.
中
阿
含
經
SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 1
PHẨM BẢY PHÁP
8. KINH THẤT NHẬT
Tôi nghe như
vầy:
Một thời
Đức
Phật du hóa tại nước Bệ-xá-li,
trong rừng cây Nại thị.
Bấy giờ
Đức
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Tất cả các
hành
đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng
đổi thay, pháp không thể nương tựa.
Các hành như vậy không nên tham
đắm mà phải ghê sợ nhờm tởm, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát. Vì sao
thế, vì có lúc không mưa.
Ngay khi không mưa ấy tất cả cây cối, trăm thứ lúa, thảy
đều
khô héo,
đổ
nát, chết cả, không thể thường trụ. Vì thế tất cả các hành
đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng
đổi
thay, pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
“Lại nữa, có lúc hai mặt trời cùng xuất hiện.
Khi hai mặt trời xuất hiện, các rãnh ngòi, sông lạch, thảy
đều
khô cạn, không thể thường trụ. Vì thế tất cả các hành
đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay
đổi,
pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm
mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
“Lại nữa, lúc có ba mặt trời cùng xuất hiện.
Khi ba mặt trời xuất hiện, tất cả dòng sông lớn
đều
khô cạn, không thể thường trụ. Do
đó,
tất cả các hành đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng
đổi
thay, pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm,
mà phải nhờm tởm ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm sự giải thoát.
“Lại nữa, có lúc bốn mặt trời cùng xuất hiện.
Khi bốn mặt trời xuất hiện, các dòng suối lớn, từ
đó
phát nguyên năm
con sông lớn của châu Diêm-phù: Một là
Hằng-già; hai là Dao-vưu-na; ba là Xá-lao-phu; bốn là A-di-la-bà-đề
và năm là Ma-xí,
các dòng cuối nguồn nước lớn ấy
đều khô cạn cả, không thể thường trụ. Do
đó
các hành
đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng
đổi thay, pháp không thể nương tựa, các hành như vậy không nên tham
đắm, mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
“Lại nữa, có lúc năm
mặt trời cùng xuất hiện. Khi năm
mặt trời cùng xuất hiện, nước trong biển lớn sụt xuống một trăm
do-diên;
sụt dần đến
bảy trăm
do-diên. Khi năm
mặt trời xuất hiện như vậy, biển có mực nước bảy trăm
do-diên sụt dần đến
một trăm
do-diên. Khi năm
mặt trời cùng xuất hiện, nước trong biển lớn sụt một cây
Đa-la;
sụt dần đến
bảy cây Đa-la.
Khi năm
mặt trời cùng xuất hiện, những biển có mực nước bảy cây
Đa-la
sụt dần cho đến
một cây Đa-la.
Khi năm
mặt trời cùng xuất hiện, nước biển giảm
sụt
đến mười người;
sụt dần cho
đến
bảy người. Khi năm
mặt trời cùng xuất hiện, những biển có mực nước bảy người giảm dần
đến
vai,
đến
lưng,
đến háng,
đến
đầu
gối,
đến mắt cá; cho
đến
lúc nước biển ráo hết không
đủ chìm một ngón chân. Cho nên, tất cả các hành
đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay
đổi,
pháp chẳng thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm,
mà phải nhờm tởm, ghê sợ, tìm sự xả ly, tìm sự giải thoát.
“Lại nữa, có lúc sáu mặt trời xuất hiện. Khi
sáu mặt trời cùng xuất hiện, tất cả
đại
địa,
núi chúa Tu di,
thảy đều
bốc khói, tạo thành một
đám khói. Ví như thợ gốm lúc mới nhen
bếp, tất cả đều
bốc khói, tạo thành một
đám khói. Cho nên tất cả các hành
đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay
đổi,
pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm
mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, tìm sự giải thoát.
“Lại nữa, có lúc bảy mặt trời xuất hiện. Khi
bảy mặt trời xuất hiện, tất cả
đại
địa,
núi chúa Tu di thảy đều
phụt cháy bừng bừng, tạo thành một ngọn lửa rực rỡ. Như vậy, khi bảy mặt
trời cùng xuất hiện, thì tất cả
đại
địa
và núi chúa Tu di thảy đều
phụt cháy bừng bừng tạo thành một ngọn lửa. Gió thổi ngọn lửa ấy vươn cho
đến
trời Phạm thiên.
Lúc đó
các vị trời Hoảng dục
vừa mới sanh lên cõi này, không rõ thành bại của thế gian. Vì không biết
sự thành bại của thế gian, khi thấy ngọn lửa vĩ
đại,
đều
sợ hãi dựng lông mà suy nghĩ như thế này ‘Lửa không
đến
đây
được
chăng?
Lửa không đến
đây
được
chăng?’
Các vị trời sinh trước đều
biết rõ sự thành bại của thế gian,
đều
đã
thấy việc thành bại của thế gian. Do biết sự thành bại của thế gian, khi
thấy ngọn lửa vĩ đại,
liền an ủi các vị trời kia rằng: ‘Chớ nên sợ hãi. Lửa cháy chỉ ngang
đó,
không thể lên đến
đây
được’.
“Khi bảy mặt trời cùng xuất hiện, núi chúa Tu
di sụp lở, tán hoại, diệt tận, một trăm
do-diên, hai trăm
do-diên, ba trăm
do-diên, cho đến
bảy trăm
do-diên. Khi bảy mặt trời cùng xuất hiện, núi chúa Tu di và
đại
địa
này cháy tan, hủy diệt, không còn tro than gì cả. Cũng như
đốt
dầu bơ, cháy cho tiêu hết không còn khói
đen.
Cũng vậy, khi bảy mặt trời cùng xuất hiện, núi chúa Tu di và cõi
đại
địa
này cháy không còn tro than. Cho nên, tất cả các hành
đều
vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng thay
đổi,
pháp không thể nương tựa. Các hành như vậy không nên tham
đắm
mà phải nhờm tởm, ghê sợ, tìm sự xả ly, tìm cầu giải thoát.
“Nay Ta nói cho các ngươi biết, ai có thể tin
được
rằng: ‘Núi chúa Tu di sẽ sụp
đổ?’
Chỉ có những người thấy
được sự thật.
Nay Ta nói cho các ngươi biết, ai có thể tin
được
rằng: ‘Nước trong đại
hải sẽ khô cạn tất cả?’ Chỉ có những người
đã
thấy sự thật. Nay Ta nói cho các ngươi biết ai có thể tin rằng: ‘Tất cả
đại
địa
đều
cháy sạch?’ Chỉ có những người
đã
thấy sự thật. Vì sao vậy?
“Này các
Tỳ-kheo, xưa có vị
đại
sư tên là Thiện Nhãn
được
các tiên nhân ngoại
đạo
tôn làm bậc thầy,
đã
xả ly dục ái,
chứng như ý túc.
Đại
sư Thiện Nhãn có vô lượng trăm
ngàn
đệ
tử.
Đại sư Thiện Nhãn dạy Phạm thế pháp cho các
đệ
tử.
Khi
đại
sư Thiện Nhãn dạy Phạm thế pháp cho các
đệ
tử, trong số các
đệ
tử có người phụng hành không
đầy
đủ
pháp ấy. Người ấy sau khi mạng chung hoặc sanh lên cõi trời Tứ vương hoặc
trời Tam thập tam, hoặc trời Diệm-ma, hoặc trời
Đâu-suất-đà hoặc sanh lên trời Tha hóa, hoặc sanh lên trời Tha hóa lạc.
“Khi
đại sư Thiện Nhãn dạy Phạm thế pháp, nếu có người phụng hành
đầy
đủ
pháp ấy, người ấy tu bốn Phạm thất,
xả ly các dục, sau khi mạng chung người ấy sanh lên trời Phạm thiên. Lúc
ấy
đại
sư Thiện Nhãn nghĩ như vầy: ‘Ta không nên cùng với các
đệ
tử cùng sanh chung một nơi nào vào
đời
sau. Nay ta hãy tu thêm tăng thượng từ,
sau khi tu tăng
thượng từ rồi, mạng chung sẽ
được
sanh lên trời Hoảng dục
’.
“Đại
sư Thiện Nhãn liền sau đó
tu thêm tăng
thượng từ. Sau khi tu tăng
thượng từ, mạng chung sanh lên trời Hoảng dục.
Đại
sư Thiện Nhãn và các đệ
tử học đạo
không uổng công, đạt
được
quả báo lớn.
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi nghĩ sao? Xưa kia
đại
sư Thiện Nhãn được
hàng tiên nhân ngoại đạo
tôn kính là bậc thầy, xả ly dục ái, chứng như ý túc, các ngươi cho là
người nào khác chăng?
Chớ nghĩ như vậy. Nên biết,
đó
là Ta vậy. Vào thời đó,
Ta là Thiện Nhãn đại
sư, được
tiên nhân ngoại đạo
tôn kính là bậc thầy, xả ly dục ái, chứng như ý túc; lúc
đó
ta có vô lượng trăm
ngàn đệ
tử. Ta dạy Phạm thế pháp cho các
đệ
tử. Khi Ta dạy Phạm thế pháp, trong số các
đệ
tử có người phụng hành không
đầy
đủ
pháp ấy. Người ấy sau khi mạng chung hoặc sanh lên cõi trời Tứ vương hoặc
trời Tam thập tam, hoặc trời Diệm-ma, hoặc trời
Đâu-suất-đà,
hoặc sanh lên trời Tha hóa. Khi Ta dạy Phạm thế pháp, nếu có người phụng
hành đầy
đủ
pháp ấy, người ấy tu bốn Phạm thất, xả ly các dục, sau khi mạng chung
người ấy sanh lên trời Phạm thiên. Lúc
đó
Ta nghĩ như vầy: ‘Ta không nên cùng với các
đệ
tử cùng sanh chung một nơi nào vào
đời
sau. Nay ta hãy tu thêm tăng
thượng từ. Sau khi tu tăng
thượng từ, mạng chung sẽ
được
sanh lên trời Hoảng dục’. Sau
đó,
Ta lại tu thêm tăng
thượng. Sau khi tu tăng
thượng từ, mạng chung được
sanh lên trời Hoảng dục. Thời ấy Ta và các
đệ
tử học đạo
không hư uổng, được
quả báo lớn.
“Thời ấy Ta thân hành
đạo
này để
lợi ích cho mình và lợi ích kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người, cảm thương
thế gian, vì trời và người mà tìm cầu nghĩa, và sự lợi ích, tìm sự an ổn
và khoái lạc. Lúc bấy giờ Ta nói pháp chưa
đến
chỗ rốt ráo; không rốt ráo bạch tịnh, không rốt ráo phạm hạnh. Vì không
rốt ráo phạm hạnh, nên bấy giờ Ta không xa lìa
được,
sanh, lão, bệnh, tử, than khóc, buồn rầu; cũng chưa thể thoát
được
tất cả khổ não.
“Này các Tỳ-kheo, Ta nay xuất hiện ở
đời,
là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Đạo
Pháp Ngự,
Thiên Nhân Sư, gọi là Phật, là
Đấng
Chúng Hựu.
“Ta nay
đã
làm lợi ích cho chính mình, cũng làm lợi ích cho kẻ khác, làm lợi cho mọi
người, cảm thương thế gian, vì trời và người mà tìm nghĩa và sự lợi ích,
tìm sự an ổn khoái lạc. Nay Ta thuyết pháp
đã
đạt
được
chỗ rốt ráo, rốt ráo bạch tịnh, rốt ráo phạm hạnh. Do rốt ráo phạm hạnh,
ta nay đã
lìa khỏi sanh, lão, bệnh, tử, khóc than, buồn rầu. Nay Ta
đã
được
giải thoát mọi khổ não”.
Đức
Phật thuyết giảng như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ
phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ Nhất
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục