.
中
阿
含
經
SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 1
PHẨM BẢY PHÁP
1. KINH THIỆN
PHÁP
Tôi nghe như
vầy:
Một thời
Đức
Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng lâm vườn Cấp cô
độc.
Bấy giờ
Đức
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp tất
được
hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền thánh,
thẳng tiến đến
lậu tận. Bảy pháp đó
là gì? Đó
là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết
độ,
biết mình, biết chúng hội và biết sự hơn kém của người.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là
Tỳ-kheo biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục,
bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa.
Ấy là Tỳ-kheo biết pháp. Nếu Tỳ-kheo không biết pháp, tức không biết chánh
kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử
thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa. Tỳ-kheo như vầy
là không biết pháp. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ pháp,
đó
là biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản
khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa. Ấy là
Tỳ-kheo khéo biết rõ pháp.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết nghĩa? Nghĩa là
Tỳ-kheo biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết
điều
này có nghĩa như thế kia, biết
điều
kia có nghĩa như thế này.
Đó
là Tỳ-kheo biết nghĩa. Nếu Tỳ-kheo không biết nghĩa tức là Tỳ-kheo không
biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia; không biết
điều
này có nghĩa như thế kia,
điều
kia có nghĩa như thế này. Tỳ-kheo như vậy là không biết nghĩa. Nếu có
Tỳ-kheo khéo biết rõ nghĩa,
đó
là biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết
điều
này có nghĩa như thế kia, biết
điều
kia có nghĩa như thế này.
Đó
là Tỳ-kheo khéo biết rõ nghĩa.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết thời?
Đó
là Tỳ-kheo biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương
pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả.
Ấy là Tỳ-kheo biết thời. Nếu có Tỳ-kheo không biết thời tức là không biết
thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao, thời
nào nên tu phương pháp xả. Tỳ-kheo như vậy là không biết thời. Nếu có
Tỳ-kheo khéo biết rõ thời,
đó
là biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao,
thời nào nên tu phương pháp xả. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ thời.
“Thế nào là Tỳ-kheo biết tiết
độ?
Đó
là Tỳ-kheo biết tiết độ
trong việc
ăn,
uống, đi,
đứng,
ngồi, nằm, nói năng,
im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo biết tiết
độ.
Nếu có Tỳ-kheo không biết tiết
độ
tức là Tỳ-kheo không biết tiết
độ
trong việc ăn,
uống, đi,
đứng,
ngồi, nằm, nói năng,
im lặng, đại
tiểu tiện, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Tỳ-kheo như vậy là không
biết tiết độ.
Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ sự tiết
độ,
đó
là biết tiết độ
trong việc ăn,
uống, đi,
đứng,
ngồi, nằm, nói năng,
im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ
sự tiết độ.
“Thế nào là Tỳ-kheo biết mình? Tỳ-kheo tự
biết mình có mức độ
ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở
đắc.
Tỳ-kheo như vậy là biết mình. Nếu có Tỳ-kheo không biết mình tức là không
tự biết mình có mức độ
ấy tín, giới, văn,
thí, tuệ, biện, a-hàm và sở
đắc.
Tỳ-kheo như vậy là không biết mình. Nếu có Tỳ-kheo khéo tự biết rõ mình,
đó
là biết mình có mức độ
ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở
đắc.
Tỳ-kheo như vậy là khéo biết rõ mình.
“Thế nào là Tỳ-kheo biết chúng hội? Tỳ-kheo
biết đây
là chúng hội Sát-lợi, đây
là Phạm chí, đây
là chúng hội Cư sĩ, đây
là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên
đi
như vậy, đứng
như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy. Ấy là Tỳ-kheo biết
chúng hội. Nếu có Tỳ-kheo không biết chúng hội tức là không biết
đây
là chúng hội Sát-lợi, đây
là chúng hội Phạm chí, đây
là chúng hội Cư sĩ, đây
là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên
đi
như vậy, đứng
như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy. Tỳ-kheo như vậy là
không biết chúng hội. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết rõ chúng hội,
đó
là biết đây
là chúng hội Sát-lợi, đây
là Phạm chí, đây
là chúng hội Cư sĩ, đây
là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên
đi
như vậy, đứng
như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy. Ấy là Tỳ-kheo khéo
biết rõ chúng hội.
“Thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người?
Đó
là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: có tín và có bất tín,
người có tín là hơn, người bất tín là kém. Người có tín lại có hai hạng:
Thường đến
gặp Tỳ-kheo và không thường
đến
gặp Tỳ-kheo. Người đến
gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường
đến
gặp Tỳ-kheo là kém. Người thường
đến
gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính
là hơn; người không lễ kính là kém. Người có lễ kính lại có hai hạng: có
hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh
là kém. Người có hỏi kinh lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không
nhất tâm nghe kinh. Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm
nghe kinh là kém. Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì
pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn,
người nghe rồi không thọ trì pháp là kém. Người nghe rồi thọ trì pháp lại
có hai hạng: nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát
nghĩa. Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không
quán sát nghĩa là kém. Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: biết
pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành
đúng
như pháp;
và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ
pháp, tùy thuận pháp và thực hành
đúng
như pháp. Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy
thuận pháp, thực hành đúng
như pháp là hơn; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về
pháp và thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành
đúng
như pháp là thấp kém. Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ
pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi
cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người,
xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người;
và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người,
không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời
và người. Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm
lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và
khoái lạc cho trời người. Người ấy là bậc nhất là lớn, là trên, là tối
cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác. Ví như từ
bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ
thục tô có tô tinh.
Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn
quí, là tuyệt diệu đối
với những loại kia. Cũng vậy, nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người,
xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người, thì
trong hai hạng người như trên
đã
nói, đã
phân biệt, đã
thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết,
là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người.
Phật thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo sau khi
nghe những điều
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ Nhất
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục