.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
-
KINH TƯ LƯỢNG
- (Anumanasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Mahamoggallana sống
giữa những người thuộc dòng họ Bhagga, tại núi Sumsumaragira, rừng
Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Ở đây, Tôn giả Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên)
gọi các Tỷ-kheo:
"– Chư Hiền Tỷ-kheo -.
"– Thưa Hiền giả.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahamoggallana. Tôn giả Mahamoggallana nói như sau:
– Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo thỉnh
nguyện: "Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi, mong rằng tôi được
chư Tôn giả nói!" Nhưng nếu vị ấy là một người khó nói, đầy đủ
những tánh khiến người ấy trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung
kính đón nhận khi được giảng dạy thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng,
Tỷ-kheo ấy không đáng nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy không đáng được
giáo huấn, nghĩ rằng không nên đặt lòng tin vào người ấy. Chư Hiền,
thế nào là những tánh khiến người ấy trở thành khó nói? Chư Hiền,
ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục bị ác dục chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo
có ác dục, bị ác dục chi phối, như vậy là một tánh khiến trở thành
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo
khen mình chê người, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói. Lại
nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo
phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối như vậy là một tánh khiến trở thành
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở
thành người có hiềm hận; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm
nhân trở thành người có hiềm hận, như vậy là... khó nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp; chư Hiền,
Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp như vậy là...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt ra những lời liên
hệ đến phẫn nộ; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ... khó nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chống đối vị đã buộc tội
mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở
lại chất vấn vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với
một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận
và bất mãn của mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không giải thích thỏa mãn hành động của
mình cho vị buộc tội; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại
nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại; chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy
và não hại... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham;
chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
lừa đảo và lường gạt; chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt...
khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn; chư Hiền, Tỷ-kheo
ngoan mê và quá mạn... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước
thế tục, co hấp tư kiến, tánh khó hành xả; chư Hiền, Tỷ-kheo chấp
trước thế tục, co hấp tư kiến, tánh khó hành xả, như vậy là một
tánh trở thành khó nói. Chư Hiền, như vậy được gọi là những tánh khiến
trở thành khó nói.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo không thỉnh
nguyện: "Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi, mong rằng tôi được
chư Tôn giả nói!"; Và nếu vị ấy là một người dễ nói, đầy đủ
những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói, kham nhẫn, cung kính
đón nhận khi được nghe giảng dạy, thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng,
Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy đáng được giáo
huấn, nghĩ rằng nên đặt lòng tin vào người ấy. Chư Hiền, thế nào là
những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói? Chư Hiền, ở đây
Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo
không có ác dục, không bị ác dục chi phối, như vậy là một đức tánh
khiến trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khen mình chê
người; chư Hiền, Tỷ-kheo không khen mình chê người... dễ nói. Lại nữa,
chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ,... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận;
chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp; chư Hiền, Tỷ-kheo không
phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ,
không vì phẫn nộ thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ; chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội, không trở lại chống đối vị đã buộc tội mình; chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội không trở lại chỉ trích vị đã khiển trách mình; chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội không trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình; chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội, không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời
ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình, chư
Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo
bị buộc tội, giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội,
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền,
Tỷ-kheo không hư ngụy và não hại, chư Hiền, Tỷ-kheo không hư ngụy và
não hại... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật đố
và xan tham, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật đố và xan tham ... trở thành dễ
nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống và lường gạt. Chư Hiền,
Tỷ-kheo không khi cuống và lường gạt... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư
Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và quá mạn, chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê
và quá mạn... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp
trước thế tục, co hấp tư kiến, tánh dễ hành xả, chư Hiền, Tỷ-kheo
không chấp trước thế tục, không co hấp tư kiến, tánh dễ hành xả, như
vậy là một đức tánh trở thành dễ nói. Chư Hiền, như vậy được gọi
là những đức tánh khiến trở thành dễ nói.
Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải
tư lượng tự ngã với tự ngã như sau: "Người này có ác dục, bị
ác dục chi phối nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu
t ó ác dục, bị ác dục chi phối, các người khác sẽ không ưa ta, không
thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy cần phải phát tâm như sau:
"Ta sẽ không có ác dục, sẽ không bị ác dục chi phối. Người này
khen mình chê người, nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và
nếu ta khen mình chê người, các người khác sẽ không ưa ta, sẽ không
thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như
sau: "Ta sẽ không khen mình chê người. Người này có phẫn nộ, bị phẫn
nộ chi phối, nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không bị
phẫn nộ chi phối"; "Người này phẫn nộ, vì vị phẫn nộ làm
nhân trở thành người hiềm hận nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không
phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận";
"Người này phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành co hấp nên ta
không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân
trở thành co hấp"; "Người này phẫn nộ, thốt ra những lời
liên hệ đến phẫn nộ nên Ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ,
không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ"; "Người này bị
buộc tội, trở lại chống đối vị đã buộc tội mình, nên Ta không ưa
người ấy... T ó bị buộc tội, sẽ không trở lại chống đối vị buộc
tội mình"; "Người này bị buộc tội, trở lại chất vấn vị đã
buộc tội mình, nên ta không ưa người ấy... T ó bị buộc tội, sẽ
không trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình"; "Người này bị
buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài
vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của mình, nên ta không
ưa người ấy... Ta bị buộc tội sẽ không tránh né vấn đề với một vấn
đề khác, không trả lời ra ngoài vấn đề, và không để lộ phẫn nộ,
sân hận bất mãn của mình"; "Người này bị buộc tội, không giải
thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết nên ta không
ưa người ấy... Ta bị buộc tội, sẽ giải thích thỏa mãn hành động của
mình cho vị buộc tội biết"; "Người này hư ngụy và não hại
nên Ta không ưa người ấy... Ta sẽ không hư ngụy và não hại";
"Người này tật đố và xan tham nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ
không tật đố và xan tham"; "Người này khi cuống và lường gạt
nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không khi cuống và lường gạt";
"Người này ngoan mê và quá mạn nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ
không ngoan mê và quá mạn"; "Người này chấp trước thế tục, co
hấp tư kiến, tánh khó hành xả nên ta không ưa người ấy, không thích người
ấy. Và nếu t hấp trước thế tục, co hấp tư kiến, tánh khó hành xả,
các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi
biết vậy, cần phải phát tâm như sau: "Ta sẽ không chấp trước thế
tục, không co hấp tư kiến, tánh dễ hành xả".
Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải
quán sát tự ngã với tự ngã như sau: "Không biết t ó ác dục, có bị
ác dục chi phối không?" Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng:
"T ó ác dục và bị ác dục chi phối", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy
cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "Ta không có ác dục, không bị ác dục
chi phối", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ,
ngày đêm tu học các thiện pháp. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán
sát tự ngã với tự ngã như sau: "Không biết t ó khen mình chê người
hay không? Ta không khen mình chê người... các thiện pháp. Lại nữa...
không biết t ó phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối không...? Ta không có phẫn
nộ, không bị phẫn nộ chi phối... các thiện pháp. Lại nữa... không biết
t ó phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân, trở thành có hiềm hận không...? Ta
không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người hiềm hận...
các thiện pháp. Lại nữa... không biết t ó phẫn nộ làm nhân, trở thành
người co hấp...? Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở
thành người co hấp... các thiện pháp. Lại nữa,... không biết t ó phẫn
nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ...? Ta không có phẫn nộ,
không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ... các thiện pháp. Lại
nữa... Ta bị buộc tội, không biết t ó trở lại chống đối vị đã buộc
tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chống vị đã buộc tội
ta... các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết t ó trở lại
chất vấn vị đã buộc tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chất
vấn vị đã buộc tội ta ... các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội,
không biết t ó tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra
ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta...? Ta bị buộc
tội, ta không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời
ngoài vấn đề, và ta không để lộ sự phẫn nộ, sân hận và bất mãn của
ta... các thiện pháp. Và lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết t ó giải
thích thỏa mãn hành động của t ho vị buộc tội biết... Ta bị buộc tội,
T ó giải thích thỏa mãn hành động của t ho vị buộc tội biết... các
thiện pháp. Lại nữa, không biết t ó hư ngụy và não hại...? Ta không có
hư ngụy và não hại... các thiện pháp. Lại nữa, không biết t ó tật đố
và xan tham...? Ta không có tật đố và xan tham... các thiện pháp. Lại nữa,
không biết t ó khi cuống và lường gạt...? Ta không có khi cuống và lường
gạt... các thiện pháp. Lại nữa... không biết t ó ngoan mê và quá mạn...?
Ta không có ngoan mê và quá mạn... các thiện pháp". Lại nữa, chư Hiền,
ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã như sau: "Không biết t ó
chấp trước thế tục, co hấp tư kiến, tánh khó hành xả không?" Chư
Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "T ó chấp trước thế tục,
co hấp tư kiến, tánh khó hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần
phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "Ta không chấp trước thế tục, không
co hấp tư kiến, tánh dễ hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải
sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo
thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ
trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các
ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy
rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội
tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm
tu học thiện pháp. Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ
tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của
mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước
trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì
người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy
không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ
nghĩ rằng: "Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được
thanh tịnh". Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy
rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm,
thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện
pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác,
bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải
sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Tôn giả Mahamoggallana thuyết giảng
như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Tôn giả
Mahamoggallana.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục