.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- KINH THỪA
TỰ PHÁP
- (Dhammadayadasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Khi
ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo",
– "Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói:
- Này các Tỷ-kheo, hãy là người
thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. T ó
lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của
Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa
tự tài vật". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Người là những người
thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự pháp,
thì không những các Người trở thành những người mà người ta nói:
"Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải
là những người thừa tự pháp", mà cả T ũng trở thành người mà người
ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật,
không phải là những người thừa tự pháp". Và này các Tỷ-kheo, nếu
các Người là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những
người thừa tự tài vật, thời không những các người trở thành những
người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò là những người thừa tự
pháp, không phải là những người thừa tự tài vật", mà cả T ũng trở
thành người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò đều là những người
thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật". Do vậy,
này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những
người thừa tự tài vật. T ó lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ:
"Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của
Ta, không phải là những người thừa tự tài vật".
Này các Tỷ-kheo, ở đây, một thời
Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa
thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực của Ta đáng được quăng bỏ.
Khi ấy có hai Tỷ-kheo đến, đói lả và kiệt sức. T ó thể nói với hai
vị ấy: "Này các Tỷ-kheo, Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm
dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực
này của Ta đáng được quăng bỏ. Nếu các Người muốn, hãy ăn đi. Nếu
các Người không muốn ăn, Ta sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ
xanh, hay Ta sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy". Rồi
một Tỷ-kheo có thể nghĩ như sau: "Nay Thế Tôn ăn đã xong, thỏa mãn,
đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý; và đây
là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta
không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ
bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy. Nhưng Thế Tôn có dạy
như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng
là người thừa tự tài vật". Đây là loại tài vật; món đồ ăn này,
ta hãy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày hôm nay, bị đói lả
và kiệt sức". Rồi vị ấy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm
ngày ấy, đói lả và kiệt sức. Tỷ-kheo thứ hai nghĩ như sau: "Thế Tôn
ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa
thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được
quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ
không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy.
Vậy ta hãy ăn loại đồ ăn này, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải
qua đêm ngày hôm nay như vậy". Rồi vị ấy ăn loại đồ ăn ấy, trừ
bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy. Này
các Tỷ-kheo, dầu cho Tỷ-kheo này, sau khi ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ đói
lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy, nhưng đối với
Ta, Tỷ-kheo đầu tiên đáng được kính nể hơn, và đáng được tán thán
hơn. Vì sao vậy? Vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỷ-kheo ấy, trong một thời
gian lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần,
tinh tấn. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta,
đừng là người thừa tự tài vật.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói
xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá.
Lúc ấy, Tôn giả Sariputta, sau khi
Thế Tôn đi chẳng bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả
Tỷ-kheo!" - "Thưa vâng Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói:
"Này các Hiền giả, như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly mà các đệ
tử không tùy học viễn ly? Và như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và
các đệ tử tùy học viễn ly?" - "Này Hiền giả, chúng tôi từ xa
lại để được hiểu nghĩa lý câu nói này từ Tôn giả Sariputta. Lành
thay, nếu Tôn giả Sariputta thuyết giảng nghĩa lý câu nói ấy. Sau khi được
nghe Tôn giả Sariputta thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì" -
"Chư Hiền, vậy hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng" - "Thưa
vâng, Hiền giả", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn
giả Sariputta nói như sau:
– Này chư Hiền, ở đây vị Đạo
Sư sống viễn ly các đệ tử không tùy học viễn ly. Những pháp nào vị
Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ, và họ sống
trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh
nặng sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng Tọa Tỷ-kheo có ba trường
hợp, đáng bị quở trách. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử không
tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa Tỷ-kheo
đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những
pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng Tọa
Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn
đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường hợp
thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Này chư Hiền, các
Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này đáng bị quở trách. Này chư
Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo... (như trên)... các vị mới thọ Tỷ-kheo có
ba trường hợp đáng bị quở trách. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ
tử không tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các vị mới
thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên
từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các
vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười
biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là
trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Này
chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng bị quở
trách. Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Đạo Sư sống viễn
ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Và như thế nào, vị Đạo Sư sống
viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly? Này chư Hiền, vị Đạo Sư sống
viễn ly các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị Đạo Sư dạy
nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy
đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu
về sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp
đáng được tán thán. Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học
viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng
được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những
pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng tọa Tỷ-kheo
đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười
biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn
ly. Đó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng được tán
thán. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng
được tán thán. Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo... (như trên)... các
vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. Vị Đạo
Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ
nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào
vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường
hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ
không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng
về đọa lạc và dẫn đầu về viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các
vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền, các vị mới
thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán. Này chư Hiền,
như vậy là những trường hợp vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy
học viễn ly.
Ở đây, này chư Hiền, tham là ác
pháp, và sân cũng là ác pháp, có một con đường Trung đạo diệt trừ
tham và diệt trừ sân, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng
đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền con
đường Trung đạo ấy là gì, (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến
(chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn?
Đó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến
(chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Ở đây, này chư Hiền, phẫn nộ là ác pháp và hiềm hận cũng là ác
pháp, giả dối là ác pháp và não hại cũng là ác pháp, tật đố là ác
pháp và xan lẫn cũng là ác pháp, man trá là ác pháp và phản bội cũng là
ác pháp, ngoan cố là ác pháp và bồng bột nông nổi cũng là ác pháp, mạn
là ác pháp và tăng thượng mạn cũng là ác pháp, kiêu là ác pháp và
phóng dật cũng là ác pháp. Có một con đường Trung đạo diệt trừ kiêu
và diệt trừ phóng dật, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng
đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền, con
đường Trung đạo ấy là gì, (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến
(chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn?
Đó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến
(chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như
vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục