì vô ngại giải thoát làm thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa
Nghiêm.
Bởi thế, nếu Kinh Ðại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về
lý chơn không vô ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp
đại-thừa về lý hữu hóa duyên sanh của vạn pháp.
Ngoài ra Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong phú sinh
động muôn đời, trao gởi cho hành giả có tâm hướng thượng đại-thừa, tu là
cần phải học phải hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo
với năm mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng tu học
đạo bồ-đề điều tiên quyết cần phải khắc phục nội tâm cống cao ngã mạn, dục
vọng loạn tưởng; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa
Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật tánh
chơn tâm của mình.
Nên nghiên tầm ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ trở về bản
tánh chơn tâm thanh tịnh sáng suốt thường nhiên ; là biết được tự thể của
các pháp hiện hành trong thế giới vũ trụ ; là thấu suốt cội nguồn sanh
sanh hóa hóa của hữu tình và vô tình chúng-sanh; là quán chiếu bí yếu mật
nghĩa viên dung tương quan của tâm và cảnh, để rồi từ đó có thể thống
triệt lý viên dung vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sanh hóa,
tương duyên tương nhơn quả, tương sanh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn
triệt ảnh hiện trên đài gương chơn như thể tánh. Thế nên, thọ trì Kinh Hoa
Nghiêm là bước vào cửa phương tiện cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy
hữu ly vọng hoàn chơn.
Bởi công đức đặc thù nhiệm mầu vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm như thê, nên
người có thiện duyên thấy Kinh Hoa Nghiêm mà biết phát tâm thành kính tin
sâu, thì như chính mình được thấy Phật. Người thành tâm đọc Kinh Hoa
Nghiêm như trực tiếp nghe Phật khai thị. Người chí thành phụng thờ Kinh
Hoa Nghiêm như chính mình trực tiếp phụng thờ Phật. Người phát tâm bồ-đề
ấn tống Kinh Hoa Nghiêm có công-đức như được cúng dường Phật, như được
thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân, như được dự vào sự nghiệp hoằng pháp
lợi sanh của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu vi diệu như thế,
nên những ai thành kính phát tâm ấn tống thọ trì kinh này, thì phải biết
rằng người đó nhiều đời gieo thiện duyên bồ-đề, đã từng làm sứ giả của
Phật và đã từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Phật-Học-Viện Quốc-Tế nhận thấy thời mạt pháp này, pháp nhược ma cường, để
cho chánh pháp đại thừa được trường tồn phổ cập nhân gian, làm rường cột
cho niềm tin chánh đạo, ngõ hầu thức tỉnh quần mê sớm hồi đầu về bến giác.
Nên nguyện cùng chư Phật tử bốn phương, đồng chí hướng đại thừa vô lượng
đạo, đồng tâm thành kính in lại bộ kinh đại thừa quý giá này, để kết thiện
duyên vô thượng bồ-đề, cùng các bạn hiền đang hướng nguyện tiến bước theo
gót chân Phật trở về giác tánh chân như.
Ngưỡng nguyện chư tôn thiền đức và các bậc thiện hữu tri thức Phật tử gần
xa phát tâm hoan hỷ hộ trì.
Thành tâm kính lậy Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Phật Ðản 2532 - Mậu Thìn 1988
THÍCH ÐỨC NIỆM
Lời Nói Ðầu
Của Dịch Giả
^
Khảo cứu theo truyền sử trong đại-tạng, khi thành đạo Vô-thượng
Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng Bồ-Ðề, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật với
pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát chứng giải-thoát-môn, tuyên
thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long-Thọ Bồ-Tát, Kinh
Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn-văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn có
một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm.
Ðến nhà Ðường, Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà từ nước Vu-Ðiền mang bổn Kinh chữ
Phạn này sang Trung-Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba
mươi chín phẩm, từ phẩm 'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến phẩm 'Nhập-Pháp-Giới',
cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn-văn, còn lại chín phẩm sáu mươi
bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được dịch ra Hán-văn.
Kế
đó, Pháp-Sư Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện ra
Hán-văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa-Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển
ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành
thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ lấy
phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển
của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng Phật Hoa-Nghiêm', ta quen gọi
là Kinh Hoa-Nghiêm.
Nội dung của Kinh này đứng trên cảnh-giới bất-tư-nghì giải-thoát, chư
pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương công-đức cùng
cảnh-giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất-tư-nghì của
chư đại Bồ-Tát.
Kinh Hoa-Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất-tư-nghì
giải-thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn
thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả
Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô-ngại, nên cũng gọi là
vô-ngại pháp-giới.
Từng bực cứu cánh của vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, chỗ
chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư pháp-thân Bồ-Tát thời được từng
phần.
Muốn hiểu thấu phần nào cảnh-giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ
bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :
1. Lý vô-ngại pháp-giới
2. Sự vô-ngại pháp-giới
3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới
'Lý' tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên
cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong
vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại,
nên gọi là 'Lý vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này chính
là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất cả pháp 'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy
pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã
viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên gọi là 'Sự vô-ngại
pháp-giới'. Người chứng được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát
thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).
Lý
là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng của 'Lý-tánh'. Vậy
thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh.
Chính Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự
vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý-sự pháp-giới này thời là bậc
pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và
sai-biệt-trí).
Tất cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân
chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự,
và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự
nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự
vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân
Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng
Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Sự-sự vô-ngại pháp-giới dung thông tự-tại, nội dung của toàn bộ Kinh
Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược dẫn
một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học-giả tiện tham cứu :
Sự-sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể không-gian và
thời-gian.
Về
không-gian dung thông vô-ngại văn Kinh nói :
Bao nhiêu vi-trần trong
thế-giới
Trong mỗi vi-trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh-giới tự-tại của Như-Lai
..........
Vô-lượng vô-số núi Tu-Di
Ðều đem để vào một sợi lông,
Một thế-giới để vào tất cả
Tất cả thế-giới để vào một,
Thể tướng thế-giới vẫn như cũ
Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp.
..........
Trong một chân lông đều thấy rõ
Vô-số vô-lượng chư Như-Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả Phật
..........
..........
Về
thời-gian dung-thông vô-ngại văn Kinh nói :
Kiếp quá-khứ để hiện, vị-lai,
Kiếp vị-lai để quá, hiện-tại,
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài vắn : hạnh giải-thoát.
..........
Tôi hay thâm nhập đời vị-lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập.
..........
Về
không-gian và thời-gian dung thông vô-ngại nhau, văn Kinh nói :
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc-độ số vô-lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn-Sư-Tử
Cũng thường vào trong cảnh-giới Phật
Như-huyễn, giải-thoát và oai-lực.
..........
..........
Tất cả sự không ngoài thời-gian và không-gian. Thời-gian dung thông
thời-gian, không-gian dung thông không-gian, thời-gian dung thông
không-gian, không-gian dung thông thời-gian. Một không-gian dung thông tất
cả không-gian, một thời-gian dung thông tất cả thời-gian, tất cả dung
thông với một, thời-gian với không-gian, một cùng tất cả cũng đều dung
thông như vậy. Ðây chính là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, mà cũng chính là
cảnh-giới giải-thoát bất-tư-nghì mà Kinh Hoa-Nghiêm này lấy đó làm
nội-dung như đã nói ở trên.
............
Lược giải một vài điều, để giúp phần nào cho học-giả khi cần thấy phải
thấu triệt nội-dung của Kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ
Hoa-Nghiêm đại-sớ của Tổ Thanh-Lương và Thập-huyền-môn của Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công-đức phiên dịch Việt-văn này hồi hướng cho tất cả
chúng-sanh đồng về Tịnh-Ðộ, đồng sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Ðức
Thủ Ðức ngày Phật nhập
Niết-Bàn ,
Rằm tháng Hai 2508
Dịch-Giả
Hân-Tịnh Tỳ-Kheo
Thích Trí Tịnh
Nghi Thức Sám Hối Trước
Khi Tụng Kinh
^
(Dùng ba nghiệp thân,
khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô-lượng, nên trước khi
tụng kinh cần phải sám hối, sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập phương tận hư
không giới nhứt thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quỳ tay cầm hương
cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô-biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô-biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(Cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng) :
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô-tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường-trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Quy-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thường-tịch quang tịnh-độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thật báo trang-nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y-chánh
Khắp pháp-giới Tôn-Pháp (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm : Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
(Ðứng chắp tay nguyện) :
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng-sanh 'trong pháp-giới, đều nguyện
dứt trừ ba chướng (1) 'nên qui mạng (2) sám-hối (3).
(1 lạy, quỳ chắp tay sám hối) :
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử _____ và chúng-sanh
trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đăy nên
điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành,
rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác,
nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường
ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn,
phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy
hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu
căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết,
vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6),
trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng : 'Ðức
Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang,
cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại
theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong
cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn,
phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ (7) sám-hối,
làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu
căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo
hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ
hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc
che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn
cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn
thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với
chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật
thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng
mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh
vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các
Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra
trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật
đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát-nguyện
rồi quy-mạng đảnh-lễ : Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi,
A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo. (1 lạy)
(lạy xong tiếp Nghi-thức
tụng kinh ...)
Thích Nghĩa Sám Pháp:
(1) : Phiền-não, nghiệp
nhơn, quả-báo, ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi :
'ba món chướng'.
(2) : Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là
nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) : Nói đủ là Sám-ma hối-quá, 'Sám-ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá'
tức là ăn-năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) : Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sáu căn và ba nghiệp thân - khẩu - ý.
(5) : Giết cha, giết mẹ, giết thánh-nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá
hòa-hiệp Tăng, gọi là năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián
nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào
ngừng ngớt.
(6) : A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ-quỉ, Ðịa-ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều,
do nghiệp dữ cảm ra.
(7) : Bày tỏ tội-lỗi ra trước Chúng Nhơn không chút giấu che thời gọi là
phát lồ, trái với phú-tàng (che-giấu), Có phát-lồ thời tội mới tiêu, như
bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
Nghi Thức Trì Tụng
^
Bài Tán Lư Hương
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP
GIỚI
Án Lam (7 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH KHẨU
NGHIỆP
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH BA
NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ ham (3
lần)
CHƠN NGÔN PHỔ CÚNG
DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lậy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
--- o0o ---
Mục
Lục
Phẩm
01 | 02 | 03 | 04 | 05