.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông
Tập I
---o0o---
MỤC
LỤC
Lời nói đầu
Chương thứ 1
Chương thứ 2
Chương thứ 3
Sắc ấm
Thọ ấm
Tưởng ấm
Hành ấm
Thức ấm
Nhãn nhập
Nhĩ nhập
Tỷ nhập
Thiệt nhập
Thân nhập
Ý nhập
Sắc và kiến
Thanh và thính
Hương và khứu
Vị và thường
Xúc và thân
Pháp và ý
Chương thứ 3 (tiếp)
Nhãn thức giới
Nhĩ thức giới
Tỷ thức giới
Thiệt thức giới
Thân thức giới
Ý thức giới
Địa đại hoàn
nguyên
Thủy đại hoàn
nguyên
Hỏa đại hoàn
nguyên
Phong đại hoàn
nguyên
Không đại hoàn
nguyên
Kiến đại hoàn
nguyên
Thức đại hoàn
nguyên
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm là một bộ kinh thuộc
hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa.
Từ xưa nhẫn nay, khắp chốn tòng lâm,
những hàng long tượng trong giới truy
lưu đều xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một
trong những bộ kinh then chốt trong nền
giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở
Trung Quốc từ đời nhà Đường
(618-907). Ngài Bát Lạt Mật Đế và Di
Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán
văn.
Mãi
đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng
Thủ Lăng Nghiêm, được các giới truy
lưu, những hàng long tượng để tâm
nghiên cứu rầm rộ một thì. Các tiền
bối ra sức phát huy diệu lý của kinh.
Mỗi Ngài chú giải, sở thích, sáng tác
theo sở kiến, sở ngộ của mình. Có
những vị phát huy cái thâm cái diệu
tàng ẩn trong kinh làm cho sáng tỏ rõ
ràng đem lại cho Phật Tử hậu lai nhiều
lợi lạc. Cũng có những vị sớ giải
mơ màng, gieo vào lòng người con Phật
những tư tưởng huyễn hoặc hoang
đường, vô phương lý giải. Do vậy,
những bậc thạc đức chân tu cùng
thời, Ngài Thích Truyền Đăng phải viết
ra hai quyển, nhan đề: Lăng Nghiêm viên
thông sớ tiền mao. Nội dung để báo
động trong giới truy lưu về sự sai lầm
của những nhà sớ giải vô tình đã
gieo vào lòng nguời con Phật tư tưởng
mê tín dị đoan, con đường giải thoát
giác ngộ mơ hồ không hy vọng có ngày
hiện thực. Trong lời tựa của bộ
"Thủ Lăng Nghiêm chính mạch" thì
Ngài Chơn Giám cũng than phiền tương tợ
!
Ở
Việt Nam ta, từ những thập niên 30 về
sau, phong trào chấn hưng Phật giáo, các
trường cao cấp Phật học đều dùng bộ Thủ
Lăng Nghiêm trực chỉ của Ngài Hàm
Thị mà giảng dạy trong giáo trình.
Qua
quá trình tu học và nghiên cứu, bỉ
nhân tôi, thấy phần "Trực Chỉ"
của bộ kinh này, đại cương mà nhận
xét, có nhiều ý thú thâm sâu, cũng
có thể làm kim chỉ nam cho giới truy lưu
giồi mài, tư duy và tu dưỡng có đem
lại được những điều bổ ích. Dù
vậy, sự bổ ích đó chỉ nghiêng nặng
cho giới truy lưu, cho những người dồi
dào đức tin đối với Tôn giáo
của mình, đức tin đó được khép kín
trong chốn tòng lâm "thanh tịnh"
cổ kính "u nhàn".
Cái
tâm nhận thức của Tăng tín đồ Phật
tử trong xã hội ngày nay đòi hỏi nền
giáo lý Phật giáo phải khế cơ, khế
lý; nghĩa là phải được cụ thể hóa
rõ ràng hơn. Phải biến nền giáo lý
đó thành một thứ chất dinh dưỡng đem
lại cho con người sự bồi bổ, sự ích
lợi cho bản thân, cho gia đình, cho xã
hội và đáp ứng yêu cầu tri thức
của người đệ tử Phật ngang bằng tầm
cỡ của thời đại. Bởi vì, xã hội
loài người, vật chất cũng như tinh
thần luôn luôn trong tiến trình vận
động và chuyển hóa, mà cái gì không
tiến tức đã lùi.
Đất
nước của chúng ta đang ở trong tiến
trình chuyển mình và hoàn toàn đổi
mới. Mới về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, tất nhiên phải mới cả
tư tưởng. Nói đến sự kiện này, tôi
thành thật không giấu giếm rằng: Tôi
rất may mắn, có phúc duyên, tôi được
kịp thời và đúng lúc, hòa mình vào
xã hội mới để học tập. Tôi tìm học
những cái hay cái mới để bồi dưỡng
cho kiến thức của mình. Và sự thật,
thời gian qua đem lại cho tôi một kết
quả rất bằng lòng, và bằng lòng thật
sự, bằng lòng trọn vẹn. Tôi vận dụng
những kiến thức của thời đại, dung
hòa vào cái vốn liếng Phật học sẵn
có của mình. Tôi thấy vô cùng sáng
tỏ. Rồi vì đàn em hậu tiến trong giới
truy lưu vận dụng vào kinh điển trong
giáo trình mà mình đã có, tôi viết
thành những giáo án Phật học. Việc
làm này tôi chưa dám nói là hoàn bị
mọi mặt yêu cầu, nhưng sự thật
trước mắt là người học có cái nhìn
chính xác hơn đối với lời kinh, ý
Phật. Và tự mình gỡ bỏ cho mình
những cặp kính ảm đạm mơ hồ, nhìn
đâu cũng thấy toàn bộ một màu buồn
tẻ hoang đường, huyễn hoặc, siêu hình
vô phương lý luận. Tai họa của sự
nhận thức sai lầm chơn lý, có nuôi
dưỡng trong con người một tâm hồn yếu
đuối, làm cho con người mất hết sức
tự tin; con người không tin khả năng
thành Phật của mình, không tin nổi rằng:
mình vốn có Phật tánh. Con người đã
mất khả năng tự tin thì suốt cuộc
đời mệnh danh là đệ tử Phật nhưng
"linh hồn" thì đã gởi gấm cho
"đấng siêu nhiên" nào đó ở
một thế giới xa xăm ngoài tầm lý
luận của trí thức con người. Đó là
cái buồn chung cho trong hàng đệ tử
Phật lạc lối ngày nay.
Học
kinh Thủ Lăng Nghiêm, con người sẽ xác
định được vị trí của mình đối với
quả vị Bồ Đề Niết Bàn vô
thượng. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni của chúng ta sống bằng "Chơn tâm
thường trú" sinh hoạt trong "Thể
tánh tịnh minh". Mà tất cả mọi
người đệ tử Phật trong chúng ta đều
có "Chơn tâm thường trú" và
"Thể tánh tịnh minh" ấy. Chỉ khác
nhau ở chỗ:
Còn
phiền não khách trần hay phủi hết
phiền não khách trần vậy thôi.
Cái
từ Trực Chỉ trong giáo án "Thủ
Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương"
nầy không lệ thuộc, không tương quan gì
với ý tứ của Ngài Hàm Thị ở thời
Minh xa xưa bên Trung Quốc. Mà phần trực
chỉ nầy, thể hiện từ quá trình học
tập trong thời đại mới với những tư
tưởng mà tôi rất bằng lòng như đã
nói ở trên.
Để
trắc nghiệm sự bằng lòng của mình xem
có chủ quan không, tôi đem cái nhận
thức mới, vận dụng qua nền giáo lý
thậm thâm của Phật, tôi giảng dạy cho
Tăng Ni trường Phật học Cao cấp cơ sở
I ở Thủ đô Hà Nội, từ năm 1981
đến 1985. Lắng nghe dư luận: Kết quả
tốt. Tôi đang thí nghiệm tư tưởng đó
ở Trường Phật học Cao cấp cơ sở II
ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1985
đến nay. Lắng nghe, có kết quả tốt.
Tôi giảng cho Tăng Ni và tín đồ Phật
tử ở nhiều giảng đường khá đông
đảo ở thành phố Hồ Chí Minh trong
nhiều năm liên tục. Lắng nghe, đều kết
quả tốt.
Nay
tôi viết giáo án "Thủ Lăng Nghiêm
Trực Chỉ Đề Cương" nầy nhằm phục
vụ cho đối tượng Tăng Ni sinh Phật học
cao cấp. Hiện nay thì tôi đang giảng cho
Tăng Ni sinh năm thứ 3 trường Phật học
cao cấp cơ sở II tại thành phố Hồ Chí
Minh. Dù vậy, trình độ của người Phật
tử trí thức ngày nay, có rất nhiều
người hâm mộ nghiên cứu học tập tư
tưởng liễu nghĩa thượng thừa thâm
diệu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy.
Đã
là giáo án, tất nhiên còn phải triển
khai hướng dẫn rộng thêm nhiều mặt.
Đã
là đề cương thì không thể đòi hỏi
ở đây những chi tiết quá rộng rãi
ở kinh văn nguyên chất.
Tuy
nhiên, Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề
Cương tương đối đủ sức giúp cho
người đọc nắm lấy cái bâu của áo,
xách lên cái giềng của lưới, nghĩa
là có thể tiếp thụ được cái ý
thú thâm diệu, tư tưởng cốt tủy của
lời kinh. Dù vậy, sự nhận thức và
tiếp thụ đến mức độ nào việc đó
còn tùy thuộc một phần ở con người
nữa; cũng như trông một viên ngọc kim
cương, chắc chắn ai cũng thấy biết
được sắc màu của viên ngọc, nhưng
đánh giá đúng trọn vẹn màu sắc hay
không còn tùy ở sự có biết thay
đổi hướng đứng hay không để nhìn
viên ngọc của chính mình.
Việc
phê phán khen chê, tôi đã có dự trù
và sẵn sàng hoan hỉ tiếp thu. Trong kinh
Niết Bàn, đức Phật kể câu chuyện
năm chàng mù sờ voi
Rồi họ ấu
đả với nhau, vì trong đó, không có anh
nào cho rằng mình không biết rõ con voi
thật. Con voi như cây cột, con voi như cái
quạt mo, vẫn chưa phải vô lý, kia mà !
Này
! Các bạn ơi ! Tôi đã thấy được con
voi thật ! Nó thường phe phẩy hai tai, nó
dẫm tới dẫm lui và tỏ vẻ thèm
thuồng, muốn xin những lóng mía của
khách nhàn du trong "vườn bách
thú" ấy.
Viết
tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
Mùa thu năm Bính Dần
Ngày 23 tháng 09 năm 1986
Pháp Sư Thích Từ Thông
[^]
--- o0o ---
Mục lục
Mục lục tập 01
|
chương 1 | chương 2 |chương 3 - chương 3a
Mục
lục tập 02 |
chương 4 |chương 5 | chương 6
Mục lục tập 03 |
chương 7| chương 8 | chương 9 | chương 10|
Phụ lục
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục