Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như
người vừa nói. Vì tất cả pháp tự tướng đều không, vô lấy vô bỏ; nhưng các
hữu tình đối nghĩa tất cả pháp tự tướng không chẳng hiểu rõ được. Vì
thương xót kia nên phương tiện tuyên nói Bồ đề phần pháp năng lấy Bồ đề.
Lại nữa. Thiện Hiện! Hoặc sắc, hoặc thọ
tưởng hành thức. Hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Hoặc sắc xứ,
hoặc thanh hương vị xúc pháp xứ. Hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý
giới. Hoặc sắc giới, hoặc thanh hương vị xúc pháp giới. Hoặc nhãn thức
giới, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc. Hoặc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Hoặc địa giới, hoặc thủy hỏa phong không
thức giới. Hoặc vô minh; hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ xúc thọ, ái,
thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não. Hoặc bố thí Ba la mật đa; hoặc
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc nội không; hoặc ngoại không, nội ngoại
không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả
đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Hoặc chơn
như, hoặc pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới.
Hoặc sơ tĩnh lự; hoặc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ
tĩnh lự. Hoặc từ vô lượng, hoặc bi hỷ xả vô lượng. Hoặc không vô biên xứ;
hoặc thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc bốn
niệm trụ; hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng
giác chi, tám thánh đạo chi. Hoặc khổ thánh đế, hoặc tập diệt đạo thánh
đế. Hoặc không giải thoát môn; hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Hoặc tám giải thoát; hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Hoặc tất cả tam ma địa môn, hoặc tất cả đà
la ni môn. Hoặc Cực hỷ địa; hoặc Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa,
Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ
địa. Pháp vân địa. Hoặc năm nhãn, hoặc sáu thần thông. Hoặc Phật mười lực;
hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc đại
từ; hoặc đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc pháp vô vong thất, hoặc tánh hằng
trụ xả. Hoặc nhất thiết trí; hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Hoặc quả Dự lưu; hoặc quả nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Hoặc tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc
dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hoặc
hữu vi giới, hoặc vô vi giới. Tất cả như thế thảy, với trong Thánh pháp Tỳ
nại da Luật tạng đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không
hợp, không tan không sắc, không kiến, không đối, nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng. Phật vì nhiêu ích các loại hữu tình khiến được hiểu chơn chánh, vào
pháp thật tướng dùng thế tục thuyết, chẳng dùng thắng nghĩa. Thiện Hiện!
Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp như thế, nên học trí kiến. Học trí
kiến rồi, như thật thông đạt các pháp như vầy nên đáng nhiếp thọ, các pháp
như vầy chẳng nên nhiếp thọ.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát đối những
pháp nào học trí kiến rồi, như thật thông đạt chẳng nên nhiếp thọ? Đối
những pháp nào học trí kiến rồi, như thật thông đạt đáng nên nhiếp thọ?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát đối pháp các
Thanh văn, bậc Độc giác, học trí kiến rồi, như thật thông đạt chẳng nên
nhiếp thọ. Đối các pháp tương ứng Nhất thiết trí trí, học trí kiến rồi,
như thật thông đạt tất cả chủng tướng đáng nên nhiếp thọ. Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát đối trong Thánh pháp Tỳ nại da Luật tạng đây, nên học Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Phật nói Thánh pháp Tỳ nại da Luật tạng ấy, những gì tên
Thánh pháp Tỳ nại da?
Phật nói: Thiện Hiện! Hoặc các Thanh văn,
hoặc các Độc giác, hoặc các Bồ tát Ma ha tát, hoặc các Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác. Tất cả như thế đều cùng tham dục giận dữ ngu si chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng tát ca da
tà kiến, giới cấm thủ, nghi chẳng tương ưng. chẳng phải chẳng tương ưng
chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng dục tham giận dữ chẳng tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng sắc ái, vô sắc ái, sắc động
loạn, vô minh chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng
tan.
Đều cùng sơ tĩnh lự chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng đệ nhị, đệ tam, đệ tứ
tĩnh lự chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng từ vô lượng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
hợp chẳng tan; đều cùng bi hỷ xả vô lượng chẳng tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng định không vô biên xứ chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng định
thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng bốn niệm trụ chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng bốn chánh đoạn,
bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng khổ
thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan;
đều cùng tập diệt đạo thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương
ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng không giải thoát môn chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng,
chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng tâm giải thoát chẳng tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp
chẳng tan.
Đều cùng năm nhãn chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng sáu thần thông chẳng
tương ưng. chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng bố
thí Ba la mật đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp
chẳng tan; đều cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Bát nhã Ba la
mật đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng nội không chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng ngoại không, nội ngoại
không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả
đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng chơn như chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng. chẳng hợp chẳng tan; đều cùng pháp giới, pháp tánh,
bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp
định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng Cực hỷ địa chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng Ly cấu địa, Phát quang
địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất
động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng tất cả tam ma địa môn chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng tất cả đà
la ni môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng
tan.
Đều cùng Phật mười lực chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng. chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng đại từ chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng. chẳng hợp chẳng tan; đều cùng đại bi, đại hỷ,
đại xả chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng pháp vô vong thất chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng,
chẳng hợp chẳng tan; đều cùng tánh hằng trụ xả chẳng tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Đều cùng nhất thiết trí chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
hợp chẳng tan. Đều cùng hữu vi giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng hợp chẳng tan; đều cùng vô vi giới chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan.
Thiện Hiện! Kia tên là Thánh, đây là Thánh
pháp Tỳ nại da kia. Vậy nên tên Thánh pháp Tỳ nại da. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Tất cả pháp này, vô sắc vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng. Các Thánh giả kia như thật hiện thấy. Thiện Hiện! Vô sắc cùng vô
sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Vô
kiến cùng vô kiến, vô đối cùng vô đối, nhất tướng cùng nhất tướng, vô
tướng cùng vô tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng,
chẳng hợp chẳng tan. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối Bát nhã Ba la
mật đa thẳm sâu vô sắc, vô kiến, vô đối nhất tướng, vô tướng đây thường
nên tu học. Học rồi bất đắc tất cả pháp tướng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát đâu chẳng nên đối tướng sắc học, cũng nên
đối tướng thọ tưởng hành thức học ư? Đâu chẳng nên đối tướng nhãn xứ học,
cũng nên đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ học ư? Đâu chẳng nên đối tướng
sắc xứ học, cũng nên đối tướng thanh hương vị xúc pháp xứ học ư? Đâu chẳng
nên đối tướng nhãn giới học, cũng nên đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới
học ư? Đâu chẳng nên đối tướng sắc giới học, cũng nên đối tướng thanh
hương vị xúc pháp giới học ư? Đâu chẳng nên đối tướng nhãn thức giới học,
cũng nên đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới học ư? Đâu chẳng nên đối
tướng nhãn xúc học, cũng nên đối tướng nhỉ tỷ thiệt thân ý xúc học ư? Đâu
chẳng nên đối tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ học, cũng nên đối
tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ học ư? Đâu chẳng
nên đối tướng địa giới học, cũng nên đối tướng thủy hỏa phong không thức
giới học ư? Đâu chẳng nên đối tướng vô minh học; cũng nên đối tướng hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ
ưu não học ư? Đâu chẳng nên đối tướng bố thí Ba la mật đa học; cũng nên
đối tướng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa học
ư?
Đâu chẳng nên đối tướng nội không học; cũng
nên đối tướng ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng chơn như học; cũng
nên đối tướng pháp giới, pháp tánh. bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng sơ tĩnh lự học;
cũng nên đối tướng đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự học ư? Đâu chẳng nên đối
tướng từ vô lượng học, cũng nên đối tướng bi hỷ xả vô lượng học ư? Đâu
chẳng nên đối tướng không vô biên xứ học; cũng nên đối tướng thức vô biên
xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng bốn niệm trụ học;
cũng nên đối tướng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi học ư? Đâu chẳng nên đối tướng không giải
thoát môn học; cũng nên đối tướng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn học
ư? Đâu chẳng nên đối tướng khổ thánh đế học, cũng nên đối tương tập diệt
đạo thánh đế học ư? Đâu chẳng nên đối tướng tám giải thoát học; cũng nên
đối tướng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng năm nhãn học, cũng
nên đối tướng sáu thần thông học ư? Đâu chẳng nên đối tướng tất cả tam ma
địa môn học, cũng nên đối tướng tất cả đà la ni môn học ư? Đâu chẳng nên
đối tướng Cực hỷ địa học; cũng nên đối tướng Ly cấu địa, Phát quang địa,
Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động
địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng Phật mười lực học;
cũng nên đối tướng bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất
cộng học ư? Đâu chẳng nên đối tướng đại từ học; cũng nên đối tướng đại bi,
đại hỷ, đại xả học ư? Đâu chẳng nên đối tướng pháp vô vong thất học, cũng
nên đối tướng tánh hằng trụ xả học ư? Đâu chẳng nên đối tướng nhất thiết
trí học; cũng nên đối tướng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng quả Dự lưu học;
cũng nên đối tướng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề học ư?
Đâu chẳng nên đối tướng tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát học, cũng nên đôi
tướng chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề học ư? Đâu chẳng nên đối tướng
biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo học; cũng nên đối tướng quán thuận
nghịch duyên khởi học ư? Đâu chẳng nên đối tướng tất cả Thánh giả học,
cũng nên đối tướng tất cả Thánh pháp học ư? Đâu chẳng nên đối tướng hữu vi
giới học, cũng nên đối tướng vô vi giới học ư?
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng
đối tướng các phần như thế học, cũng nên chẳng đối tướng các hành học. Các
Bồ tát Ma ha tát đối tướng các pháp và tướng các hành đã chẳng năng học,
làm sao năng vượt tất cả Thanh văn và bậc Độc giác. Nếu chẳng năng vượt
tất cả Thanh văn và bậc Độc giác, làm sao năng vào Bồ tát Chánh tánh ly
sanh? Nếu chẳng năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, làm sao năng được Nhất
thiết trí trí? Nếu chẳng năng được nhất thiết trí trí, làm sao năng quay
xe chánh pháp? Nếu chẳng năng quay xe chánh pháp, làm sao năng đem pháp
Thanh văn thừa, hoặc pháp Độc giác thừa, hoặc pháp Vô thượng thừa an lập
hữu tình khiến thoát các khổ vô biên sanh tử?
Phật nói: Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp thật
có tướng ấy, các Bồ tát Ma ha tát nên học với trong ấy, nhưng vì tất cả
pháp thật chẳng phải hữu tướng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ
gọi vô tướng. Vậy nên, Bồ tát Ma ha tát chẳng học nơi pháp hữu tướng, cũng
lại chẳng học nơi pháp vô tướng. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Như Lai ra đời
hoặc chẳng ra đời, pháp giới thường trụ, các pháp nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng; vô tướng như thế đã chẳng phải hữu tướng, cũng chẳng phải vô tướng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng hữu tướng cũng chẳng vô tướng, nên
chẳng nhất tướng cũng chẳng dị tướng. Nếu vậy Bồ tát Ma ha tát làm sao
năng tu Bát nhã Ba la mật đa? Nếu chẳng năng tu Bát nhã Ba la mật đa, làm
sao năng vượt tất cả Thanh văn và bậc Độc giác? Nếu chẳng năng vượt tất cả
Thanh văn và bậc Độc giác, làm sao năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh? Nếu
chẳng năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, làm sao năng vượt Bồ tát Vô sanh
pháp nhẫn? Nếu chẳng năng vượt Bồ tát Vô sanh pháp nhẫn, làm sao năng phát
Bồ tát thần thông? Nếu chẳng năng phát Bồ tát thần thông, làm sao năng
thành thực hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Nếu chẳng năng thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm sao năng được Nhất thiết trí trí? Nếu
chẳng năng được Nhất thiết trí trí, làm sao năng quay xe chánh pháp? Nếu
chẳng năng quay xe chánh pháp thời lẽ chẳng năng an lập hữu tình khiến
được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán; cũng lẽ chẳng năng an lập
hữu tình khiến được Độc giác Bồ đề; cũng lẽ chẳng năng an lập hữu tình
khiến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề; cũng lẽ chẳng năng an lập hữu tình
khiến trụ việc thí tánh phước nghiệp, hoặc trụ việc giới tánh phước
nghiệp, hoặc trụ việc tu tánh phước nghiệp, sẽ được hưởng giàu vui tự tại
người trời?
Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy, như
ngươi vừa nói. Tất cả pháp chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng, chẳng nhất
tướng, chẳng dị tướng. Nếu Bồ tát Ma ha tát biết tất cả pháp hoặc hữu
tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng nhất tướng,
chỗ gọi vô tướng. Tu vô tướng đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch
Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu vô tướng đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là
thế nào?
Phật nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát
tu khiển tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển tất
cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
sắc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thọ tưởng hành
thức, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý xử, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
sắc xứ cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thanh hương
vị xúc pháp xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
sắc giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thanh
hương vị xúc pháp giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ
tỷ thiệt thân ý thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật đa; tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
địa giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thủy hỏa
phong không thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhân duyên, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng khiển tu đây là tu Bát
nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
vô minh, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu
não, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển a
dụ ha, niết dụ ha, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển
quán bất tịnh, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
sơ tĩnh lự, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển đệ nhị,
đệ tam, đệ tứ tĩnh lự cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
từ vô lượng, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển bi hỷ
xả vô lượng, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
định không vô biên xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
Phật tùy niệm, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa. Tu khiển Pháp
tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm, hữu
phương tiện tùy niệm, vô phương tiện tùy niệm, vắng lặng tùy niệm, trì thở
vào ra tùy niệm, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tưởng vô thường, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển
tưởng khổ vô thường, tưởng khổ vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn.
tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng chết, tưởng dứt, tưởng lìa,
tưởng diệt, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tưởng ngã, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển tưởng
hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sanh giả, tưởng dưỡng giả, tưởng sĩ phu,
tưởng bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng nho đồng, tưởng tác giả, tưởng
khiến tác giả, tưởng thọ giả, tưởng khiến thọ giả, tưởng tri giả, tưởng
khiến tri giả, tưởng kiến giả, tưởng khiến kiến giả, cũng khiển tu đây là
tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiến
tưởng thường chẳng thường, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa;
tu khiển tưởng vui chẳng vui, tưởng ngã chẳng ngã, tưởng tịnh chẳng tịnh,
tưởng xa lìa chẳng xa lìa, tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, cũng khiển tu
đây là tu Bát nhã Ba la mật đa
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Na ha tát tu khiển
bốn niệm trụ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
không giải thoát môn, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tám giải thoát, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tam ma địa có tầm có tứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển tam ma địa không tầm duy tứ, tam ma địa không tầm không tứ, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
khổ thánh đế, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển tập
diệt đạo thành đế, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
khổ trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển tập trí,
diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí,
tha tâm trí, như thật trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
bố thí Ba la mật đa, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nội không, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
Cực hỷ địa, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển Ly cấu
địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn
hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, cũng khiển tu đây là
tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
năm nhãn, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển sáu thần
thông, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
Phật mười lực, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khiển tu đây
là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
đại từ cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển đại bi, đại
hỷ, đại xả, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
pháp vô vong thất, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển
tánh hằng trụ xả, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tất cả tam ma địa môn, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển tất cả đà la ni môn, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhất thiết trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật
đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
quả Dự lưu cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển quả Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật
đa; tu khiển chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng khiển tu đây là tu
Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
Nhất thiết trí trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển
dứt hẳn tập khí nối nhau tất cả phiền não, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển
hữu vi giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển vô vi
giới, cung khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển sắc, cũng khiển tu đây là tu Bát
nhã Ba la mật đa; tu khiển thọ tưởng hành thức, cũng khiển tu đây là tu
Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có sắc, có khiển tu đây chẳng
phải tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có thọ tưởng hành thức, có khiển tu
đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải
kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát tu khiển sắc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển thọ tưởng hành thức, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xứ cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhãn xứ, có khiển tu đây chẳng phải
tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, có khiển tu
đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải
kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát tu khiển nhãn xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa;
tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật
đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển sắc
xứ cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thanh hương vị
xúc pháp xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có sắc xứ, có khiển tu đây chẳng phải
tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có thanh hương vị xúc pháp xứ, có khiển
tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng
phải kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát tu khiển sắc xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật đa; tu khiển thanh hương vị xúc pháp xứ, cũng khiển tu đây là tu Bát
nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhãn giới, có khiển tu đây chẳng
phải tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhở có nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, có
khiển tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện!
Chẳng phải kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển nhãn giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, cũng khiển tu đây là tu
Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển sắc
giới cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thanh hương vị
xúc pháp giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có sắc giới, có khiển tu đây chẳng phải
tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có thanh hương vị xúc pháp giới có khiển
tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng
phải kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát tu khiển sắc giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật đa; tu khiển thanh hương vị xúc pháp giới, cũng khiển tu đây là tu Bát
nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ
tỷ thiệt thân ý thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là
sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhãn thức giới, có khiển tu đây
chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có nhĩ tỷ thiệt thân ý thức
giới, có khiển tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Chẳng phải kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển nhãn thức giới, cũng khiển tu đây là
tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhãn xúc, có khiển tu đây chẳng phải
tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, có khiển tu
đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải
kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát tu khiển nhãn xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa;
tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật đa; tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ,
có khiển tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, có khiển tu đây chẳng phải tu
Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải kẻ hữu tưởng năng
tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu
khiển nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã
Ba la mật đa; tu khiển nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ,
cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển địa
giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển thủy hỏa
phong không thức giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa là
sao?
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có địa giới, có khiển tu đây chẳng phải
tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhớ có thủy hỏa phong không thức giới, có
khiển tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện!
Chẳng phải kẻ hữu tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát tu khiển địa giới, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba
la mật đa; tu khiển thủy hỏa phong không thức giới, cũng khiển tu đây là
tu Bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu khiển
nhân duyên, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu khiển đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng khiển tu đây là tu Bát
nhã Ba la mật đa là sao?
Thiện Hiện!
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nếu nhớ có nhân
duyên, có khiển tu đây chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật đa; nếu nhờ có đẳng
vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, có khiển tu đây chẳng
phải tu Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải kẻ hữu
tưởng năng tu Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát tu khiển nhân duyên, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật đa; tu
khiển đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng khiển tu
đây là tu Bát nhã Ba la mật đa.
Nguồn: www.quangduc.com