Tôi nghe như
vầy: Một thưở, Ðức
Bạc Già Phạm Thế Tôn trụ rừng Thệ Ða vườn Cấp Cô Ðộc, tại thành Thất La
Phiệt, đồng cùng ngàn hai trăm năm mươi người chúng Ðại Bí sô. Bấy giờ, Thế
Tôn bảo cụ thọ Xá Lợi Tử : Ngươi nay nên vì các Bồ tát Ma ha tát muốn
chứng Vô thượng Chánh Ðẳng Bồ đề tuyên nói tịnh giới Ba la mật đa. Khi ấy, Xá
Lợi Tử nhờ Phật giáo sắc, nương thần lực Phật, trước đem tịnh giới Ba la
mật đa dạy răn dạy trao các Bồ tát Ma ha tát. Khi đó, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Làm sao biết được Bồ tát trì giới?
Làm sao biết được Bồ tát phạm giới? Sao là Bồ tát chỗ nên hành xứ? Sao là
Bồ tát chỗ phi hành xứ? Khi đó cụ thọ
Xá Lợi Tử bèn đáp cụ thọ Mãn Từ Tử rằng: Nếu các Bồ tát an trụ tác ý Thanh
văn Ðộc giác, đấy gọi là Bồ tát chỗ phi hành xứ. Nếu các Bồ tát an trụ
chỗ ấy, nên biết đấy là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát hành nơi phi xứ,
các Bồ tát này quyết định chẳng thể nhiếp thọ được tịnh giới Ba la mật đa.
Nếu các Bồ tát quyết định chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới Ba la mật đa , các
Bồ tát này bỏ thệ nguyện xưa. Nếu các Bồ tát bỏ thệ nguyện xưa, nên biết
đấy là Bồ tát phạm giới. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát tu hành bố thí hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác,
đấy gọi Bồ tát hành nơi phi xứ. Nếu Bồ tát hành nơi phi xứ, nên biết đấy
là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát an trụ cư gia hưởng năm diệu dục, phải
biết chẳng là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát khi hành bố thí hồi hướng
Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác, chẳng cầu Vô thượng Chánh Ðẳng Bồ đề, phải
biết đấy là Bồ tát phạm giới. Ví như Vương
tử nên thọ bao nhiêu giáo lệnh của Phụ vương, nên học những pháp mà Vương
tử cần phải học. Nghĩa là các Vương tử đều nên học giỏi các chỗ công xảo
và chỗ sự nghiệp, sở vi cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe và giỏi cầm cương
ngựa, cái cung, cái nỏ, chiếc mâu nhọn, con dao, mâu dài cán, chiếc câu
tròn; chạy vội, chạy thẳng, chạy quanh, nhảy vọt, trụ vững, thơ bút, ấn
kiếm, toán số, học luận lý thanh minh, nhân minh thảy, và các thứ công xảo
sự nghiệp khác nữa. Nếu các Vương tử năng siêng tập học các loại như thế
thảy thuận ích phép vua, dù hưởng năm dục các thứ chơi giỡn mà chẳng bị
vua cha quở trách. Như vậy, Bồ tát siêng cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
tuy còn ở cư gia hưởng năm diệu dục các thứ vui chơi mà chẳng trái nghịch
Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ
tát khi hành bố thí hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác, các Bồ tát này
hành nơi phi xứ, đối Nhất thiết trí bèn chẳng phải là đám ruộng. Hoặc thời
hoặc lúc đối Nhất thiết trí đã thành chẳng ruộng, bấy giờ khi đó chẳng thể
nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa được. Hoặc thời hoặc lúc chẳng thể
nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, bấy giờ khi đó xa lìa sở cầu Nhất
thiết trí trí. Hoặc thời hoặc lúc xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, bấy
giờ khi đó hành nơi phi xứ. Hoặc thời hoặc lúc hành nơi phi xứ, bấy giờ
khi đó phạm giới Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát tuy lại xuất gia thọ trì tịnh giới mà chẳng hồi hướng
Vô thượng Bồ đề, các Bồ tát định chẳng thành tựu Bồ tát tịnh giới, các Bồ
tát này chỉ có hư danh, trọn không thật nghĩa, nên biết loại kia chẳng
được gọi Bồ tát. Nếu các Bồ
tát tuy ở cư gia mà thọ Tam quy thâm tín Tam Bảo, hồi hướng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, các Bồ tát này tuy lại thọ dụng đồ vui năm dục mà đối Bồ
tát sở hành tịnh giới Ba la mật đa thường chẳng xa lìa, cũng được gọi kẻ
chơn thật trì tịnh giới, cũng gọi an trụ Bồ tát tịnh giới. Nếu các Bồ
tát trụ Bồ tát giới, các Bồ tát này thường chẳng xa lìa Bồ tát Tịnh giới
Ba la mật đa. Nếu các Bồ tát thường chẳng xa lìa Bồ tát Tịnh giới Ba la
mật đa, các Bồ tát này thường chẳng xa lìa Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ
tát tuy nhiều phát khởi phi lý tác ý tương ưng năm dục, mà khởi một niệm
tâm tương ưng Vô thượng Bồ đề tức năng xô diệt, như chứa nhóm nhiều ngọc
ca giá mạc ni, một phệ lưu ly năng tổng chói cướp. Ngọc báu phệ lưu ly giá
trị vẻ sáng chói cướp tất cả ca giá mạt ni. Như vậy, Bồ tát tuy phát khởi
nhiều tác ý phi lý tương ưng năm dục, nếu khởi một niệm tâm tương ưng Vô
thượng Bồ đề khắp năng xô diệt được. Như đống ca giá mạt ni, một phệ lưu
ly khắp năng chói cướp khiến mất vẻ sáng. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát chấp trước các tướng mà hành bố thí, các Bồ tát này
hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ tát hành nơi phi xứ, các Bồ tát này phải biết
gọi là phạm Bồ tát giới. Bồ tát chẳng
nên chấp trước các tướng mà hành bố thí, cũng lại chẳng nên chấp trước Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề mà hành bố thí. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử!
Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề xa lìa các tướng. Sở dĩ vì sao? Vì Như
Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy, vô lượng vô biên chư Phật diệu
pháp đều lìa các tướng. Như vậy, Bồ
tát đối sở hành thí chẳng nên chấp trước. Nếu các Bồ tát đối hành thí năng
không chấp trước, các Bồ tát này thời năng nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh
giới Ba la mật đa , mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Khi ấy, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát cầu Nhất thiết trí trí
mà tu bố thí, các Bồ tát này đâu chẳng chấp trước Nhất thiết trí trí? Nếu
các Bồ tát khởi tâm chấp trước Nhất thiết trí trí, thành giới cấm thủ, làm
sao gọi là trì Bồ tát giới? Xá Lợi Tử
nói: Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng, chẳng nhiếp phương chỗ. Nhất
thiết trí trí chẳng phải sắc uẩn, chẳng lìa sắc uẩn; chẳng phải thọ tưởng
hành thức uẩn, chẳng lìa thọ tưởng hành thức uẩn. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhãn xứ, chẳng lìa nhãn xứ; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Nhất thiết
trí trí chẳng phải sắc xứ, chẳng lìa sắc xứ; chẳng phải thanh hương vị xúc
pháp xứ, chẳng lìa thanh hương vị xúc pháp xứ. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhãn giới, chẳng lìa nhãn giới; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt
thân ý giới, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Nhất thiết
trí trí chẳng phải sắc giới, chẳng lìa sắc giới; chẳng phải thanh hương vị
xúc pháp giới, chẳng lìa thanh hương vị xúc pháp giới. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhãn thức giới, chẳng lìa nhãn thức giới; chẳng phải
nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhãn xúc, chẳng lìa nhãn xúc; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng lìa nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các
thọ. Nhất thiết
trí trí chẳng phải địa giới, chẳng lìa địa giới; chẳng phải thủy hỏa phong
không thức giới, chẳng lìa thủy hỏa phong không thức giới. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhân duyên, chẳng lìa nhân duyên. Chẳng phải đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng lìa đẳng vô gián
duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Nhất thiết
trí trí chẳng phải vô minh, chẳng lìa vô minh. Chẳng phải hành, thức, danh
sắc, sáu chỗ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; chẳng lìa hành, thức,
danh sắc, sáu chỗ, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão tử. Nhất thiết
trí trí chẳng phải bố thí Ba la mật đa, chẳng lìa bố thí Ba la mật đa.
Chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa;
chẳng lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nội không, chẳng lìa nội không. Chẳng phải ngoại không,
nội ngoại không , không không, đại không, thắng nghĩa không , hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không; chẳng lìa ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không. Nhất thiết
trí trí chẳng phải chơn như, chẳng lìa chơn như. Chẳng phải pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh
ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới;
chẳng lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác,
tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới. Nhất thiết
trí trí chẳng phải khổ thánh đế, chẳng lìa khổ thánh đế; chẳng phải tập
diệt đạo thánh đế, chẳng lìa tập diệt đạo thánh đế. Nhất thiết
trí trí chẳng phải bốn tĩnh lự, chẳng lìa bốn tĩnh lự. Chẳng phải bốn vô
lượng, bốn định vô sắc; chẳng lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nhất thiết
trí trí chẳng phải bốn niệm trụ, chẳng lìa bốn niệm trụ. Chẳng phải bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi; chẳng lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Nhất thiết
trí trí chẳng phải không giải thoát, chẳng lìa không giải thoát môn. Chẳng
phải vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng lìa vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Nhất thiết
trí trí chẳng phải tám giải thoát, chẳng lìa tám giải thoát. Chẳng phải
tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; chẳng lìa tám thắng xứ,
chín định thứ lớp, mười biến xứ. Nhất thiết
trí trí chẳng phải đà la ni môn, chẳng lìa đà la ni môn; chẳng phải tam ma
địa môn, chẳng lìa tam ma địa môn. Nhất thiết
trí trí chẳng phải tịnh quán địa, chẳng lìa Tịnh quán địa. Chẳng phải
Chủng tánh địa, Ðệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa,
Ðộc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa; chẳng lìa Chủng tánh địa, Ðệ bát
địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Ðộc giác địa, Bồ tát
địa, Như Lai địa. Nhất thiết
trí trí chẳng phải Cực hỷ địa, chẳng lìa Cực hỷ địa. Chẳng phải Ly cấu
địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn
hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa; chẳng lìa Ly cấu địa,
Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành
địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Nhất thiết
trí trí chẳng phải năm nhãn, chẳng lìa năm nhãn; chẳng phải sáu thần
thông, chẳng lìa sáu thần thông. Nhất thiết
trí trí chẳng phải Phật mười lực, chẳng lìa Phật mười lực. Chẳng phải bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng; chẳng lìa bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Nhất thiết
trí trí chẳng phải ba mươi hai tướng Ðại Sĩ, chẳng lìa ba mươi hai tướng
Ðại Sĩ; chẳng phải tám mươi tùy hảo, chẳng lìa tám mươi tùy hảo. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp vô vong thất, chẳng lìa pháp vô vong thất; chẳng
phải tánh hằng trụ xả, chẳng lìa tánh hằng trụ xả. Nhất thiết
trí trí chẳng phải nhất thiết trí, chẳng lìa nhất thiết trí; chẳng phải
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, chẳng lìa đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí. Nhất thiết
trí trí chẳng phải quả Dự lưu, chẳng lìa quả Dự lưu. Chẳng phải quả Nhất
lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, Ðộc giác Bồ đề; chẳng lìa quả Nhất lai,
quả Bất hoàn, quả A la hán, Ðộc giác Bồ đề. Nhất thiết
trí trí chẳng phải các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chẳng lìa các hạnh Bồ tát Ma
ha tát; chẳng phải chư Phật Vô thượng Chánh Ðẳng Bồ đề, chẳng lìa chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp hữu sắc, chẳng lìa pháp hữu sắc; chẳng phải pháp
vô sắc, chẳng lìa pháp vô sắc. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp hữu kiến, chẳng lìa pháp hữu kiến; chẳng phải pháp
vô kiến, chẳng lìa pháp vô kiến. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp hữu đối, chẳng lìa pháp hữu đối; chẳng phải pháp
vô đối, chẳng lìa pháp vô đối. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp hữu lậu, chẳng lìa pháp hữu lậu; chẳng phải pháp
vô lậu, chẳng lìa pháp vô lậu. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp hữu vi, chẳng lìa pháp hữu vi; chẳng phải pháp vô
vi, chẳng lìa pháp vô vi. Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu lượng,
chẳng lìa pháp hữu lượng; chẳng phải pháp vô lượng, chẳng lìa pháp vô
lượng. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp quá khứ, chẳng lìa pháp quá khứ; chẳng phải pháp
vị lai hiện tại, chẳng lìa pháp vị lai hiện tại. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp thiện, chẳng lìa pháp thiện; chẳng phải pháp bất
thiện vô ký, chẳng lìa pháp bất thiện vô ký. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp buộc cõi Dục, chẳng lìa pháp buộc cõi Dục; chẳng
phải pháp buộc cõi Sắc Vô Sắc, chẳng lìa pháp buộc cõi Sắc Vô Sắc. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp thấy bị dứt, chẳng lìa pháp thấy bị dứt. Chẳng
phải pháp tu bị không dứt; chẳng lìa pháp tu bị dứt,không dứt. Nhất thiết
trí trí chẳng phải pháp học, chẳng lìa pháp học; chẳng phải pháp không
học, chẳng học chẳng không học; chẳng lìa pháp không học, chẳng học chẳng
không học. Vì Nhất thiết trí trí xa lìa các pháp như thế nên chẳng thể
chấp lấy. Vì Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng không pháp khá được,
không sở đắc nên chẳng thể chấp lấy. Nhất thiết
trí trí đã chẳng phải có pháp, cũng chẳng phải không pháp, bởi nhân duyên
đây nên chẳng thể chấp lấy.Vậy nên, Bồ tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh
giới hồi hướng Vô thượng Chánh Ðẳng Bồ đề, mặc dù cầu chứng được Nhất
thiết trí trí mà chẳng gọi là nhiếp vào giới cấm thủ được. Nếu các Bồ tát
tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác,
chấp lấy tịnh giới, các Bồ tát này mất Bồ tát giới, phải biết gọi là phạm
giới Bồ tát. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới
hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác, trái phạm giới Bồ tát đã thọ, các
Bồ tát này vì có nhân duyên có thể hoàn lại tịnh chăng? Xá Lợi Tử
đáp: Nếu Bồ tát kia đã hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác rồi mà chưa
thấy Thánh đế, chưa chứng thật tế, hoặc có nhân duyên dễ có thể hoàn tịnh.
Nếu thấy Thánh đế, chứng thật tế rồi, dị kiến sâu nặng khó hoàn tịnh
được. Khi ấy, Mãn
Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên cho kia chứng thật tế ư? Xá Lợi Tử
đáp: Như vậy, như vậy. Nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề, chẳng nên cho kia chứng nơi thật tế. Mãn Từ Tử
nói: Vì nhân duyên nào nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề, chẳng nên cho kia chứng nơi thật tế ? Xá Lợi Tử
nói: Có các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nếu mau cho kia
chứng nơi thật tế, các Bồ tát này hoặc gặp nhân duyên trụ ở Thanh văn
hoặc bậc Ðộc giác, khó nổi khiến khởi tâm Nhất thiết trí. Hoặc gặp Chánh
pháp Như Lai ẩn mất, chẳng cầu chứng được Nhất thiết trí trí, bấy giờ bèn
chứng Ðộc giác Bồ đề, vào cõi Vô dư y Niết bàn, rốt ráo chẳng chứng được
Vô thượng Bồ đề. Bởi nhân
duyên đây, nếu các Bồ tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên cho
kia mau chứng thực tế, cho đến chưa ngồi tòa diệu Bồ đề chẳng nên cho kia
chứng nơi thật tế. Nếu khi đã ngồi tòa Bồ đề, mới nên cho kia chứng nơi
thật tế để dứt tất cả chướng, chứng Ðại Bồ đề. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát tu hành tịnh giới Ba la mật đa, chẳng nên thọ trì tịnh
giới Nhị thừa, bởi tịnh giới kia chẳng thể nhiếp thọ được Nhất thiết trí
trí, chẳng thể dẫn phát được Nhất thiết trí trí, chẳng thể nhiếp thọ được
Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba
la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát tâm làm phân hạn nhiêu ích hữu tình, tu hành bố thí,
thọ trì tịnh giới, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba
la mật đa được, chẳng thể viên mãn Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa được. Vì
cớ sao? Mãn Từ Tử! Vì Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa không phân hạn vậy. Nếu các Bồ
tát tâm không phân hạn nhiêư ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh
giới, các Bồ tát này mơí năng nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật
đa, cũng năng viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa. Các Bồ tát này
Ðộc giác nhân duyên đây gọi là thành tựu Bồ tát tịnh giới. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Vì sao gọi là Bồ tát trì giới ? Xá Lợi Tử
đáp: Nếu các Bồ tát tùy chỗ thi hành, tất cả hồi hướng Vô thượng Bồ đề,
cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn, tận đời vị lai không gián không đoạn.
Phải biết đấy là Bồ tát trì giới. Nếu các Bồ
tát tùy chỗ hộ giới, tất cả hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình
làm nhiêu ích lớn, tận đời vị lai không gián không đoạn. Phải biết đấy là
Bồ tát trì giới. Nếu các Bồ
tát dù lâu đại kiếp số cát Căng già tu hành tịnh giới khiến được viên mãn,
mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn,
tận đời vị lai không gián không đoạn, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ
được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa , chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh
giới Ba la mật đa . Nếu các Bồ
tát dù lâu đại kiếp số cát Căng già tu hành tịnh giới khiến được viên mãn,
mà tâm hồi hướng Thanh văn Ðộc giác, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ
được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh
giới Ba la mật đa. Nếu các Bồ
tát dù chẳng thọ trì tịnh giới Nhị thừa, mà chẳng gọi là kẻ phạm tịnh
giới. Nếu các Bồ tát hồi hướng Thanh văn Ðộc giác, dù thọ trì nhiều tịnh
giới Nhị thừa mà đáng gọi là kẻ phạm tịnh giới. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! nếu
các Bồ tát hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác, phải biết đấy gọi hành
nơi phi xứ. Nói phi xứ ấy tức bậc Nhị thừa, vì chẳng phải chỗ sở hành các
Bồ tát vậy. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Vì sao gọi là Bồ tát hành xứ ? Xá Lợi Tử
đáp: Tác ý tương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát
nhã Ba la mật đa; phải biết đấy là chỗ hành của Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Tác ý tương ưng nội không, ngoại không, nội ngoại không , không không,
đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Tác ý tương ưng chơn như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh
chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát . Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; phải biết đấy
là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định
thứ lớp, mười biến xứ; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa,
Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động
địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn;
phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học năm nhãn, sáu thần thông; phải biết
đấy là chỗ hành Bồ tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học Như Lai mười
lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng, cho đến Nhất thiết trí trí; phải biết đấy là chỗ
hành Bồ tát. Nếu các Bồ
tát chắc vậy, trụ vậy, hành chỗ hành xứ đây, nên biết đấy là Bồ tát trì
giới. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát tuy ở nơi cu gia lâu đại kiếp số cát Căng già hưởng năm
diệu dục, mà chẳng phát khởi tâm hướng tới bậc Thanh văn Ðộc giác, các Bồ
tát này nên biết chẳng gọi phạm Bồ tát giới. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử!
Các Bồ tát ấy ý vui tăng thượng, vì không lui hoại vậy. Những gì gọi là ý
vui tăng thượng? Nghĩa là định tới cầu Nhất thiết trí trí. Ví như có người
đối của cải kẻ kjác thật chẳng cướp trộm, oan uổng bị cầm tù, tuy lâu
nhiều thời mà vui thắng ý thường không lui hoại. Ðối củ cải của người khác
không tâm cướp trộm, mặc dù cùng người ác đồng bị tù cấm mà chẳng gọi lá
giặc. Như vậy, Bồ tát tuy ở cư gia lâu đến đại kiếp số cát Căng già hưởng
năm diệu dục, mà vui thắng ý thường chẳng lui hoại, nghĩa là thường tới
cầu Nhất thiết trí trí, thường chẳng phát khởi tâm Nhị thừa, vậy nên
chẳng gọi phạm Bồ tát giới. Nếu cá Bồ tát
tuy lâu đại kiếp số cát Căng già tu hạnh phạm hạNhị thừa mà khởi tâm hồi
hướng bậc Nhị thừa, nên biết chẳng gọi kẻ trì tịnh giới. Vì cớ sao? Vì
kia bỏ tịnh giới Ba la mật đa, an trụ giới Thanh văn Ðộc giác thừa. Nếu cá
Bồ tát an trụ giới Thanh văn Ðộc giác thừa, chẳng gọi Bồ tát. Sở dĩ vì
sao? Vì các Bồ tát này Xá Lợi Tử lìa tịnh giới Ba la mật đa, không tâm tới
cầu Nhất thiết trí trí, định chẳng thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát khởi tâm như vầy: Ta phải tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp
trôi lăn sanh tử, định sẽ dẫn khởi Nhất thiết trí trí. Cá Bồ tát đây do
khởi tâm này chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí. Khi ấy, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát tâm khởi làm phân hạn
rằng: “ Ta phải tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp định sẽ chứng được Nhất
thiết trí trí “, tâm mong cầu như thế có lầm lỗi gì mà chẳng thể được Nhất
thiết trí trí? Xá Lợi Tử
đáp: Các Bồ tát ấy chán sợ sanh tử, mau cầu Bồ đề. Do tâm mau nên bèn làm
phân hạn. Bởi làm phân hạn, chẳng thể thành xong được căn lành thù thắng.
Bởi sợ sanh tử, hoặc cầu quả Thanh văn, Ðộc giác thừa. Chẳng phải làm phân
hạn, mà năng nhiếu ích được vô lượng hữu tình. Chẳng phải làm phân hạn mà
năng viên mãn được vô lượng bố thí Ba la mật đa. Chẳng phải chẳng viên mãn
vô lượng bố thí Ba la mật đa mà năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ
tát làm phân hạn, dù cho trải qua đại kiếp số cát Căng già tu hành bố thí
Ba la mật đa, mà cũng chẳng thể viên mãn được bố thí Ba la mật đa. Bồ tát
bố thí Ba la mật đa không ngằn mé, nên Nhất thiết trí trí cũng không ngằn
mé. Nếu chẳng viên mãn Bồ tát bố thí Ba la mật đa mà năng chứng được Nhất
thiết trí trí, không có lẽ ấy. Vậy nên, Bồ tát muốn cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề chẳng nên khởi tâm làm phân hạn mau cầu chứng được Nhất thiết
trí trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các Bồ tát này quyết
đình tâm chẳng nên làm phân hạn tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật
đa. Hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó sở tu
bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa dần khéo thành thục, kham năng chứng
được Nhất thiết trí trí. Như đồ đất
mới đựng đầy nước trong để phơi nắng giữa ngày, như như nhiều thời được
thấm nhuần, như vậy như vậy đồ ấy càng thêm bền chắc. Như vậy, Bồ tát hoặc
thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó sở tu bố thí
cho đến Bát nhã Ba la mật đa dần khéo thành thục, kham năng chứng được
Nhất thiết trí trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Như chiếc bình sứ mới đựng đầy dầu tô như như lâu ngày, như vậy như
vậy mỡ dầu thấm dần, do đây bền kín có sức kham năng. Như vậy, Bồ tát hoặc
thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó dần gặp nhiều
Phật và đệ tử Phật tin kính cúng dường. Hoặc thời
hoặc lúc dần gặp nhiều Phật và đệ tử Phật tin kính cúng dường, bấy giờ khi
đó dần nhờ nhiều Phật và đệ tử Phật dạy răn dạy trao. Hoặc thời
hoặc lúc dần gặp nhiều Phật và đệ tử Phật dạy răn dạy trao, bấy giờ khi đó
được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã
Ba la mật đa. Hoặc thời
hoặc lúc dần được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần năng tu tập được bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc thời
hoặc lúc khéo năng tu tập được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần viên mãn nữa bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc thời
hoặc lúc dần viên mãn nữa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần được gần kề Nhất thiết trí trí. Hoặc thời
hoặc lúc dần được gần kề Nhất thiết trí trí, bấy giờ khi đó dần dứt các
chướng, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát Ma ha tát hoặc thời hoặc lúc khởi tâm tương ưng Nhất thiết
trí trí, bấy giờ khi đó không cho tâm xen khởi duyên cảnh khác. Hoặc thời
hoặc lúc không cho tâm xen khởi cảnh khác, bấy giờ khi đó bố thí, tịnh
giới an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa nối nhau thấm nơi
tâm dần được viên mãn. Vì nhờ tâm nối nhau viên mãn dần, nên gọi tâm năng
dẫn phát Nhất thiết trí. Tâm đây nồi nhau không hở không dứt, cho đến
chứng được Nhất thiết trí trí. Như bình chứa
dầu tô như như lâu ngày, như vậy như vậy khí tô thấm nhiễm khắp bình,
chẳng chịu khí nào đến huân nhiễm được. Như vậy, chúng Bồ tát Ma ha tát
khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, tâm duyên cảnh khác chẳng thể xen
tạp được. Do không xen tạp, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa huân tập viên mãn. Các ác ma quân muốn rình làm
rối, quyết chẳng thể được. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử!
Nếu đối cảnh đây ma rình làm rối, các Bồ tát này tức thì khởi tâm tương
ưng Nhất thiết trí trí đối cảnh đây, do đấy ác ma chẳng làm gì được. Như
vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hành bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần thờ nhiều Phật và các đệ tử. Hoặc thời
hoặc lúc dần thờ nhiều Phật và các đệ tử, bấy giờ khi đó nghe thuyết bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa . Hoặc thời
hoặc lúc thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó năng
siêng tinh tiến suy gẫm đúng lý đã thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật
đa. Hoặc thời
hoặc lúc năng siêng tinh tiến suy gẫm đúng lý đã thuyết bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó năng siêng tinh tiến không trái tu tập đã
thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Hoặc thời
hoặc lúc năng siêng tinh tiến không trái tu tập đã thuyết bố thí cho đến
Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó nơi tâm nối nhau bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa dần được viên mãn. Hoặc thời
hoặc lúc tâm nối nhau bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát
nhã Ba la mật đa dần được viên mãn, bấy giờ khi đó dần được gần kề Nhất
thiết trí trí. Nhờ đây mau chứng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm
nhiêu ích lớn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát muốn khuyên dẫn người thọ trì tịnh giới, các Bồ tát này
trước nên tự khởi pháp tâm tâm sở tương ưng tịnh giới, nhiên hậu khuyên
người thọ trì tịnh giới. Ðã khuyên dẫn người thọ trì tịnh giới rồi, lại
khiến hồi hướng Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ tát tự tu căn lành hồi
hướng sở cầu Nhất thiết trí trí, lại năng khuyên dẫn các hữu tình khác
khởi tâm thanh tịnh thọ trì tịnh giới. Thọ trì giới rồi, lại khiến hồi
hướng Nhất thiết trí trí, mới có thể gọi là đối các thiện nam tử thiện nữ
nhân thảy năng khéo hóa đạo. Nếu các Bồ
tát dạy răn dạy trao kẻ tới Thanh văn thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh
giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, các Bồ tát này
hơn kẻ Thanh văn thừa. Nếu người
Thanh văn dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát
Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, người Thanh
văn này chẳng hơn kẻ Bồ tát mà là Bồ tát càng hơn hơn kia. Như có nam tử
cõng người chơn kim xa tới nước khác, người chơn kim này vẻ sáng nhan mạo
hơn nam tử kia. Như vậy, nếu có người Thanh văn thừa số cát Căng già dạy
răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la
mật đa hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Một Bồ tát đây hơn tất cả
người Thanh văn thừa. Lại như nam
tử cõng người thủy tinh xa tới nước khác, người thủy tinh đây vẻ sáng nhan
mạo hơn nam tử kia. Như vậy, người Thanh văn thừa số cát Căng già thế giới
Tam thiên đại thiên dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học
Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Một
Bồ tát đây hơn tất cả người Thanh văn thừa kia. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Các
người Thanh văn hoặc thời hoặc lúc dạy răn dạy trao một Bồ tát đây, bấy
giờ khi đó càng hơn tất cả người Thanh văn. Giả sử các
người Thanh văn trụ lâu kiếp số cát Căng già dạy răn dạy trao một Bồ tát
đây khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới
Nhất thiết trí trí, một Bồ tát đây công đức căn lành ngày đêm tăng
trưởng. Lại, Mãn Từ
Tử! Ví như vàng thật thường hằng trui rèn, sắc sáng càng thịnh. Bồ tát
cũng vậy, hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh văn dạy răn dạy trao khiến
siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết
trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong
sáng. Hoặc thời
hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng, bấy giờ khi
đó càng hơn bấy nhiêu công đức tất cả người Thanh văn thừa. Bởi công đức
của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Như ngọc phệ lưu ly hoặc thời hoặc lúc kẻ thợ mài lâu, bấy giờ khi đó
sắc sáng càng trong. Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh
văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa,
hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba
la mật đa càng được trong sáng. Hoặc thời
hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng, bấy giờ khi
đó càng hơn bao nhiêu công đức tất cả người Thanh văn thừa. Bởi công đức
của kia hồi hướng Niết bàn,chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Như thợ vẽ khéo dùng các màu sắc vẽ làm tượng người. Như như trước lấy
một sắc vẽ làm mô dạng, với khi sau điền lấp khắp các màu. Hoặc thời hoặc
lúc dùng các màu sắc dần hồi điền lấp, bấy giờ khi đó dung mạo hình sắc
lại càng đẹp lạ hơn họa sĩ kia bội trăm ngàn vạn. Như vậy, Bồ
tát hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu
học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí;
bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng. Hoặc thời
hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càn g được trong sáng, bấy giờ khi
đó càng hơn bao nhiêu công đúc tất cả người Thanh văn thừa. Bởi công đức
của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ
tát đây do các Thanh văn dạy răn dạy trao sở tu các thứ công đức căn lành
ngày đêm tăng trưởng. Lại, Mãn Từ
Tử! Như người trồng cây theo thời tưới bón, sửa sang giữ gìn, hoặc thời
hoặc lúc tưới bón cây này giữ gìn sửa sang, bấy giờ khi đó cây ấy tăng
trưởng cao lớn dần. Như vậy, Bồ
tát được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát
Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ tát
này hoặc thời hoặc lúc được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến
siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết
trí trí; bấy giờ lúc đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi tăng
trưởng. Hoặc thời
hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi tăng trưởng, bấy giờ khi đó
hơn khắp tất cả Thanh văn Ðộc giác. Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng
sáng càng thịnh, lần hồi gần kề bản sở nguyện cầu Nhất thiết trí trí, do
đây hơn khắp Thanh văn Ðộc giác. Lại, Mãn Từ
Tử! Ví như có người cầm chút lửa đóm đốt cỏ cây khô, hoặc thời hoặc lúc
lửa nương cỏ cây, bấy giờ khi đó lửa tăng trưởng dần. Hoặc thời hoặc lúc
lửa tăng trưởng dần, bấy giờ khi đó lửa ngọn càng lớn, lần hồi càng soi
sáng được do tuần, nhiều trăm ngàn do tuần, cho đến vô lượng. Như vậy, Bồ
tát được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát
Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ tát
này hoặc thời hoặc lúc vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu
học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí;
bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi sáng thịnh. Hoặc thời
hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi sáng thịnh, bấy giờ khi đó
hơn vô lượng bao nhiêu công đức người Thanh văn thừa dạy răn dạy trao. Bởi
công đúc của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí
trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Ví như có người đào mỏ lấy vàng, vàng ra đem bán sở đắc giá trị, người
mua vàng quí hơn người bán kia bội nhiều trăm ngàn. Như vậy, Bồ
tát hoặc thời hoặc lúc được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến
siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết
trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa hơn bao nhiêu công
đúc Thanh văn kia bội nhiều trăm ngàn. Bởi công đúc của kia hồi hướng Niết
bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí. Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa
quyết định cầu tới Nhất thiết trí trí cùng loại hữu tình làm nhiêu ích
lớn. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử thưa Xá Lợi Tử rằng: Bồ tát trọn nên diệu pháp rộng lớn. Nghĩa là
các Bồ tát dạy răn dạy trao kẻ tới Thanh văn thừa khiến siêng tu học Bồ
tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, các Bồ
tát này hơn kẻ Thanh văn thừa. Nếu người
Thanh văn dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát
Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, người Thanh
văn này chẳng hơn kẻ Bồ tát. Ðấy là Bồ tát càng hơn nơi kia! Khi ấy, Xá
Lợi Tử ấn định cụ thọ Mãn Từ Tử! rằng: Như vậy, như vậy. Bồ tát trọn nên
diệu pháp rộng lớn hơn khắp Ðộc giác và Thanh văn.
Nguồn: www.quangduc.com