Phần 2
Chương II : Tương Ưng Thiên Tử
I.
Phẩm Thứ Nhất (S.i,46)
I. Kassapa: Ca-diếp (Tạp 49.24 - Ca-diếp, Đại 2,361c) Biệt Tạp 15.19, Đại 2,480c)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Thiên tử Kassapa (Ca-diếp), sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Thế Tôn đề cao Tỷ-kheo và sự giáo giới vị Tỷ kheo cho chúng con.
2) -- Vậy này Kassapa, hãy nói lên ở đây về vấn đề ấy.
3) (Kassapa):
Hãy
học điều khéo nói,
Trong
hạnh nghiệp Sa-môn,
Vắng
lặng, ngồi một mình,
Với
tâm tư an tịnh.
4) Thiên tử Kassapa nói như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên tử Kassapa, sau khi được biết: "Bậc Đạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi biến mất từ chỗ ấy.
II. Kassapa (S.i,46) (Tạp 49.25 Ca-diếp, Đại 2,361c) (Biệt Tạp 15.20, Đại 2,480a)
1) Tại Sàvatthi.
2) Đứng một bên, Thiên tử Kassapa nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:
Với
tâm tư giải thoát,
Vị
Tỷ-kheo tu thiền,
Và
với lòng ước vọng,
Đạt
được tâm sở nguyện.
Sau
khi biết cuộc đời,
Hưng
thịnh và phế tàn,
Tâm
thuần, không nương tựa,
Hưởng
lợi quả như chơn.
III. Màgha (S.i,47) (Tạp 49.16 Ma-khứu, Đại 2,360c) (Biệt Tạp 15.11, Đại 2,478c)
1) Tại Sàvatthi.
2) Rồi Thiên tử Màgha, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Màgha nói với Thế Tôn bài kệ:
3)
Sát vật gì được lạc?
Sát
vật gì không sầu?
Có
một pháp loại gì,
Ngài
tán đồng sát hại,
Tôn
giả Gotama?
(Thế
Tôn)
4)
Sát phẫn nộ được lạc,
Sát
phẫn nộ không sầu,
Phẫn
nộ với độc căn,
Với
vị ngọt tối thượng.
Pháp
ấy bậc Thánh Hiền,
Tán
đồng sự sát hại.
Sát
pháp ấy không sầu,
Này
Hiền giả Thiên nhân.
IV. Màgadha
1) Đứng một bên, Thiên tử Màgadha nói lên với Thế Tôn bài kệ:
Vật
gì chiếu sáng đời,
Do
chúng, đời chói sáng?
Con
đến hỏi Thế Tôn,
Muốn
nghe lời giải đáp.
Bốn
vật chiếu sáng đời,
Thứ
năm đây không có,
Ngày,
mặt trời sáng chói,
Đêm,
mặt trăng tỏ rạng,
Lửa
cháy đỏ đêm ngày,
Chói
sáng khắp mọi nơi,
Chánh
giác sáng tối thắng,
Sáng
này sáng vô thượng.
V. Dàmali (Tạp 49.18, Đàm-ma, Đại 2,360c) (Biệt Tạp 15.13, Đại 2,478c)
1) Tại Sàvatthi.
2) Thiên tử Dàmali, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Dàmali nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:
3)
Ở đây, Bà-la-môn,
Tinh
cần, không biếng nhác,
Đoạn
trừ các dục vọng,
Nhờ
vậy không tái sanh.
4)
Thế Tôn bèn trả lời:
Ôi
này Dàmali,
Với
vị Bà-la-môn,
Không
còn gì phải làm,
Việc
phải làm đã làm,
Chính
là Bà-la-môn.
Chúng
sanh đủ tay chân,
Không
tìm được chân đứng,
Trôi
giạt và chìm nổi,
Trong
biển rộng, sông dài.
Tìm
được chỗ chân đứng,
Khô
ráo vị ấy đứng,
Đã
đến bờ bên kia,
Vị
ấy không trôi giạt.
Vậy
này Dàmali,
Ví
dụ ấy là vậy.
Cũng
vậy Bà-la-môn,
Đoạn
trừ các lậu hoặc,
Sáng
suốt và kín đáo,
Tinh
tấn tu Thiền định.
Vị
ấy đã đạt được,
Tận
cùng đường sanh tử,
Đã
đến bờ bên kia,
Nên
không còn trôi giạt.
VI. Kàmada (S.i,48) (Tạp 49.20 Thực trí, Đại 2, 361a) (Biệt Tạp 15.15, Đại 2, 479a)
1) Đứng một bên, Thiên tử Kàmada bạch Thế Tôn:
2)
Khó làm, bạch Thế Tôn,
Thế
Tôn, thật khó làm.
Tuy
vậy, Kàmada,
Họ
làm việc khó làm,
Chính
các vị hữu học,
Kiên
trì tu giới định,
Đã
chọn đời xuất gia,
Biết
đủ, đem an lạc.
3)
Biết đủ, bạch Thế Tôn,
Biết
đủ, thật khó được.
Tuy
vậy, Kàmada,
Họ
được điều khó được.
Những
vị lòng ưa thích,
Tâm
tư được điều tịnh,
Cả
ngày và cả đêm,
Ý
an lạc tu tập.
4)
Khó tịnh, bạch Thế Tôn,
Tâm
ấy, thật khó tịnh.
Tuy
vậy, Kàmada,
Họ
tịnh tâm khó tịnh.
Những
vị lòng ưa thích,
Các
căn được tịch tịnh,
Cắt
đứt lưỡi tử thần,
Bậc
Hiền Thánh đi tới.
5)
Khó đi, bạch Thế Tôn,
Con
đường thật lồi lõm.
Tuy
vậy, Kàmada,
Bậc
Hiền Thánh vẫn đi.
Trên
con đường khó đi,
Và
có nhiều lồi lõm,
Kẻ
phàm phu vấp ngã,
Trên
đường mất thăng bằng.
Con
đường đối bậc Thánh,
Là
con đường thăng bằng,
Bậc
Thánh bước thăng bằng,
Trên
đường mất thăng bằng.
VII. Pancàlacanda (S.i,48)( Tạp 49.12 Ban-xà-la, Đại 2,358b) (Biệt Tạp 15.7, Đại 2, 477a)
1) Đứng một bên, Thiên tử Pancàlacanda nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:
Dầu
giữa những chướng ngại,
Bậc
Đại trí Chánh giác,
Vẫn
tìm được lối thoát,
Vượt
qua mọi chướng ngại.
Bậc
trí hiểu Thiền định,
Biết
từ bỏ, tối thắng,
Bậc
Mâu-ni, ẩn sĩ,
2)
Thế Tôn lên tiếng:
Pancàlacanda,
Dầu
giữa những chướng ngại,
Họ
tìm được lối thoát,
Họ
tìm được Chánh pháp
Đưa
đến quả Niết-bàn.
Những
vị đạt chánh niệm,
Kiên
trì không dao động,
Họ
là bậc chơn chánh,
Tâm điều phục, định tĩnh.
VIII. Tàyana (S.i,49) (Dhammapada 313, 314, 311, 312 Thera G 277)
1) Rồi Thiên tử Tàyana, trước kia
thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói
sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Tàyana nói lên bài kệ này
trước Thế Tôn:
2)
Ôi này Bà-la-môn,
Tinh
tấn, cắt dòng nước,
Đoạn
trừ và tiêu diệt,
Mọi
tham đắm dục vọng.
Ẩn
sĩ không đoạn dục,
Không
chứng được nhứt tâm.
Nếu
làm việc phải làm,
Cần
kiên trì, tinh tấn.
Xuất
gia, nếu biếng nhác,
Càng
tung vãi bụi trần.
Không
làm, hơn làm dở,
Làm
dở sau khổ đau.
Đã
làm nên làm tốt,
Làm
tốt không khổ đau.
Như
nắm vụng lá cỏ,
Có
thể bị đứt tay.
Sa-môn
hạnh vụng tu,
Kéo
đến cõi địa ngục.
Mọi
sở hành biếng nhác,
Mọi
hạnh tu ô nhiễm,
Ác
hạnh trong Phạm hạnh,
Không
đưa đến quả lớn.
3) Thiên tử Tàyana nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.
4) Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, liền gọi các Tỷ-kheo.
5) -- Này các Tỷ-kheo, đêm nay Thiên tử Tàyana, trước kia thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Tàyana nói lên bài kệ này trước mặt Ta:
6)
"Ôi này Bà-la-môn
Tinh
tấn cắt dòng nước,
Đoạn
trừ và tiêu diệt,
Mọi
tham đắm dục vọng.
Ẩn
sĩ không đoạn dục,
Không
chứng được nhứt tâm.
Nếu
làm việc khó làm,
Cần
kiên trì tinh tấn,
Xuất
gia nếu biếng nhác,
Càng
tung vãi bụi trần.
Không
làm, hơn làm dở,
Làm
dở sau khổ đau.
Đã
làm nên làm tốt,
Làm
tốt không khổ đau.
Như
nắm vụng lá cỏ,
Có
thể bị đứt tay,
Sa-môn
hạnh vụng tu,
Kéo
đến cõi địa ngục.
Mọi
sở hành biếng nhác,
Mọi
hạnh tu ô nhiễm,
Ác
hạnh trong Phạm hạnh,
Không đưa đến quả lớn."
7) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Tàyana nói như vậy. Nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta và biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy đọc bài kệ của Tàyana. Này các Tỷ-kheo, hãy học thuộc lòng bài kệ của Tàyana. Này các Tỷ-kheo, bài kệ của Tàyana có đầy đủ nghĩa lợi và chính là căn bản của Phạm hạnh.
IX. Candima (S.i,50) Nguyệt Thiên tử (Tạp 22.8 Nguyệt Thiên tử, Đại 2, 155a) (Biệt Tạp 9.7, Đại 2, 436a)
1) Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ).
Lúc bấy giờ, Thiên tử Candima bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Candima, tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
2)
Đảnh lễ đấng Giác Ngộ,
Bậc
Anh Hùng muôn thuở,
Ngài
là bậc Giải Thoát,
Thoát
ly thật viên mãn,
Còn
con bị trói buộc,
Hãy
cho con quy ngưỡng.
3) Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:
Canda
đã quy y,
Như
Lai, bậc La-hán,
Ràhu,
hãy thả nó,
Vì chư Phật thương đời.
4) Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:
5)
Vì sao, như hốt hoảng,
Ràhu
thả Canda,
Ông
đến, lòng run sợ,
Ông
đứng, tâm kinh hoàng?
6)
-- Đầu con bể thành bảy,
Đời
con không hạnh phúc,
Với
lời kệ đức Phật,
Nếu
không thả Canda.
X. Suriya: (S.i,51) Nhật Thiên tử...
1) Lúc bấy giờ, Thiên tử Suriya bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Suriya tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
2)
Đảnh lễ đấng Giác Ngộ,
Bậc
Anh Hùng muôn thuở,
Ngài
là bậc Giải Thoát,
Thoát
ly thật viên mãn,
Còn
con bị trói buộc,
Hãy
cho con quy ngưỡng.
3)
Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Suriya, nói lên bài kệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:
Suriya
đã quy y,
Như
Lai bậc La-hán,
Ràhu,
hãy thả nó,
Vì
chư Phật thương đời.
Ông
đi giữa hư không,
Chớ
nuốt Suriya,
Trong
thế giới tối tăm,
Đã
đem lại ánh sáng,
Là
mặt trời sáng chói,
Là
dĩa tròn hực đỏ,
Là
lò lửa cháy nóng,
Là
bà con của Ta.
Này
Ràhu, (Ta nói):
Hãy thả Suriya.
4) Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Suriya. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:
5)
Vì sao, như hốt hoảng,
Ràhu,
thả Suriya,
Ông
đến, lòng run sợ,
Ông
đứng, tâm kinh hoàng?
6)
-- Đầu con bể thành bảy,
Đời
con không hạnh phúc,
Với
lời kệ đức Phật,
Nếu
không thả Suriya.
II Phẩm Cấp Cô Độc (S.i,51)
I. Candimasa
Tại Sàvatthi.
1)Rồi Thiên tử Candimasa, sau khi đêm đã gần mãn,với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Candimasa nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
2)
Họ sẽ đi an toàn,
Như
thú, vùng không muỗi,
Sau
khi chứng Thiền định,
Nhứt
tâm, niệm tỉnh giác,
Họ
sẽ đi bờ kia,
Như
cá, phá rách lưới,
Sau
khi chứng Thiền định,
Tự
chế, vượt lỗi lầm.
II. Vendu (S.i,52)
1)
Đứng một bên, Thiên tử Vendu nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
2)
Hạnh phúc thay những người,
Sau
khi hầu Thiện Thệ,
Tuân
phụng lời Ngài dạy,
Tu
học không phóng dật!
3)
Thế Tôn nói: Vendu!
Những
ai Thiền tu học.
Trong
pháp cú Ta dạy,
Tinh
cần, không phóng dật,
Đúng
thời họ sẽ đi,
Thoát
khỏi tay tử thần.
III. Diighalatthi (S.i,52)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Thiên tử Diighalatthi, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Diighalatthi nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Với
tâm tư giải thoát,
Vị
Tỷ-kheo tu Thiền,
Và
với lòng ước vọng,
Đạt
được tâm sở nguyện,
Sau
khi biết cuộc đời,
Sanh
khởi rồi đoạn diệt,
Tâm
thuần không chấp trước,
Hưởng
lợi quả như chơn.
IV. Nandana (S.i,52)
1) Đứng một bên, Thiên tử Nandana nói bài kệ với Thế Tôn:
Con
hỏi Gotama,
Bậc
Đại Giác toàn trí,
Con
hỏi đấng Thế Tôn,
Với
tri kiến vạn năng.
Người
nào gọi trì giới?
Người
nào gọi trí tuệ?
Người
nào vượt sầu khổ?
Người
nào chư Thiên lạy?
(Thế
Tôn):
2)
Ai hộ trì giới luật,
Trí
tuệ, tâm tu trì,
Chú
tâm, vui Thiền định,
Tâm
tư trú chánh niệm,
Tất
cả mọi sầu khổ,
Được
trừ diệt, đoạn tận,
Các
lậu hoặc tận trừ,
Sống
với thân tối hậu,
Vị
ấy gọi trì giới,
Vị
ấy gọi trí tuệ,
Vị
ấy vượt sầu khổ,
Vị
ấy chư Thiên lạy.
V. Candana: Chiên Đàn (S.i,53)
1)Đứng một bên, Thiên tử Candana nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Làm
sao vượt bộc lưu,
Ngày
đêm vững, kiên trì,
Không
trú, không bám víu,
Ai
không chìm vực sâu?
(Thế
Tôn):
2)
Vị luôn luôn trì giới,
Trí
tuệ, khéo định tĩnh,
Chí
siêng năng dõng mãnh,
Vượt
bộc lưu khó vượt.
Vị
đoạn, ly dục tưởng,
Vượt
khỏi sắc triền phược,
Đoạn
tận hỷ, hữu ái,
Không
chìm xuống vực sâu.
VI. Sudatta (Tu-đạt-đa)
1) Đứng một bên,
Thiên tử Sudatta nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Như
kiếm đã chạm da,
Như
lửa cháy trên đầu,
Tỷ-kheo
hãy chánh niệm,
Xuất
gia, bỏ ái dục.
(Thế
Tôn):
2)
Như kiếm đã chạm da,
Như
lửa cháy trên đầu,
Tỷ-kheo
hãy chánh niệm,
Xuất
gia, bỏ thân kiến.
VII. Subrahmàؠ(S.i,53)
1) Đứng một bên, Thiên tử Subrahmà nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Tâm
này thường sợ hãi,
Ý
này thường dao động,
Điều
mong ước không khởi,
Điều
không mong lại khởi,
Nếu
có, không sợ hãi,
Hãy
nói điều con hỏi.
(Thế
Tôn):
2)
Không ngoài hạnh giác chi,
Không
ngoài hộ trì căn,
Không
ngoài bỏ tất cả,
Ta
thấy các pháp ấy,
Đưa
đến sự an toàn,
Cho
tất cả chúng sanh.
3) Rồi Thiên tử biến mất tại chỗ ấy.
VIII. Kakudha (S.i,54)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàketa, rừng Anjana, tại vườn Nai. Rồi Thiên tử Kokudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn khu rừng Anjana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
2) Đứng một bên, Thiên tử Kakudha bạch Thế Tôn:
Thưa Sa-môn, Ngài có hoan hỷ không?
Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?
Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn?
Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn?
Vậy thời thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
Thật như vậy, này Hiền giả.
3)
Làm sao, này Tỷ-kheo,
Ngài
không có sầu muộn,
Tuy
vậy, Ngài cũng không
Có
được sự hoan hỷ?
Làm
sao nay Ngài lại,
Ngồi
cô độc một mình,
Không
có được hoan hỷ,
Cũng
không bị dao động?
4)
Thật sự, này Dạ-xoa,
Ta
không có sầu muộn,
Tuy
vậy ở nơi Ta,
Hoan
hỷ không khởi lên,
Dầu
nay Ta có ngồi,
Riêng
một mình cô độc,
Ta
không có hoan hỷ,
Cũng
không bị dao động.
5)
Làm sao, này Tỷ-kheo,
Ngài
không có sầu muộn,
Làm
sao ở nơi Ngài,
Hoan
hỷ không khởi lên?
Làm
sao nay Ngài lại,
Ngồi
cô độc một mình,
Không
có được hoan hỷ,
Cũng
không bị dao động?
6)
Hoan hỷ chỉ có đến,
Với
người tâm sầu muộn,
Sầu
muộn chỉ có đến,
Với
người tâm hoan hỷ.
Do
vậy, vị Tỷ-kheo,
Không
hoan hỷ, sầu muộn.
Vậy
nên, này Hiền giả,
Ông
phải biết như vậy.
7)
Đã lâu, con mới thấy,
Bà-la-môn
tịch tịnh,
Vị
Tỷ-kheo không sầu,
Cũng
không có hoan hỷ,
Đã
an toàn vượt khỏi,
Chỗ
người đời đắm say.
IX. Uttara (S.i,54)
1) Nhân duyên tại thành Vương Xá.
Đứng một bên,
Thiên tử Uttara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
2)
Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi
thọ chẳng là bao,
Bị
dẫn đến già nua,
Không
có nơi dừng bước.
Ai
đem tâm quán tưởng,
Sợ
hãi tử vong này,
Hãy
làm các công đức,
Đưa
đến chơn an lạc.
3)
Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi
thọ chẳng là bao,
Bị
dẫn đến già nua,
Không
có nơi dừng bước.
Ai
đem tâm quán tưởng,
Sợ
hãi tử vong này,
Hãy
bỏ mọi thế lợi,
Tâm
hướng cầu tịch tịnh.
X. Anàthapindika: Cấp Cô Độc (S.i,55)
1) Đứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Độc nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Đây
là rừng Kỳ Viên,
Chỗ
trú xứ Thánh chúng,
Chỗ
ở đấng Pháp Vương,
Khiến
tâm con hoan hỷ.
Nghiệp,
minh và tâm pháp,
Giới
và tối thắng mạng,
Chính
những diệu pháp ấy,
Khiến
chúng sanh thanh tịnh,
Không
phải vì dòng họ,
Không
phải vì tài sản.
Do
vậy bậc Hiền giả,
Thấy
lợi ích chính mình,
Chánh
giác sát tâm pháp,
Như
vậy được thanh tịnh.
Như
ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ,
giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo
đến bờ giác,
Ở
đây là tối thượng.
2) Thiên tử Anàthapindika nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ ấy.
3) Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo và nói:
4) Này các Tỷ-kheo, đêm nay có Thiên tử, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy nói lên bài lệ này trước mặt Ta:
5)
"Đây là rừng Kỳ Viên,
Chỗ
trú xứ Thánh chúng,
Chỗ
ở đấng Pháp Vương,
Khiến
tâm con hoan hỷ.
Nghiệp,
minh và tâm pháp,
Giới
và tối thắng mạng,
Chính
những diệu pháp ấy,
Khiến
chúng sanh thanh tịnh,
Không
phải vì dòng họ,
Không
phải vì tài sản.
Do
vậy bậc Hiền giả,
Thấy
lợi ích chính mình,
Chánh
giác sát tâm pháp,
Như
vậy được thanh tịnh.
Như
ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ,
giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo
đến bờ giác,
Ở
đây là tối thượng."
6) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử ấy nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
7) Được nghe nói như vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, có phải vị Thiên tử ấy là Anàthapindika?Gia chủ Anàthapindika hết dạ tín thành đối với Tôn giả Sàriputta?
8)Lành
thay! Lành thay! Này Ananda, cho đến những gì có thể đạt được nhờ suy
diễn, này Ananda, Ông đã đạt được. Này Ananda, Anàthapindika là vị
Thiên tử ấy.
III. Phẩm Các Ngoại Đạo (S.i,56)
I. Siva
1) Như vậy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Thiên tử Siva, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Siva nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
2)
Hãy thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền,
Chỉ
tốt hơn, không xấu.
Hãy
thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền,
Được
tuệ, không gì khác.
Hãy
thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền,
Không
sầu giữa sầu muộn.
Hãy
thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền,
Chói
sáng giữa quyến thuộc.
Hãy
thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền,
Chúng
sanh sanh thiện thú.
Hãy
thân với người lành,
Hãy
gần gũi người thiện,
Biết
diệu pháp người hiền
Chúng
sanh thường hưởng lạc.
2)Rồi Thế Tôn đáp lại Thiên tử Siva với bài kệ:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải
thoát mọi khổ đau.
II. Khema (S.i,57)
Đứng một bên, Thiên tử Khema nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Kẻ
ngu không trí tuệ,
Lấy
ngã làm kẻ thù,
Tự
làm các ác nghiệp,
Đưa
đến quả đắng cay.
Nghiệp
nào không khéo làm,
Làm
xong bị nung nấu,
Với
mặt đầy nước mắt,
Khóc
lóc chịu quả báo.
Và
nghiệp nào khéo làm,
Làm
xong, không nung nấu,
Tâm
vui, ý thoải mái,
Vị
ấy hưởng quả báo.
Biết
điều lợi cho mình,
Làm
trước điều phải làm,
Không
tâm trạng đánh xe,
Kẻ
trí lòng tinh tấn.
Như
người chủ đánh xe,
Rời
đại đạo thăng bằng,
Leo
lên đường lồi lõm,
Ưu
tư nạn gãy trục.
Cũng
vậy bỏ Chánh pháp,
Người
ngu theo phi pháp,
Rơi
vào miệng tử thần,
Ưu
tư như gãy trục.
III. Serii (S.i,57)
1) Đứng một bên, Thiên tử Serii nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Cả
hai loại Trời, Người,
Đều
ưa thích ăn uống,
Có
Dạ-xoa tên nào,
Lại
không thích ăn uống!
(Thế
Tôn)
Ai
cho với lòng tin,
Với
tâm tư thanh tịnh,
Được
phần món ăn ấy,
Đời
này và đời sau.
Vậy
hãy ngăn xan tham,
Bố
thí, nhiếp cấu uế,
Chúng
sanh vẫn hưởng thọ,
Công
đức trong đời sau.
2) Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói điều khéo nói như vậy:
"Ai
cho với lòng tin,
Với
tâm tư thanh tịnh,
Được
phần món ăn ấy,
Đời
này và đời sau.
Vậy
hãy ngăn xan tham,
Bố
thí, nhiếp cấu uế,
Chúng
sanh vẫn hưởng thọ,
Công
đức trong đời sau."
3) Bạch Thế Tôn, thuở xưa con là vị vua tên Serii ưa bố thí, là bậc thí chủ tán thán bố thí. Bạch Thế Tôn, tại bốn cửa thành, bố thí được phân phát nhân danh con, cho những ai đến xin, cho các vị Bà-la-môn và Sa-môn, cho các người nghèo đói và tàn phế, cho các nhà lữ hành và hành khất.
4) Bạch Thế Tôn, khi con đến các cung phi của con, họ thưa với con: "Đại vương thường hay bố thí, còn chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức."
5) Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho các cung phi cửa thành thứ nhất. Ở đây các cung phi được bố thí, và bố thí của con trở lui lại cho con.
6) Rồi bạch Thế Tôn, các Sát-đế-lỵ (Khattiya) chư hầu của con đến con và thưa: "Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức".
Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho các chư hầu Khattiya cửa thành thứ hai. Ở đây các chư hầu Khattiya được bố thí, và bố thí của con được trở lui lại cho con.
7) Rồi bạch Thế Tôn, quân đội đến con và thưa: "Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức".
Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho quân đội cửa thành thứ ba. Ở đây quân đội được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.
8) Rồi bạch Thế Tôn, các Bà-la-môn gia chủ đến con và thưa: "Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Quân đội đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức!".
Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: "Chúng ta hãy bố thí"?". Bạch Thế Tôn, con cho các Bà-la-môn gia chủ cửa thành thứ tư. Ở đây các Bà-la-môn gia chủ được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.
9) Rồi bạch Thế Tôn, các người của con đến con và thưa: "Nay Đại vương không còn bố thí nào để cho nữa".
Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các người ấy như sau: "Này các Ông, các thuế má thâu hoạch được từ các nước ngoài vào, một nửa hãy gửi vào trong nội thành, một nửa ngay tại chỗ ấy đem bố thí cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các người nghèo và tàn tật, các nhà lữ hành và hành khất".
10) Như vậy, bạch Thế Tôn, con không chấm dứt trong một thời gian dài các việc làm công đức, trong một thời gian dài các việc làm thiện, những việc làm được con xem như là công đức, hay như là công đức quả hay như là những điều kiện được sanh thiên giới.
11) Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy:
"Ai
cho với lòng tin,
Với
tâm tư thanh tịnh,
Được
phần món ăn ấy,
Đời
này và đời sau.
Vậy
hãy ngăn xan tham,
Bố
thí, nhiếp cấu uế,
Chúng
sanh vẫn hưởng thọ,
Công
đức trong đời sau."
IV. Ghatiikara (S.i,60)
1) Đứng một bên,
Thiên tử Ghatiikara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Được
sanh Vô phiền thiên,
Bảy
Tỷ-kheo giải thoát,
Đoạn
tận tham và sân,
Siêu
thoát đời ái trược.
2)
Vượt bùn, họ là ai?
Khó
vượt lệnh thần chết,
Sau
khi bỏ thân người,
Họ
thoát ách chư Thiên.
3)
Họ là Upaka,
Và
Phalaganda,
Với
Pukkusàti,
Hợp
thành là ba vị.
Lại
thêm Bhaddiya,
Với
Khandadeva,
Và
Bàhuraggi,
Cùng
với Pingiya,
Sau
khi bỏ thân người,
Họ
thoát ách chư Thiên.
(Thế
Tôn):
4)
Ông nói điều tốt lành,
Về
bảy Tỷ-kheo ấy,
Họ
thoát ly, đoạn trừ,
Các
cạm bẫy Ma vương.
Pháp
họ biết, của ai
Đoạn
được hữu kiết sử?
(Ghatiikara):
5)
Không ai ngoài Thế Tôn,
Chính
thật giáo lý Ngài,
Họ
biết pháp của Ngài,
Đoạn
được hữu kiết sử.
Chỗ
nào danh và sắc,
Được
đoạn diệt không dư,
Họ
học được pháp ấy,
Ở
đây từ nơi Ngài.
Nhờ
vậy họ đoạn trừ,
Hữu
kiết sử trói buộc.
(Thế
Tôn):
6)
Lời Ông nói thâm sâu,
Khó
biết, khó chứng ngộ,
Pháp
Ông biết của ai,
Sao
Ông không nói được?
(Ghatiikara):
7)
Thuở xưa, con thợ gốm,
Tại
Vehalinga,
Và
con được tên gọi,
Là
Ghatiikara.
Chính
con lo nuôi dưỡng
Cả
mẹ lẫn cả cha,
Đối
với Phật Ca-diếp,
Con
đệ tử tại gia.
Con
viễn ly dâm dục,
Phạm
hạnh, không thế vật,
Thuở
xưa, con đồng hương,
Cũng
là bạn của họ
Do
vậy con biết họ,
Bảy
Tỷ-kheo giải thoát,
Đoạn
tận tham và sân,
Vượt
qua đời phiền trược.
(Thế
Tôn):
8)
Vậy này Bhaggava,
Chính
như Ông vừa nói,
Thuở
xưa, Ông thợ gốm,
Tại
Vehalinga,
Và
Ông được tên gọi,
Là
Ghatiikara,
Chính
Ông lo nuôi dưỡng
Cả
mẹ lẫn cả cha,
Đối
với Phật Ca-diếp,
Ông
đệ tử tại gia,
Ông
viễn ly dâm dục,
Phạm
hạnh, không thế vật.
9)
Thuở xưa, Ông đồng hương,
Cũng
là bạn của Ta.
Như
vậy là hội ngộ,
Giữa
những bạn thuở xưa,
Cả
hai khéo tu tập,
Mang
thân này tối hậu.
V. Jantu ( S.i,61)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời một số đông Tỷ-kheo trú ở Kosala (Câu-tát-la), trên sườn núi Himavanta (Tuyết sơn), tại một cốc nhỏ trong rừng. Họ tự cao, tự mãn, dao động, lắm mồm lắm miệng, ăn nói huyên thuyên, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tư tán loạn, các căn không chế ngự.
2) Rồi Thiên tử Jantu, vào đêm Bố-tát, ngày rằm, đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói lên bài kệ với các Tỷ-kheo ấy:
Các
Tỷ-kheo thuở xưa,
Sống
thật chơn an lạc,
Họ
thật là đệ tử,
Bậc
Đại Giác Cù-đàm.
Không
ham tìm món ăn,
Không
ham tìm chỗ trú,
Biết
đời là vô thường,
Họ
chấm dứt khổ đau.
Nay
tự làm ác hạnh,
Như
thôn trưởng trong làng.
Họ
ăn, ăn ngả gục,
Thèm
khát vật nhà người.
Con
vái chào chúng Tăng,
Đảnh
lễ một vài vị
Kẻ
khác, sống vất vưởng,
Không
chỉ đạo, hướng dẫn.
Họ
giống như thân thể
Kẻ
chết bị quăng bỏ.
Những
ai sống phóng dật,
Vì
họ con nói lên,
Những
ai không phóng dật,
Chân
thành, con đảnh lễ.
VI. Rohita (S.i,61)
1) Tại Sàvatthi (Xá-vệ).
2) Đứng một bên, Thiên tử Rohitassa bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, làm sao, bạch Thế Tôn, với bộ hành, có thể biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới?
3) -- Này Hiền giả, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, Ta nói rằng (tại chỗ ấy), không có thể với bộ hành, biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới.
4) -- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: "Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể với bộ hành biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới".
5) Bạch Thế Tôn, thuở trước, con tên là Rohita con của Bhoja, có thần thông, có thể đi giữa hư không. Bạch Thế Tôn, tốc lực con mau lẹ cho đến con có thể bay, như người thợ bắn cung lão luyện, khéo tập, khéo luyện, thuần thục, thiện xảo, với một cây cung chắc mạnh không gì khó khăn, có thể bắn một mũi tên nhẹ bay vượt qua bóng tối của cây tala.
6) Và bạch Thế Tôn, bước đi của con dài cho đến con có thể bước từ biển phía Đông qua biển phía Tây. Và ở nơi con, bạch Thế Tôn, khởi lên sự ước muốn như sau: "Với bộ hành, ta có thể đạt đến được sự tận cùng của thế giới".
7) Và bạch Thế Tôn, dầu cho tốc lực của con mau đến như vậy, và dầu cho con có bước dài đến như vậy, và dầu cho con không có dừng để ăn, hay uống, hay nhai, hay nếm, dầu cho con không có đại tiện, tiểu tiện, dầu cho con không ngủ, không bị mệt nhọc, không trừ cấu uế, dầu cho trăm năm là tuổi thọ thường tình, dầu cho trăm năm là mạng sống thường tình, tuy con đi hơn trăm năm và bị mệnh chung, con cũng không thể đạt đến sự tận cùng của thế giới.
8) Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: "Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi. Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể bộ hành, biết được hay thấy được sự tận cùng của thế giới. Ta nói như vậy".
9) -- Này Hiền giả, nhưng Ta cũng không nói rằng không đạt được sự tận cùng của thế giới thời chấm dứt cuộc khổ đau. Này Hiền giả, chính trong cái thân thể dài một tầm có tưởng, có ý này, Ta tuyên bố thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn diệt thế giới và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới.
10)
Bộ hành không bao giờ
Đạt
được thế giới tận,
Không
đạt thế giới tận,
Không
thể thoát khỏi khổ.
Do
vậy, bậc Hiền thiện,
Thế
gian giải, Thiện tuệ,
Đạt
đến thế giới tận,
Phạm
hạnh được viên thành.
Với
tâm tư định tĩnh,
Biết
được thế giới tận,
Không
ước vọng đời này,
Không
ước vọng đời sau.
VII. Nanda: (S.i,62) (Xem trước I, 1*4).
1) Đứng một bên, Thiên tử Nanda nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Thời
gian lặng trôi qua,
Đêm
ngày luôn di động,
Tuổi
tác buổi thanh xuân,
Tiếp
tục bỏ chúng ta.
Những
ai chịu quán sát,
Sợ
hãi tử vong này,
Hãy
làm các công đức,
Được
hưởng cảnh an lạc.
(Thế
Tôn):
2)
Thời gian lặng trôi qua,
Đêm
ngày luôn di động,
Tuổi
tác buổi thanh xuân,
Tiếp
tục bỏ chúng ta.
Những
ai chịu quán sát,
Sợ
hãi tử vong này,
Hãy
bỏ mọi thế lợi,
Được
hưởng chơn tịch tịnh.
VIII. Nandivisàla: (S.i,63)
1) Đứng một bên, Thiên tử Nandivisàla nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Bốn
bánh xe chín cửa,
Đầy
uế, hệ lụy tham,
Chìm
đắm trong bùn nhơ,
Ôi!
Thưa bậc Đại Hùng,
Sanh
thú Ngài như vậy,
Tương
lai sẽ thế nào?
(Thế
Tôn):
2)
Cắt hỷ và buộc ràng,
Dục
tham và tà ác,
Ái
căn được đoạn tận,
Sanh
thú sẽ như vậy.
IX. Susima (S.i,63)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Đại đức Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Đại đức Ananda đang ngồi một bên:
-- Này Ananda, Ông có hoan hỷ đối với Sàriputta không?
3) -- Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quảng tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, hỷ tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tiệp tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, lợi tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quyết trạch tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ít dục là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biết đủ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, viễn ly là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, bất cộng trú là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tinh cần, tinh tấn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biện tài là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, nghe lời trung ngôn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, cáo tội trung thực là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta.
Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta!
4) -- Như vậy là phải, này Ananda. Như vậy là phải, này Ananda. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta? Này Ananda, hiền trí là Sàriputta. Này Ananda, đại tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quảng tuệ là Sàriputta. Này Ananda, hỷ tuệ là Sàriputta. Này Ananda, tiệp tuệ là Sàriputta. Này Ananda, lợi tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quyết trạch tuệ là Sàriputta. Này Ananda, ít dục là Sàriputta. Này Ananda, biết đủ là Sàriputta. Này Ananda, viễn ly là Sàriputta. Này Ananda, bất cọng trú là Sàriputta. Này Ananda, biện tài là Sàriputta. Này Ananda, nghe lời trung ngôn là Sariputta. Này Ananda, cáo tội trung thực là Sàriputta. Này Ananda, chỉ trích ác pháp là Sàriputta. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm, lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta?
5) Rồi Thiên tử Susima, trong khi được nghe lời tán thán về Tôn giả Sàriputta, với đại chúng Thiên tử đoanh vây, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
6) Đứng một bên, Thiên tử Susima bạch Thế Tôn:
-- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn. Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?. Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta...... Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? Bạch Thế Tôn, con đi đến chúng Thiên tử nào, con đều được nghe nhiều lần tiếng nói như vậy: "Hiền trí là Tôn giả Sàriputta... ... chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Ai không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?"
7) Rồi chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.
8) Ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo giũa, khéo mài, được đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.
9) Ví như một đồ trang sức bằng vàng mịn được một người thợ vàng thiện xảo, khéo đập, khéo mài, đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, Thiên tử chúng của Thiên tử Susima... ... và thân chói sáng màu sắc thù thắng.
10) Ví như trong khi đêm đã gần sáng, sao mai chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima... ... và thân chói sáng màu sắc thù thắng.
11) Ví như trong mùa thu, trên trời các vòng mây đã được bay sạch, mặt trời mọc lên giữa trời, đánh tan màn đêm, khắp giữa hư không chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng.
12) Rồi Thiên tử Susima, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Sàriputta:
Ngài
Sàriputta,
Được
mọi người xác nhận,
Là
bậc Đại hiền trí,
Không
phẫn hận, ít dục,
Nhu
thuận và điều phục,
Được
Đạo Sư tán thán.
13) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ về Sàriputta cho Thiên tử Susima:
Về
Sàriputta,
Mọi
người đều xác nhận,
Là
bậc Đại hiền trí,
Không
phẫn hận, ít dục,
Nhu
thuận và điều phục,
Như
người khéo điều phục,
Chờ
đợi thời giờ đến,
Để
hưởng quả thuần thục.
X. Cáac Ngoại Đạo Sư (S.i,65)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở thành Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi rất đông Thiên tử, là đệ tử của nhiều ngoại đạo sư Asama, Sahalii, Ninka, Akotaka, Vetambarii và Mànavà Gàmiya, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Đứng một bên, Thiên tử Asama nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Pùrana Kassapa:
Ở
đây nếu có người,
Chém
giết hay hại người,
Kassapa
không thấy,
Qua
các hành động ấy,
Là
ác nghiệp cho mình,
Hay
công đức cho mình.
Ngài
tuyên bố như vậy,
Làm
căn bản đức tin,
Ngài
thật bậc Đạo sư,
Đáng
được tôn kính, lễ.
4) Rồi Thiên tử Sahali nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Makkhali Gosàla:
Khổ
hạnh và yếm ly,
Khéo
điều phục, tự chế,
Từ
bỏ các lời nói,
Gây
đấu tranh với người,
Thăng
bằng, tránh phạm tội,
Nói
những lời thực ngữ,
Ngài
không bao giờ làm,
Các
tội phạm như vậy.
5) Rồi Thiên tử
Ninka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Nigantha Nàtaputta:
Vị
Tỷ-kheo yếm ly,
Sáng
suốt theo tế hạnh,
Khéo
theo bốn tự chế,
Chỉ
nói điều nghe thấy,
Không
phạm điều lỗi lầm.
6) Rồi Thiên tử Akotaka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về các ngoại đạo sư:
Các
ngoại đạo sư này,
Như
Pakudhaka,
Và
Kàtiyàna,
Cùng
với Nigantha,
Kể
cả Makkhali,
Và
cả Puurana,
Mỗi
vị là Đạo sư,
Chúng
đệ tử của mình,
Đã
đạt Sa-môn quả,
Không
xa bậc Chân nhân.
7) Rồi Thiên tử Vetambarii nói lên bài kệ này với Thiên tử Akotaka:
Con
giả can ghê tởm,
Có
tru sủa thế nào,
Làm
sao sánh bằng được,
Tiếng
rống con sư tử.
Lỏa
thể, nói vọng ngôn,
Lãnh
đạo môn đồ chúng,
Làm
các hạnh tà vạy,
Làm
sao sanh thiện nhân?
8) Rồi Ác ma nhập vào Thiên tử Vetambarii nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Tu
khổ hạnh yếm ly,
Sống
viễn ly hành xác,
Đắm
say trong sắc pháp,
Hoan
lạc, mê Thiên giới.
Dầu
họ bị tử vong,
Chắc
chắn họ giảng dạy,
Hướng
dẫn thật chơn chánh,
Đưa
đến đời về sau.
9) Rồi Thế Tôn biết được chính là Ác ma, liền nói lên bài kệ cho Ác ma:
Phàm
những sắc pháp gì,
Đời
này hay đời sau,
Với
màu sắc thù diệu,
Chói
sáng giữa hư không,
Tất
cả những sắc ấy,
Được
Ma vương tán thán,
Chúng
chỉ là bẫy mồi,
Quăng
ra để diệt cá.
10) Rồi Thiên tử Mànava Gàmiya nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Thế Tôn:
rong
tất cả ngọn núi,
Ở
tại Vương Xá thành,
Ngọn
núi Vipula,
Được
gọi là tối thắng.
Trong
dãy núi Tuyết Sơn,
Ngọn
Bạch Sơn tối thắng.
Giữa
các loại không hành,
Mặt
trời là tối thắng.
Giữa
các loại thủy lộ,
Đại
dương là tối thắng.
Trong
các loài tinh tú,
Mặt
trăng là tối thắng.
Giữa
Thiên giới, địa giới,
Phật được gọi tối thượng
| 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com