THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông
Tập II
---o0o---
CHƯƠNG THỨ
NĂM
Hiểu
biết chồng thêm hiểu biết là gốc rễ của vô minh.
Hiểu biết vạn pháp đúng như thật là nhân tố của
Niết bàn hiện tại.
Phật
tóm lược ý thú của những đoạn kinh trên qua bài văn
trùng tụng
Một
cái khăn mà sáu lần cột thì thành sáu gút. Mở hết
sáu gút một cũng không còn.
Quả
vị có thấp cao, giải thoát giống nhau không khác
mấy. Căn trần thức giới thất đại đều là dữ
kiện chứng viên thông.
Phật
hỏi đại chúng về nhân duyên ngộ đạo, và dữ
kiện chứng đắc viên thông.
1.
Do
thanh trần được viên thông
2.
Do
sắc trần được viên thông
3.
Do
hương trần được viên thông
4.
Do
vị trần được viên thông
5.
Do
xúc trần được viên thông
6.
Do
pháp trần được viên thông
7.
Do
nhãn căn được viên thông
8.
Do
tỷ căn được viên thông
9.
Do
thiệt căn được viên thông
10.
Do
thân căn được viên thông
11.
Do
ý căn được viên thông
12.
Do
nhãn thức được viên thông
13.
Do
nhĩ thức được viên thông
14.
Do
tỷ thức được viên thông
15.
Do
thiệt thức được viên thông
16.
Do
thân thức được viên thông
17.
Do
ý thức được viên thông
18.
Do
hỏa đại được viên thông
19.
Do
địa đại được viên thông
20.
Do
thủy đại được viên thông
21.
Do
phong đại được viên thông
22.
Do
không đại được viên thông
23.
Do
thức đại được viên thông
24.
Do
kiến đại được viên thông
HIỂU BIẾT CHỔNG
THÊM HIỂU BIẾT LÀ GỐC RỄ CỦA VÔ MINH.
HIỂU BIẾT VẠN PHÁP ĐÚNG NHƯ THẬT LÀ
NHÂN TỐ CỦA NIẾT BÀN HIỆN TẠI
ÔNG
A NAN LẠI HỎI VẤN ĐỀ MỞ GÚT
Ông
A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Dù Phật đã
dạy nghĩa quyết định thứ hai về công
việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng
những người mở gút nếu không biết
đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn
không thể nào mở được.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi và hàng Thanh Văn hữu
học trong hội này cũng vậy. Từ vô thỉ
đến nay, chúng tôi cùng sanh cùng diệt
với các thứ vô minh, tuy được nghe
nhiều Phật, Pháp, mang tiếng xuất gia mà
như người sốt rét cách nhật (ý nói
chợt giác chợt mê). Xin đức đại
từ thương xót kẻ đắm chìm, chỉ cho
tôi ở nơi thân tâm này cái gì là
gút ? Và muốn mở phải khởi sự như
thế nào ?
[^]
KHAI
THỊ CHƠN LÝ VỐN KHÔNG HAI. PHẬT PHẬT
ĐẠO ĐỔNG
Đức
Thế Tôn rũ lòng thương xót lấy tay xoa
đảnh ông A Nan. Đồng thời tất cả thế
giới chư Phật trong mười phương cùng
phóng ánh sáng báu đến rừng Kỳ Đà
soi lên đảnh đầu của Đức Phật. Tất
cả đại chúng ở đây đều được
sự khinh an chưa từng có.
Bấy
giờ đại chúng đều nghe chư Phật trong
mười phương khác miệng đồng lời bảo
ông A Nan rằng:
Hay
thay A Nan ! Ông muốn biết cái gì là gút
thắt khiến cho ông luân hồi sanh tử
khổ đau !
A
Nan ! Cái gút thắt khiến cho ông luân
hồi sanh tử, chính là sáu căn của
ông, chớ chẳng phải cái gì khác !
Ông
lại cũng muốn biết, phải làm sao mau
đến chỗ an lạc, giải thoát, tịch tĩnh
vô thượng Bồ đề !
Này
! A Nan ! Thì cũng chính là sáu căn của
ông đó, chớ chẳng phải cái gì khác.
[^]
CĂN
TRẦN CÙNG MỘT GỐC CỘT MỞ KHÔNG HAI
NGUỔN
Ông
A Nan tâm còn lưỡng lự ôm mối hoài
nghi, cúi đầu thưa Phật: Bạch Thế Tôn !
Vì sao cái nguyên nhân khiến cho tôi
luân hồi sanh tử và khiến cho tôi
được Bồ đề, Niết bàn lại cũng là
do sáu căn chớ không phải cái gì khác
?
Phật
dạy: A Nan ! Căn và trần đồng một bản
thể; cột hay mở chẳng phải đợi hai.
Cái thức phân biệt của ông chỉ là hư
vọng như hoa đốm trong hư không. Nhân nơi
trần mà phát ra cái nhận biết của
căn. Nhân nơi căn mà có cái sắc
tướng của trần. Chủ thể năng kiến
và đối tượng sở kiến chỉ là sự
phản ánh tác dụng qua lại mà có ra.
Tự tánh của chúng thật sự là không
có tự tánh gì. Sự hiện khởi duyên
sanh của chúng như những cái hình của
những đám lau sậy gác chéo vào
nhau
Vậy
nên: Hiểu biết mà chồng lên hiểu
biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết
rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thất
Niết bàn ! Cần chi trong đó phải
có cái gì khác, A Nan nhỉ !
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Tâm
lý của ông A Nan cũng chính là tâm lý
chung của những người đệ tử Phật.
Có ai biết trong ta cái gì là gút, để
phải vướng mắc mãi trong sanh tử luân
hồi ? Có mấy ai biết phải làm sao mở
gút để khỏi ràng buộc trói trăn ?
Người ta thường có quan niệm: Thành
Phật phải là cái gì vĩ đại, xa xăm
và ghê gớm lắm. Chính ông A Nan học
Pháp đến đây mà vẫn còn tư tưởng
tịt mù xa xăm đó, thì trách chi những
hàng bạc địa phàm phu !
Thì
ra sự thật lại quá giản đơn. Chẳng
những riêng Phật Thích Ca cho sự mở
gút là giản đơn mà mười phương chư
Phật đông như số vi trần cũng đồng
tình rằng: Vấn đề tìm gút và mở gút
là vấn đề trước mắt. Nó chẳng ở
đâu xa, cũng chẳng phải do ai đem đến.
Gút hay mở chính là sáu căn của ông A
Nan đó. Sáu căn của ông A Nan cũng
chính là sáu căn của tất cả mọi
người đệ tử Phật chúng ta ai ai cũng
có. Thương, ghét, thân, sơ, hỉ, nộ
là gút là thắt đó. Từ bi, hỉ xả,
thiền định, trí tuệ
là mở, gút
sẽ được tháo tung.
Yếu
lý ở đoạn kinh này, đức Phật đúc
kết trong triết lý:
"Tri kiến lập
tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô
kiến tư tức Niết bàn".
Chảo lảy điêu
ngoa đồng nghĩa với cột gút, thắt thêm
nhiều lớp. Thực thà, chất phác là
công dụng của sự tháo gút mở dây.
[^]
*
* *
TÓM LƯỢC Ý
THÚ CỦA NHỮNG ĐOẠN KINH TRÊN QUA BÀI
TRÙNG TỤNG
Chơn tánh của pháp
hữu vi là không
Vì duyên sanh,
sanh như huyễn hóa
Vô vi thì
không có khởi diệt
Vì chẳng thật,
như hoa đốm trong hư không
Phủ định
vọng, nhằm khẳng định có chơn
Nếu chấp chơn,
thì vọng chơn đều vọng
Chơn và phi
chơn còn không có
Thì năng kiến
sở kiến có thực gì !
Thức ở trung
gian, không thực tánh
Như lau sậy
gác chéo lên nhau
Cột hay mở
đồng một bản nhân
Thánh và phàm
không hai ngả tẻ
Hãy trông hình
những cây lau gác
Pháp không,
pháp có, cả hai không
Mê mờ chơn
lý đó là vô minh
Phát minh
được chơn lý tức là giải thoát
Mở gút phải
theo thứ lớp
Sáu gút mở
hết, cái một không còn
Dựa nơi căn
mà chọn tánh viên thông
Quả nhập lưu
được xem là thành Phật
Thức A Đà Na
vi tế quá
Tập khí như
nước thác tuôn theo
Vì sợ chấp chơn,
phi chơn
Như Lai không
thường nói đến
Tự tâm chấp
tự tâm
Pháp phi huyễn
trở thành pháp huyễn
Không chấp,
pháp chơn còn không có
Pháp chơn vốn
đã chẳng có sanh
Thì pháp huyễn
do đâu thành lập ?
Như huyễn tam ma
đề là vậy
Đó là bảo
giác, chắc như kim cương vương
Không nhiễm
như Diệu Liên Hoa
Khảy móng tay
vượt hàng vô học
Đây là pháp
của Phật mười phương
Là đại lộ
vào thành đô Niết bàn Phật.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Pháp
hữu vi không có tự thể, thực chất
của nó là không. Vì nhân duyên sanh cho
nên có. Có mà không thật có nên gọi
là như huyễn.
Nhằm
phủ định huyễn hữu mà phải đề cập
cái vô. Kỳ thực, chẳng có cái gọi
là "Vô vi" nào cả.
Cái không có sanh khởi, không có diệt
tận gọi đó là "Vô vi".
Vậy thì "Vô vi" đồng
nghĩa với "Không có gì".
Người đệ tử Phật không bao giờ hy
vọng ở cái gọi là "Vô vi",
dù được người ta quảng cáo "Vô
vi" là cảnh giới an vui hạnh
phúc ! Giả vọng biểu chơn là một thuật
ngữ thường dùng trong Phật học. Phủ
định vọng nhằm để khẳng định cái chơn.
Nhưng phải hiểu: Hết vọng là chơn
mà không cầu chơn trong khi
hết vọng. Hết vọng cầu chơn
là tìm thêm một cái đầu để chồng
lên cái đầu mình đã có. Đó chẳng
phải là tâm trạng của kẻ điên loạn
là gì ?
Phân
biệt, đánh giá sự vật qua: mừng,
giận, thương, sợ, yêu, ghét
là do
thức trung gian đó. Mà thức thì đã
phải chủ đâu ! Duyên sanh, duyên diệt,
thức thay đổi luôn luôn, như những
hình thoi, hình thang, hình tam giác, hình
vuông
trong những đám lau sậy gác
lên nhau trong những cơn gió giật !
Căn
trần đồng là vật biểu hiện từ Như
Lai tàng, phát xuất từ Như Lai tàng
không tội lỗi. Buộc hay mở do căn;
thánh phàm do tự chủ hay không tự chủ
đối với sáu căn của mình.
Pháp
không, không đã đành; pháp có, cũng
là không !
"Chúng nhơn
duyên sanh pháp
Ngã thuyết
tức thị không"
Mê
mờ chơn lý không, co?/b>
là vô minh. Tỏ ngộ chơn lý có và
không thì giải thoát. Mở
gút nên theo thứ lớp; một được
mở, sáu gút sẽ giải tỏa theo. Sáu
gút mở thì cái một không còn. Hãy
lựa căn có ưu thế để phát huy công
dụng; lựa một căn mà chọn tánh viên
thông. Được quả nhập lưu, xem như
đã thành Phật. Bởi vì Như Lai há
chẳng nói: "Tất cả chúng sanh đã
thành Phật" đó sao ?
Thức
A Đà Na sâu sắc lắm, tập khí chúng sanh
lại quá sâu dày. Như Lai thường không
đề cập đến, ngại chúng sanh mê chấp: Này
chơn nọ chẳng phải chơn. Ở Kinh
Thủ Lăng Nghiêm này, Như lai chỉ dạy
trong phạm vi: sáu căn, sáu trần và sáu
thức. Sáu thức vọng chấp là vọng
đã đành, móng ý chấp chơn,
làm cho chơn hóa ra vọng.
Tự tâm chấp tự tâm: Tâm mình Phật,
lại van xin mong cầu Phật, há không phải
pháp "phi huyễn" trở thành
"huyễn pháp" đó sao ?
Không
chấp thì vọng chơn đều vắng
lặng trạm nhiên: chơn còn
không có, vọng vin vào đâu
sanh được ?
Nhận
thức như vậy thường xuyên. Đó là
cách tu thiền, là tư duy
tu đó. Tu như vậy Phật gọi: Như
huyễn tam ma đề. Đó là phương
pháp thiền nhìn vạn pháp như
huyễn. Có như huyễn tam ma đề
là có bảo giác chắc như kim cương
vương. Thanh tịnh như Diệu Liên Hoa, khảy
móng tay vượt hàng vô học (Thanh Văn
Duyên Giác nhị thừa). Mười phương chư
Phật đồng như số vi trần, đồng đi con
đường đó mà vào thành đô Niết
bàn Phật !
[^]
*
* *
CHỈ MỘT CÁI
KHĂN MÀ SÁU LẦN CỘT THÌ THÀNH SÁU
GÚT MỞ HẾT SÁU GÚT MỘT CŨNG KHÔNG
CÒN
NGUYÊN
DO CỦA MỘT SÁU DỊ ĐỔNG
Ông
A Nan chấp tay đảnh lễ thưa: Bạch Thế
Tôn ! Nay tôi nghe Phật dạy ý thú thẩm
sâu mầu nhiệm, nhưng tôi còn chưa rõ
cách thức mở gút thế nào và vì sao
mở hết gút thì một cũng không còn ?
Xin Phật rũ lòng thương đại chúng trong
hội này và chúng sanh tương lai bố thí
pháp âm để chúng tôi có thể trừ
sạch cấu nhiễm sâu dày trầm trọng !
Bấy
giờ đức Thế Tôn trên tòa sư tử
sửa nội y vén áo tăng già lê (đại
y) đưa nhẹ tay lấy cái khăn hoa trên
ghế thất bảo. Trước đại chúng Đức
Phật cột thành một gút, đưa cho ông A
Nan xem và hỏi:
Cái
này gọi là cái gì ?
-
Đấy là cái gút, bạch Thế Tôn. Ôn A
Nan và đại chúng thưa.
Đức
Phật lại cột khăn hoa thêm một gút
nữa rồi cũng hỏi ông A Nan:
Cái
này gọi là cái gì ?
-
Cũng gọi là cái gút. Bạch Thế Tôn !
Rồi
cũng cái khăn lụa hoa ấy tuần tự
đức Phật cột thành sáu gút và mỗi
khi cột xong một gút Phật đều đưa khăn
lên và hỏi như vậy.
Ông
A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp
như vậy sáu lần.
Phật
bảo ông A Nan: Khi tôi mới cột khăn thì
ông nói là một gút. Thật sự chiếc
khăn lụa hoa này trước sau chỉ là một
cái. Cớ sao lần thứ hai, lần thứ
ba
các ông cũng gọi là gút ?
Bạch
Thế Tôn ! A Nan thưa. Cái khăn lụa hoa
quý báu này, vốn là một thể, song Như
Lai cột một lần thì gọi là một gút,
nếu cột trăm lần thì cũng phải gọi
là một trăm gút, huống chi ở đây có
sáu gút, không đến bảy, cũng chẳng
dừng ở năm. Cớ chi Như Lai quở trách
chỉ cho gút thứ nhất là gút, còn cái
thứ hai, thứ ba
không cho gọi là
gút ?
Phật
bảo: Như ông biết cái khăn hoa này nó
vốn là một, vậy mà tôi cột sáu lần
thì ông gọi là sáu gút. Này A Nan !
Ông chín chắn xem xét nghĩ suy: Tự thể
của cái khăn vốn là đồng chỉ
vì gút mà hóa ra thành dị,
ông nghĩ thế nào ? Khi mới cột gút ban
đầu thì gọi là gút thứ nhất. Như
vậy cho đến cột lần thứ sáu thì gọi
là gút thứ sáu. Nay tôi muốn gọi gút
thứ sáu là gút thứ nhất có được
không ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không. Nếu còn sáu gút
thì cái gọi là thứ sáu, không sao gọi
là cái thứ nhất được. Dù tôi có
biện bạch suốt đời cũng không thể
làm cho sáu gút đổi tên !
Phật
dạy: Đúng vậy ! Đúng vậy ! Sáu gút
không đồng nhưng xét tìm bản nhân lại
vẫn là do một cái khăn mà có. Thế
mà không ai có thể làm cho nó lộn xộn
được với nhau.
A
Nan ! Sáu căn của ông cũng như vậy.
Từ cái thể hoàn toàn đồng
mà sanh cái dụng hoàn toàn dị.
Chẳng khác chút nào cái khăn lụa hoa
kiếp ba la của Như Lai !
A
Nan ! Giả sử ông không muốn thành sáu
gút trong một cái khăn. Giả sử ông
muốn cái khăn chỉ còn thể duy nhất, thì
ông phải làm thế nào ?
-
Bạch Thế Tôn ! Nếu các gút mà còn
thì thị phi tranh cãi khó mà ngăn. Vì
gút này không phải gút kia và gút kia
không phải là gút nọ được ! Nếu Như
Lai mở tháo tung cả, không còn gút thì
không còn có này, có nọ, có kia, thế
là một còn không có, làm chi có sáu !
Phật
dạy: Cái ý nghĩa mở sáu, một không
còn cũng như vậy đó. Các ông chỉ vì
vọng tâm vô thỉ, khiến cho tri kiến
sanh bệnh làm lòa cái tánh tịnh minh
trạm tịch của các ông, cho nên sơn hà
đại địa, sanh tử, niết bàn trở thành
cái tướng hoa đốm của đôi mắt mệt
hóa lòa của các ông đó !
Ông
A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Cái bệnh mê
lầm giống như gút kia làm sao mà cởi
mở được !
Bấy
giờ đức Phật lấy cái khăn đã cột
gút, kéo một mối lệch qua trái rồi
hỏi ông A Nan: Tôi làm thế này có mở
gút được chăng ?
-
Không được, bạch Thế Tôn !
Rồi
đức Phật nắm kéo mối khăn lệch qua
bên phải, cũng hỏi ông A Nan như vậy.
Ông A Nan cũng đáp là không thể mở
được.
Phật
hỏi: Tôi kéo mối khăn qua phải qua trái
đều không mở gút được. Vậy theo
ông nghĩ, phải làm thế nào mới mở
được gút ?
-
Bạch Thế Tôn ! Phải mở trung tâm cái
gút thì tháo ra ngay.
Phật
bảo: Đúng vậy. Muốn mở gút thì phải
mở ngay trung tâm của gút.
A
Nan ! Như tôi đã nói: Phật pháp từ
nhân duyên sanh. Nhưng các ông không
được chấp ở tướng hòa hợp thô
sơ trên hiện tượng của thế gian mà
thỏa mãn tri kiến của mình. Như Lai phát
minh tuệ giác vô thượng cho nên biết
tất cả bản nhân của pháp thế và
xuất thế gian; đến như một hạt mưa
ngoài hằng sa thế giới cũng biết số
mục; cây tùng thẳng, cây gai cong, chim
câu trắng, chim quạ đen Như Lai đều biết
nguyên do tất cả.
A
Nan ! Tùy tâm ông lựa chọn nơi 6 căn,
nếu tháo mở được cái gút căn ấy
thì các trần tương tự tiêu vong, đối
với ông, vọng cảnh không còn, bấy
giờ ông chẳng phải sống trong chơn tâm
thì còn gọi là gì nữa !
[^]
CỘT
GÚT ĐÃ CÓ THỨ LỚP THÌ MỞ PHẢI CÓ
TRƯỚC CÓ SAU
Phật
bảo A Nan ! Cái khăn hoa này có sáu
gút, ông có thể mở bung cùng một lúc
được không ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không. Những cái gút
khi cột đã có thứ lớp, nay mở cũng
phải theo trước sau. Sáu gút tuy đồng
thể, nhưng lúc cột lại chẳng đồng thời.
Thế nên, nếu mở gút phải bắt đầu
từng cái một.
Phật
dạy: Trừ khử những gút sáu căn
cũng giống như vậy. Bắt đầu mở,
trước hết tháo mở nhân không. Nhân không hóa giải hoàn
toàn sáng suốt thì bước thêm mở lần
pháp chấp. Pháp chấp xả hết bấy giờ
gọi là hạng người ngã pháp câu
không. Đấy gọi là Bồ tát
từ tam ma địa mà được vô
sanh pháp nhẫn.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Đọc
đoạn kinh này, người đệ tử Phật
phải chín chắn soát lại vấn đề tri
kiến của mình. Cái trí thể
là một, tự nó chẳng có hỉ, nộ, ai,
cụ
chẳng có tham, sân, si, mạn
Do sự tác động bất giác vô minh khiến
cho cái trí dụng trở thành
nhiễm ô. Những cái gút mà Đức Phật
cụ thể hóa qua cái khăn kiếp ba la chính
là những gút tham, sân, si, mạn
và
hỉ, nộ
ấy. Cái khăn lụa hoa của
Phật tự thể nó chẳng có
gút nào. Cột gút là do bàn tay Phật,
nghĩa là phải do động tác của ai đó
làm ra. Khi đã cột gút rồi thì gút
nào tên nấy. Do vậy, làm mất đi cái tự
thể láng mịn của cái khăn hoa
đẹp. Cái tri kiến vô kiến
hay nói cách khác là "thể tánh tịnh
minh" của ta vốn thanh tịnh bản nhiên
trong sáng đẹp đẽ như cái khăn hoa
láng mịn ấy. Chấp mắc là do ta, khiến
cho tri kiến của ta trở thành tri
kiến lập tri, phân biệt ghét
thương lấy bỏ thân sơ làm cho sáu căn
trần vẩn đục bởi sáu trần: Sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Muốn
khăn không còn gút thì phải mở hết
gút bỏ đi. Muốn căn trong sáng an lành
thì phải diệt đi tính chấp: phải, quấy,
ghét, thương
tham, sân, si, mạn
Không
mở đúng trung tâm gút thì không thể
tháo gút ra. Không chế phục sáu căn
thì đam mê lầm lạc lâu đời không
xóa sạch được.
Cột
đã có gút một, gút hai
thì mở
cũng phải theo thứ lớp.
Tai
hại của gút là làm cho cái khăn hoa
mịn đẹp của Như Lai thành "một"
rồi "hai"
, rồi thành sáu
gút, mà tên gút không thể đổi dời.
Tai
họa gây đau khổ cho con người là tri
kiến vốn tịnh, vốn thanh, vốn minh,
vốn diệu lại trở thành ngã
chấp, pháp chấp thị phi hỉ nộ
Mở
gút, mở sáu gút hết thì cái một
cũng không còn, vì sáu căn mà thanh
tịnh thì sáu không còn sáu mà chỉ còn:
Tri kiến vô kiến, thể tánh tịnh
minh. Bấy giờ sáu căn dùng thay
lẫn nhau không có gì trở ngại (lục
căn hỗ dụng).
Mở
gút phải bắt đầu từ cái gút khởi
đầu. Chế phục vô minh phải triệt tiêu
ngã chấp trước. Tiến thêm một bước,
diệt trừ ý thức pháp chấp tiếp theo.
Ngày
nào ngã pháp đều không,
hỏi ai là người sẽ thành Phật ? Nên
chỉ những con người ngã pháp câu
không ấy !
[^]
*
* *
QUẢ VỊ CÓ
THẤP CAO GIẢI THOÁT GIỐNG NHAU KHÔNG KHÁC
MẤY. CĂN TRẦN THỨC GIỚI THẤT ĐẠI
ĐỀU LÀ DỮ KIỆN CHỨNG VIÊN THÔNG
Ông
A Nan và đại chúng nhờ Phật khai thị
tuệ nhãn được Viên dung Thông
đạt; đối với chân lý xẻ bỏ
được màn lưới nghi ngờ đen tối.
Tất cả đồng chấp tay cung kính thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Ngày nay chúng tôi thâm
tâm sáng suốt vén bức rèm vô minh,
tuệ giác được phần vô ngại. Đối
với diệu nghĩa "sáu mở một không
còn", Như Lai dạy chúng tôi đã
lãnh hội. Nhưng nay còn chưa rõ chúng
tôi cần phải làm gì để tâm tánh
được viên thông, khi rời
pháp âm hướng dẫn của Phật ? Xin Phật
rũ lòng thương ban cho chúng tôi những
bí pháp thậm thâm được xem như lời
dạy cuối cùng của Phật ?
[^]
PHẬT
HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ NHÂN DUYÊN NGỘ ĐẠO
VÀ DỮ KIỆN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG
Bấy
giờ đức Thế Tôn bảo khắp các đại
Bồ Tát và hàng lậu tận A La Hớn
rằng: Các ông là Bồ Tát và A La Hớn
sanh trong Phật Pháp đã chứng quả vô
học. Nay tôi hỏi các ông: Lúc mới
phát tâm, trong thập bát giới, các ông
tâm đắc ở giới nào ? Do nhân duyên
gì ? Từ phương tiện nào mà các ông
được tam ma đề viên thông
tâm tánh ?
[^]
1. DO THANH TRẦN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Nhóm
ông Kiều Trần Như năm vị tỳ kheo từ
chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay
thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Sau khi Như Lai thành đạo
ở Lộc Uyển, chúng tôi gặp Phật
trước tiên. Chúng tôi được Phật khai
thị cho về pháp tứ diệu đế. Do nghe
tiếng Pháp của Phật mà tôi tỏ ngộ.
Lúc đó Phật hỏi các Tỳ kheo: Có hiểu
không, tôi thưa là đã hiểu.
Nhơn đó Như Lai đặt cho tôi cái tên
là A Nhã Đa, ấn chứng chúng tôi là
những người A La Hớn. Nay Phật hỏi viên
thông, đối với tôi thanh
trần là mầu nhiệm nhất.
[^]
2. DO SẮC TRẦN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
Ưu Ba Ni Sa Đà đứng dậy chấp tay cung
kính thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Tôi cũng được gặp
Phật sau những ngày Như Lai thành đạo
không lâu. Trông vào tướng hảo quang
minh của Phật tôi quán sâu vào tướng
bất tịnh của sắc thân ô trược. Từ
cái tử thi bắt đầu bành trướng
đến tướng bạch cốt
vi trần
tôi sanh lòng nhàm chán tột bậc, chợt
tỏ ngộ tánh: Sắc, không, không sắc
đều chẳng ra gì. Như Lai ấn chứng cho
tôi cái tên là Ni Sa Đà, tôi được A
La Hớn quả. Nay Phật hỏi duyên cớ
được viên thông, xin thưa:
Đối với tôi sắc trần là
ưu việt nhất.
[^]
3. DO HƯƠNG TRẦN
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Hương Nghiêm đồng tử đứng dậy cung
kính chấp tay thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Trước đây Như Lai dạy
tôi quán sát kỹ về các pháp tướng
hữu vi. Một hôm tôi tĩnh tọa trong
giảng đường các tỳ kheo đốt hương
trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong
tĩnh mịch u nhàn, tác dụng đến mũi
tôi. Tôi tư duy quán xét: Hương này
không phải do gỗ, không phải do hư
không, không phải do khói, không phải do
lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến
đâu không chỗ dùng trụ. Quán chiếu
như vậy, ý thức phân biệt của tôi
tự khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát
sanh, Như Lai ấn chứng cho tôi danh hiệu
là Hương Nghiêm. Vì do tôi thể nghiệm
mùi hương mà chứng được A La Hớn
quả. Nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Với tôi, hương
trần là tối thắng nhất.
[^]
4. DO VỊ TRẦN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Hai
vị Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng,
cùng năm trăm phạm thiên trong hội
đồng đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Bạch Thế Tôn ! Từ vô lượng
kiếp, chúng tôi là lương y cứu tế
thế nhân. Miệng chúng tôi thường nếm
những lá hoa cây cỏ kim thạch trong cõi
Ta bà này. Tất cả những vị: Mặn, lạt,
chua, cay, ngọt, đắng
vị biến đổi
sanh, vị hòa hợp có; vị nào lạnh vị
nào nóng thứ có độc, thứ không tôi
đều biết cả. Được phục vụ chư Phật
và tất cả chúng sanh, rõ biết tánh
chất của vị trần: Không phải không,
không phải có, không phải tức thân
tâm, không phải ly thân tâm. Nhờ tôi
phân biệt Vị trần mà được
khai ngộ. Phật ấn chứng cho chúng tôi
danh hiệu là Dược Vương và Dược
Thượng Bồ Tát. Nay Phật hỏi nhân
duyên và phương tiện được viên
thông, xin thưa: Đối với chúng
tôi vị trần là ưu việt
nhất.
[^]
5. DO XÚC TRẦN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
Bạt Đà Bà La cùng với mười sáu vị
tăng sĩ đồng là đạo bạn cùng đứng
dậy cung kính chấp tay thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Bọn tôi trước kia ở
thời Phật Oai Âm Vương, nghe pháp xuất
gia. Lúc chư Tăng tắm, tôi theo thứ
lớp vào nhà tắm để tắm. Bỗng nhiên
tôi tư duy và nhận thức rằng: Nước
vốn không rửa bụi và cũng chẳng rửa
chân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Tôi
tâm đắc tột độ cái chân lý:
"Chẳng có gì". Tập quán trước
không quên, đến nay tôi theo Phật xuất
gia được quả vô học. Đức Phật
thuở ấy gọi tôi với cái tên: Bạt
Đà La (thiên thủ). Do tôi phát hiện
tánh mầu nhiệm của xúc trần mà thành
Phật tử. Nay Phật hỏi duyên cớ
được viên thông, xin thưa:
Đối với tôi xúc trần là
hơn tất cả.
[^]
6. DO PHÁP TRẦN
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Ma Ha Ca Diếp và bà Tử Kim Quang tỳ khưu
ni v.v
đồng đứng dậy cung kính chấp
tay thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Kiếp xa xưa trong cõi này
có Phật ra đời hiệu Nhật Nguyệt
Đăng. Sau khi Phật diệt độ chúng tôi
thắp sáng ngọn đèn chánh pháp để
cúng dường; đem tâm trong sáng vàng
thắm thếp tô Phật tượng. Do đó đời
đời kiếp kiếp thân thường viên mãn,
rực rỡ như vàng ròng. Bọn Tử Kim
Quang tỳ khưu ni đây cũng đồng phát
tâm như tôi vậy. Chúng tôi quán sát
sáu trần luôn luôn biến hoại. Tôi trụ
tâm trong vắng lặng, nhập định diệt
tận, thân tâm rỗng rang, thời gian trăm
nghìn kiếp tựa hồ như trong cái khảy
móng tay. Do thành tựu pháp không
quán mà tôi được quả A La
Hớn. Thế Tôn ấn chứng tôi là: Đầu
đà đệ nhất; pháp trần thâm diệu
nhờ tuệ nhãn tôi được khai minh, lậu
hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi
duyên cớ viên thông, với
sở ngộ chứng của tôi thì pháp
trần là tối thượng.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Khi
con người diệt hết hoặc Kiến tư
ra ngoài ba cõi thì gọi là người
được giải thoát, giác ngộ. Giải
thoát nói cách khác là người đó có
Niết bàn. Vậy, chữ Niết bàn trong đạo
Phật là chỉ sự giải thoát phiền não
buộc ràng. Do vô minh tác động hoành
hành trong cuộc sống. Bồ đề Niết bàn
là hai mặt thực thể thanh tịnh của con
người: Thấy chân lý trọn vẹn, vô minh
phiền não hoàn toàn. Tuy nhiên, Bồ đề
Niết bàn có đẳng cấp, không nhất
thiết cùng lúc ai cũng được y nhau.
Gọi là đẳng cấp, nhưng không phải như
"ngạch", "trật" do cấp
trên nào phong tặng theo cảm tình thương
ghét hay do đánh giá chủng tộc màu da,
sang hèn cao thấp
Đẳng cấp ở đây
dựa trên tiêu chuẩn đoạn vô minh trừ
phiền não ở chính con người. Do vậy,
Bồ đề Niết bàn có những đẳng cấp
sau đây:
Thanh văn Bồ đề
Duyên giác Bồ
đề
Bồ Tát Bồ
đề
Phật Bồ đề
Đẳng
cấp đó nói lên quả vị có thấp cao.
Dù vậy đã là người có Bồ đề
vượt ra ba cõi thì sự giải thoát gần
giống nhau không khác mấy. Không khác
mấy vì cả bốn đẳng cấp đều không
còn quan niệm khổ đau vì phần đoạn sanh
tử chi phối dầy vò. Không khác mấy,
nhưng cũng không phải hoàn toàn đồng,
vì trình độ nhận thức chân lý toàn
vẹn và chưa toàn vẹn có chênh lệch
khác nhau.
Viên
thông có nghĩa viên mãn
thông suốt. Nói viên thông
là nói trình độ đạt đạo, nhận thức
chân lý của những người đệ tử
Phật. Người có trình độ nhận thức
viên mãn thông suốt vượt qua tri kiến
chấp mắc hẹp hòi u ám của phàm phu
gọi đó là chứng được viên
thông. Ở đây chủ ý Phật gạn
hỏi những người có trình độ viên
thông cỡ đó. Ở đây không
được hiểu viên thông với
nghĩa hoàn toàn trọn vẹn, như cái từ viên
mãn Vô thượng Bồ đề. Vì ở
đây Phật hỏi duyên cớ được viên
thông của Thanh Văn Duyên Giác Bồ
Tát mà người đọc đã nhận thức rõ
ràng.
Một
sự kiện đáng vui mừng phấn khởi cho
những người con Phật có ý chí ham học
ham tu mong giải thoát: Đọc qua hai mươi
lăm vị Thanh Văn lẫn Bồ Tát, các Ngài
nói lên nhân duyên đạt đạo, chứng
nhập viên thông của các
Ngài mà ta thấy vô cùng sung sướng.
Thì ra cái sự kiện làm ra thành quả viên
thông ấy, trong Phật tử chúng ta ai
cũng có và ai cũng có thể biết
được rõ ràng. Do đó trong mọi chúng
ta ai cũng có khả năng hy vọng có ngày
hiện thực viên thông. Thế
mà còn chưa bằng lòng, không cảm thấy
sung sướng thì gọi là tu hành, người
ta còn muốn cái gì nữa nhỉ ?
Ta
đã thấy biết rõ dữ kiện để tạo ra
thành quả viên thông của
sáu vị A La Hớn: Kiều Trần Như, Ưu Ba Ly
Sa Đà, chẳng có xa xôi gì làm người
ta khó tìm kiếm cả. Các Ngài chỉ dựa
trên lục trần. Dựa trên sáu trần làm
đối tượng để tu sửa thân tâm. Vậy
mà mỗi Ngài trình lên với Phật một
món "Đệ nhất" khác
nhau. Điều đó nói với mọi người
rằng: Gọi là thuốc hay, không có thuốc
nào hay với tất cả mọi con bệnh. Pháp
môn có "vi diệu" cũng không
phải "vi diệu" cho mọi căn cơ.
Cái biết của người bệnh là khéo
biết chọn thuốc hạp bệnh mà dùng. Cái
trí của người con Phật, phải khéo chọn
pháp môn thích ứng căn cơ mà tu tập.
Về?
sáu trần, trần nào cũng là dữ kiện
cho các thánh chứng "viên
thông". Định nghĩa theo văn tự:
"trần" có nghĩa là
nhiễm ô, nhưng nó chỉ nhiễm ô khi nó
tác động vào lục căn của con người
chưa tự chủ. Cho nên định nghĩa "trần"
qua nghĩa nhiễm ô là định nghĩa đứng
bên "tục đế", duyên sanh hiện
tượng. Với nhãn quan của những bậc
giác ngộ có khả năng tự chủ mà nhìn
thì trần vẫn là một hiện
tượng biểu hiện phát xuất từ Như Lai
tàng thanh tịnh, có tội lỗi gì đâu !
Bằng
nhận thức khách quan, ai cũng có thể
thấy biết: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, đã làm gì nên tội ? Nên tội
là do con người. Con người đam mê trần
với tâm động hắc ám với khát vọng
điên cuồng đánh mất đi lý trí. Lý
trí mà còn đánh mất thì "chân
tâm thường trú" đối với
hạng người này, có tìm đi nữa cũng
là kẻ: đáy nước mò trăng.
Sự
thành công của các A La Hớn là khéo
vận dụng các tri kiến: Như thị tri, như
thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp
tướng để làm cơ sở giác ngộ giải
thoát cho mình.
Có câu rằng:
"Trần chẳng
tương quan, biển cả nương dâu mặc thay
đổi.
Tâm không sở
đắc, thông xanh mây trắng tự vui
nhàn".
[^]
*
* *
7. DO NHÃN CĂN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
A Nan Luật Đà đứng dậy cung kính chấp
tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Lúc tôi mới
xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ li
bì. Như Lai quở tôi là loại súc sanh.
Nghe lời quở của Phật, tôi thầm khóc,
tủi hổ và tự trách mình. Tôi cương
quyết thề không ngủ và tôi thức suốt
bảy ngày đêm. Hai con mắt tôi bệnh và
hư mất. Thế Tôn thương dạy cho tôi
pháp: Lạc kiến chiếu minh kim cang tam
muội. Sau khi được tam muội, tôi
thấy suốt hiện tượng trong mười
phương như trái chanh trái quít để trên
bàn tay. Như Lai ấn chứng cho tôi quả A
La Hớn. Nay Phật hỏi nguyên nhơn nào
được viên thông, xin thưa:
Theo chỗ tâm đắc của tôi là Xoay tánh
thấy của nhãn căn trở về
bản thể thanh tịnh bản nhiên là ưu việt
nhất.
[^]
8. DO TỶ CĂN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
Châu Lợi Bàn Đặc đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: rằng tôi vì thiếu
trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa
văn. Khi mới gặp Phật, tôi xin xuất gia
nghe học pháp Phật tôi cố nhớ một
bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ
nổi. Tôi gắng học suốt cả một trăm
ngày, nhớ đoạn trước thì quên câu
sau; nhớ đoạn sau lại quên câu trước.
Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi ở
một nơi yên tĩnh tu tập pháp môn điều
hòa hơi thở ra vào. Bấy giờ tôi vận
dụng quán trí theo dõi từng hơi thở,
từ thô đến vi tế, từng sát na nhiếp
ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành
bốn thời kỳ: Hít vô gọi là sanh.
Đầy hơi gọi là trụ. Thở ra
gọi là dị. Mãn hơi gọi là diệt.
Thực hiện một thời gian, tâm tôi
bừng sáng rỗng rang được đại vô
ngại, các lậu hoặc dứt hết thành A La
Hớn. Trước pháp tòa, Phật ấn chứng
cho tôi thành quả vô học. Nay Phật hỏi viên
thông, theo chỗ sở hành của tôi:
Tập trung tư tưởng xoay vào quán hơi
thở ra vào minh bạch, là pháp hành
hiệu quả nhất.
[^]
9. DO THIỆT CĂN
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Kiều Phạm Ba Đề đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Rằng tôi mắc khẩu
nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời
phải tật nhơi mãi như trâu. Như Lai
thương, dạy cho tôi pháp: Nhất vị
thanh tịnh tâm địa. Nhờ đó tôi
diệt phân biệt, được tam ma đề. Tôi
quán chiếu rằng: Tánh biết vị không
phải do thân thể, cũng không phải do ở
ngoại vật. Do đó, trong thì thân tâm
giải thoát; ngoài thì như rời bỏ thế
gian. Viễn ly ba cõi như chim sổ lồng; cấu
nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần
tướng, pháp nhãn thanh tịnh, được quả
A La Hớn. Như Lai ấn chứng cho tôi lên
hàng vô học. Nay Phật hỏi phương tiện
được viên thông, xin thưa:
Theo tôi thì: trả vị về cho
phân biệt của thiệt căn là
ưu việt nhất.
[^]
10. DO THÂN CĂN
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Tất Lăng Già Bà Ta đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật rằng: Lúc tôi mới
phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe
Phật dạy: "Cuộc đời chẳng có gì
vui". Đang khi đi khất thực, vừa đi
vừa tư duy lời Phật, bỗng dưng tôi
đạp phải cái gai độc. Cả mình đều
đau đớn. Trong lúc đau đớn, tôi quán
chiếu tư duy: Giác tâm thanh tịnh vốn
không có cái đau và cái biết đau !
Một thân thể lẽ đâu lại có hai tánh
biết ! Nhiếp niệm không bao lâu thân
tâm bỗng nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai
mươi mốt ngày sau, các lậu hoặc được
tiêu trừ, Phật ấn chứng cho tôi lên
hàng vô học chứng A La Hớn quả. Nay
Phật hỏi duyên cớ nào được viên
thông, xin thưa, đối với tôi:
Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân
căn là thành công dễ nhất.
[^]
11. DO Ý CĂN ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
Tu Bồ Đề đứng dậy cung kính chấp tay
bạch Phật rằng: Từ nhiều kiếp đến
nay, tôi vẫn được tâm vô ngại
thường trú nơi không tịch. Sự vật
hiện tượng trong mười phương đối
với tôi trở thành "chân không
hóa" chẳng chút vương víu buộc
ràng. Như Lai phát minh tánh giác là
chân không; tôi tư duy thể nhập: Bảo
minh không hải tam muội, tri kiến
đồng như Phật. Tôi được Phật ấn
chứng lên hàng vô học A La Hớn. Nay
Phật hỏi nhơn duyên được viên
thông, theo chỗ chứng ngộ của
tôi: Quán các tướng đều là phi
tướng. Cái phi tướng đối tượng
cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng
vạn pháp đúng như thật của nó: "Có
mà thật chẳng có gì", đối
với tôi, đó là phương tiện chinh phục ý căn hữu hiệu nhất.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Căn
sở dĩ là căn vì sáu cơ quan
này ví như gốc rễ để rồi từ đó
sanh ra nhánh nhóc chồi tược vô minh
lậu hoặc, gây ra khổ đau cho cuộc sống
con người. Đó là cách định nghĩa trên
mặt tục đế trên hiện tượng tùy
duyên của vạn pháp. Nếu nhìn bên góc
cạnh khác, người ta thấy căn
chỉ là một dạng vật chất, phát xuất
từ tứ đại duyên sanh như vô vàn
hiện tượng duyên sanh khác. Điều mà ai
cũng biết: Vật chất biểu hiện vô vàn
hình thái hiện tượng khác nhau, nhưng
không có cái thứ vật chất nào làm
cho con người nên tội. Cũng như thế,
trần là hiện tượng thu gọn, tổng kết
vật chất qua sáu dạng: sắc, thanh, hương,
vị, xúc và pháp trong cái từ lục
trần, thì đã có thứ nào làm
nên tội lỗi cho ai ? Cho nên ta kết luận
rõ ràng rằng căn cũng như trần
đều không phải là nguyên nhân gây
nên tội lỗi. Chẳng những thế mà còn
ngược lại: Căn trần đều
là những dữ kiện để đạt đạo
thành tựu viên thông. Thể
nhập sâu sắc tự đáy nguồn chơn lý
đó. Lục Tổ Huệ Năng thốt ra bài kệ
bất hủ trong các chốn tòng lâm kim cổ:
"Phật pháp tại
thế gian
Bất ly thế gian
giác
Ly thế mích Bồ
đề
Kháp như cầu
thố giác"
Với
người giỏi làm kinh tế, họ nhìn ao,
hồ, sông, bãi đất hoang họ cũng thấy
tiền là tiền, và trong những chỗ đó
họ làm ra tiền được. Một lương y
thượng hạng với đám cỏ dại mà họ
dẫm qua, lá hoa lùm bụi mà họ luồn
lách đi vào, trong đó, dưới mắt họ
vô vàn diệu dược có thể cải tử
hoàn sanh cho những con bệnh đang nằm bên
đó mà khổ, mà đau rên siết.
Người
học Phật không được quên vấn đề
đơn giản mà ý nghĩa báu mầu vô giá
này: "Hàng độc giác nhị thừa tư
duy quán xét cảnh hoa rơi, trái rụng, lá
úa cành khô mà đạt đạo" đấy !
Phản
quán sáu căn nội tại, thành A La Hớn
quả, chứng được viên thông
rõ ràng không phải là việc khó hiểu
xa vời. Người có tư duy, muốn đi và
khởi sự đi trên con đường giải
thoát, nhất định sẽ đến đích Niết
bàn Bồ đề vô thượng.
[^]
*
* *
12. DO NHÃN THỨC
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Xá Lợi Phất đứng dậy cung kính chấp
tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Từ nhiều kiếp
đến nay, sự nhận thức của tôi
thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên
xuống nhiều như số cát sông Hằng. Do
vậy mà các pháp biến hóa thế gian,
xuất thế gian một khi thấy là tôi nhận
thức không xa chân lý, được vô
chướng ngại. Trong lần gặp gỡ giữa
đường, anh em ông Ca Diếp dụng ý theo
tôi để thuyết pháp. Các ông nói cho
tôi nghe về giáo lý nhân duyên sâu xa
của Phật. Nhân buổi đàm đạo đó,
tôi được tỏ ngộ; nhận thức được
rằng: "Tâm không ngằn mé".
Rồi tôi theo Phật xuất gia. Trí tuệ sáng
suốt ngày càng viên mãn, được đại
vô úy, thành A La Hớn quả, trưởng
tử Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ
ngộ viên thông, xin thưa: Theo
chỗ chứng đắc của tôi thì sự nhận
thấy rõ ràng, nhận thức đánh giá
chính xác đúng như thực của sự vật
hiện tượng là thành công ưu việt
nhất.
[^]
13. DO NHĨ THỨC
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Bồ
tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Rằng tôi đã từng làm
Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như
số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai
dạy các đệ tử Bồ Tát tu hạnh Phổ
Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn
của tôi mà đặt ra cái tên Phổ
Hiền Hạnh.
Bạch
Thế Tôn ! Tôi sử dụng tánh nghe của
tâm mà nhận biết nguyện vọng của
chúng sanh, nếu có chúng sanh phát hạnh
Phổ Hiền. Do vậy, giả sử ở một
phương khác, cách ngoài hằng sa thế
giới, có chúng sanh phát hạnh Phổ Hiền
thì liền trong lúc ấy, tôi cỡi voi sáu
ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ
người ấy. Phỏng sử người kia nghiệp
chướng sâu dày chưa thấy được tôi,
tôi cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng
hộ khiến cho sở nguyện thành tựu. Nay
Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên
thông, tôi xin thưa: Sử dụng tánh
nghe của nội tâm mà nhận biết tự
tại, đối với tôi là pháp môn ưu
việt nhất.
[^]
14. DO TỶ THỨC
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Tôn Đà La Nan Đà đứng dậy cung kính
chấp tay thưa với Phật: Lúc tôi mới
xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu tam
ma đề, tâm thường tán loạn. Đức
Thế Tôn dạy tôi quán điểm trắng ở
chót mũi. Tôi bắt đầu thực hành,
trải qua thời gian hai mươi mốt ngày,
thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói;
thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly.
Tướng khói lần lần không còn, tâm
tôi được khai ngộ, các lậu tận sạch
trong, thành A La Hớn. Thế Tôn thụ ký
cho tôi thành quả Bồ đề. Nay Phật hỏi
sở nhân được viên thông,
xin thưa: Đối với tôi tập trung ý
niệm, quán hơi thở và điểm trắng ở tỷ
căn là thành tựu hữu hiệu
nhất.
[^]
15. DO THIỆT THỨC
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đứng dậy cung
kính chấp tay bạch Phật: Tôi từ nhiều
kiếp đến nay biện tài vô ngại, tuyên
thuyết các pháp: khổ, không, hiểu sâu
thật tướng: cho đến những pháp môn
bí mật như hằng sa của Như Lai, tôi có
thể diễn giảng trước đại chúng không
hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế
Tôn biết tôi có đại biện tài, dạy
tôi tuyên dương chánh pháp, giúp Phật
chuyển pháp luân. Tôi nhờ giảng nói
chánh pháp mà được quả A La Hớn.
Thế Tôn ấn chứng cho tôi là:
"thuyết pháp đệ nhất". Nay Phật
hỏi nguyên nhân được viên thông,
xin thưa: Tôi dùng pháp âm hàng phục
tà ma ngoại, tiêu trừ hoặc lậu là ưu
việt nhất.
[^]
16. DO THÂN THỨC
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Ưu Ba Ly đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Rằng chính tôi theo Phật vượt
thành xuất gia. Tôi thấy Như Lai sáu năm
cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma,
chế ngự ngoại đạo, giải thoát các
lậu thế gian. Phật dạy tôi trì giới,
giữ gìn tánh nghiệp, giá nghiệp của
thân miệng, ý, giữ vẹn ba nghìn oai nghi,
tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm
tịch tịnh thành quả A La Hớn. Nay làm kỷ
cương trong đại chúng, Như Lai ấn chứng
tôi là "trì luật đệ nhất".
Hôm nay Phật hỏi phương tiện được viên
thông, xin thưa: Đối với tôi do
giữ gìn thân được thanh
tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh
tịnh theo. Đó là phương pháp uốn dẹp tu
sửa thân tâm hữu hiệu nhất.
[^]
17. DO Ý THỨC ĐƯỢC
VIÊN THÔNG
Ông
Đại Mục Kiền Liên đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Rằng lúc nọ tôi đi
khất thực giữa đường được ba anh em
ông Ca Diếp: Ưu Lâu Tần Loa, ông Dà Gia
và Na Đề giảng nói lý nhân duyên
thậm thâm của Phật, tâm tôi bừng ngộ
thông suốt rỗng rang. Như Lai ban cho ca sa
mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Tôi
có khả năng du hí khắp mười phương
không trở ngại. Đại chúng suy tôn tôi
là "thần thông đệ nhất", trong
hàng vô học A La Hớn. Nay Phật hỏi viên
thông, xin thưa: Tôi xoay ý thức
trở về tánh sáng suốt trạm nhiên.
Giống như lóng nước đục, lóng nước
lâu trở về tự thể trong sạch. Đó
là phương tiện tu sửa đối với tôi
hữu hiệu nhất.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Thức
là dụng của căn, là chủ
thể nhận thức phân biệt trần.
Đó là tánh thấy của mắt, tánh nghe
của tai, tánh ngửi của mũi, tánh nếm
của lưỡi, tánh xúc của thân, tánh tư
duy của ý. Gọi chung qua cái từ lục
thức, tức là sáu công dụng của
sáu giác quan.
Năm
thức trước tiếp xúc với năm trần
sự lượng định để nhận thức, chúng
chỉ có hiện lượng. Cho nên
chúng chẳng lượng định phân biệt gì.
Do đó công dụng của năm thức trước
không có ý niệm: mừng, giận, thương,
sợ, yêu, ghét
phải, quấy, tốt,
xấu, lấy, bỏ, hơn, thua
cho nên năm
thức trước không thể tạo nên nghiệp thiện
hay ác. Chỉ có ý thức
ngoài hiện lượng ra, còn có
thêm hai lượng: tỷ và phi
lượng.
Năm
thức trước, nếu chung khởi với phi
lượng của ý thức, sẽ gây ra
sự sai quấy hoàn toàn đối với chơn
lý.
Năm
thức trước nếu chung khởi với tỷ
lượng của ý thức thì sự nhận
thức của con người có thể đúng mà
cũng có thể sai. Nhận thức đúng chơn
lý, trường hợp này được gọi là thiện.
Nhận thức sai chân lý thì gọi là bất
thiện, là ác.
Từ
nhận thức đó, ta thấy thức
cũng không phải là nguyên nhân để sanh
ra thiện ác tội phước.
Tội
là do bất giác vô minh, do mê.
Phước
thì chỉ cần cảnh giác, cần sáng
suốt không mê là trở nên người giác.
Cho nên gọi là "tu" không cần
phải dựa trên hình thức này, nghi lễ
nọ, cúng bái cầu đảo rườm rà. Chỉ
cần cảnh giác phiền não: tham, sân, si,
mạn
Chỉ cần tâm trí sáng suốt để
nhận biết: ta - bạn - giặc. Đừng để
kẻ giặc cướp vô minh phiền não vào
nhà chơn tâm thường trú, thể
tánh tịnh minh cướp phá sự
nghiệp trí tuệ giác ngộ giải thoát của
ta. Chỉ cần không mê thì ta là giác. Chỉ
cần không vọng, ta tự sẵn có chơn.
Tu
mà chú trọng nhập thất, đóng cửa
tự giam mình lễ bái "trú dạ lục
thời", nguyện tụng bộ kinh này, thệ
trì danh Phật nọ, hy vọng khấn vái chư
Phật mười phương: "thùy từ gia
hộ": "gia hộ cho con hiện tiền
tội diệt phước sanh, thiện căn tăng
trưởng", và "tha nhật đắc A Di
Đà thọ ký"
Đó là lối tu theo
cái đạo cầu bên ngoài. Lục Tổ Huệ
Năng gọi hạng người đó là "ngoại
đạo". Ngoại đạo
có nghĩa là cái đạo hy vọng ở tha
nhân, cái đạo "ngồi chờ sung
rụng" vào mồm.
Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta,
từ kim khẩu đã từng thọ ký
rằng:
"Tất
cả chúng sanh đã thành Phật"
(kinh
Pháp Hoa)
"Tất
cả chúng sanh sẽ thành Phật"
(kinh
Hoa Nghiêm)
Thọ
ký như vậy mà chưa vừa lòng, chưa
thỏa mãn hay sao ? Mà còn cầu:
"Tha
nhật đắc A Di Đà thọ ký !
"
Phật tử chúng ta hãy soát lại lòng
mình. Một con người tham lam vô độ, có
xứng đáng là đệ tử Phật chưa ?
Hàng cư sĩ không có thời giờ học
hỏi giáo lý, tham lam cầu: "Tha nhật
đắc A Di Đà thọ ký" còn có lý do
để tha thứ. Chớ Tăng Ni, người
trưởng tử Phật Thích Ca mà không tin
lời thọ ký của đức Bổn
Sư mình, thì xin ai đó, hãy để lòng
tự xét
Hay
là người ta viện lẽ
"Phật
nhà không thiêng
"
[^]
*
* *
18. DO HỎA ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ông
Ô Sô Sắc Ma đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Tôi nhớ những kiếp xa
xưa, tánh tôi nhiều tham dục. Bấy giờ
nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ
thế. Đức Không Vương Như Lai bảo rằng:
"Người đa dâm như đống lửa
hồng". Rồi Phật dạy tôi quán hơi
nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ
quán như vậy tinh thần sáng suốt, nội
tâm đứng lặng, tâm háo dâm trở
thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật
gọi tôi với cái tên Hỏa Đầu. Tôi
dùng sức hỏa quang tam muội mà chứng
quả A La Hớn. Tôi phát đại nguyện,
nếu có chư Phật thành đạo thì tôi
làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh
dẹp bọn tà ma khuấy phá. Nay Phật hỏi
nhân duyên được viên thông,
xin thưa rằng: Do tôi quán hơi ấm trong
thân, lưu thông không ngăn ngại; từ
đó các lậu tiêu trừ, sanh lửa trí
tuệ. Đối với tôi, đó là pháp tu
hữu hiệu nhất.
[^]
19. DO ĐỊA ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Trì Địa Bồ Tát đứng dậy cung kính
chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ lại
trong những kiếp xa xưa, tôi từng
được gặp Phật và cúng dường chư
Phật như hằng sa, và cũng từng phục
vụ vô lượng chúng sanh đem đến chúng
sanh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ,
ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế,
tôi là một tỳ kheo phát tâm sửa
chữa những đoạn đường gồ ghề sụp
lở, những bến xe, bến đò bất tiện
cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài
những công trình gánh đất, bưng sỏi,
đắp bồi sửa chữa như vậy, tôi còn
mang gánh giúp đỡ những người gánh
gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không
lấy tiền công.
Vào
thời Phật Tỳ Xá Phù trụ thế, nhân
gian nhiều đói kém, tôi phải cỏng giúp
nhiều người không kể gần xa mà chỉ
lấy một đồng tiền
có lúc tôi ra
sức kéo phụ xe trâu qua những nơi quá
lầy lội. Có lúc vì Phật tôi sửa
đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa
trai.
Một
hôm Đức Tỳ Xá Phù Như Lai đi qua
đoạn đường tôi vừa sửa chữa.
Phật xoa đầu tôi mà dạy rằng:
"Nên bình cái tâm địa thì đất đai
trên thế giới đều bình". Tôi nghe,
tâm liền sáng bừng tỏ ngộ. Tôi quán
thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi
trần tạo thành thế giới bên ngoài
không sai khác gì nhau. Tự tánh vi trần
không chạm sát với nhau, cho đến đao
binh các thứ tự nó cũng không va chạm
gì. Nhờ nhận thức như vậy, tôi tỏ
ngộ vô sanh nhẫn, thành A La Hớn hồi
tâm. Nay ở trong hàng Bồ Tát nghe Phật
dạy: Tri kiến Phật như diệu liên hoa,
tôi lãnh hội trước tiên, đại chúng
suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi
nguyên do đạt đến viên thông,
xin thưa: Do tôi quán trần ở nội thân
và trần cấu của thế giới bên ngoài
bình đẳng không sai khác. Tất cả từ
Như Lai tàng tùy duyên biến hiện. Vọng
tâm chấp mắc trần tướng tiêu vong thì
trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ Đề.
Đó là đối tượng sở quán, đối
với tôi đem lại thành công ưu việt
nhất.
[^]
20. DO THỦY ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Nguyệt Quang đồng tử đứng dậy cung
kính chấp tay bạch Phật: Rằng tôi nhớ
hằng sa kiếp trước có đức Phật ra
đời hiệu Thủy Thiên. Thủy Thiên Như
Lai dạy các Bồ Tát nên quán về nước
để nhập tam ma đề. Phật dạy
quán tánh nước không gì lấn cướp
làm cho mất hẳn được. Từ nước
mắt, nước mũi, nước miếng, nước
tiểu, nước tân dịch trong châu
thân
đều quán một tánh nước
đồng nhau. Tánh nước trong tự thân
cùng tánh nước các bể hương thủy
phù trần vương sát của thế giới bên
ngoài, đồng nhau không sai khác. Lúc tôi
thành tựu pháp thủy quán này, tôi chỉ
thấy được tánh đồng của nước mà
chưa thấy được "thân không".
Hồi bấy giờ, tôi là một tỳ kheo tọa
thiền trong một tịnh thất, có người
đệ tử trông cửa sổ nhìn vào, thấy
toàn là nước. Vì nhỏ dại nó liền
lấy một miếng ngói ném vào, rồi tự
bỏ đi. Khi xuất định tôi thấy tim đau
một cách lạ thường. Truy nguyên ra
duyên cớ, tôi bảo người đệ tử: Khi
tôi nhập định, trông thấy nước trong
thất thì hãy vào nhặt miếng ngói mà
người đã ném ấy ra. Quả thật, khi
xuất định, tôi không còn đau đớn
nữa.
Qua
vô lượng kiếp sau tôi được gặp vô
lượng Phật, nhưng chưa chứng ngộ. Mãi
đến thời Sơn hải Huệ Tự Tại Thông
Vương Như Lai thì tôi mới chứng được
"không thân". Bây giờ tôi thấy
rõ nước trong tự thân cùng với
nước bể Hương Thủy trong mười phương
thế giới đồng một tánh chân không,
không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải
Huệ Tự Tại, tôi được hiện là
Đồng Chân, dự vào hàng Bồ Tát. Nay
Phật hỏi nguyên nhân được viên
thông, xin thưa: Do tôi quán tánh nước dung thông mà được vô sanh nhẫn.
Đối với tôi, pháp Thủy quán là ưu
việt nhất.
[^]
21. DO PHONG ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy
cung kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ
lại hằng sa kiếp trước có Phật ra
đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Phật khai
thị cho các Bồ Tát về: Bản giác
diệu minh. Dạy các Bồ Tát quán:
Thế giới và chúng sanh đều do sự vận
động của sức gió vọng duyên
chuyển biến mà hình thành. Riêng tôi,
lúc bấy giờ, tôi quán không gian an
lập; quán thời gian trôi đi mãi; quán
thân, khi động khi dừng; quán tâm, niệm
trước diệt, niệm sau sanh
Tất cả
những chuyển động biến diệt, tôi thấy
không hai không khác. Tôi nhận thức rõ
rằng tánh của các thứ động: Đến
không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất
cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên
thế giới có trong pháp giới mười
phương do sức gió vọng duyên mà
hình thành, mà sanh hoạt với nhau trong
tánh bản giác diệu minh, chân tâm
minh diệu. Giống như hàng vạn muỗi
mòng trong một cái đồ đựng, kêu vo vo
rầm rỉ, ào ào rối rít với nhau.
Tôi
quán sát tư duy như vậy, không bao lâu,
tôi được vô sanh pháp nhẫn làm vị
Pháp Vương tử. Nay Phật hỏi viên
thông, xin thưa: Do tôi quán tánh phong
đại "đi không chỗ từ, đến
không chỗ tới" mà tỏ ngộ tâm Bồ
Đề. Đối với tôi thì quán phong đại
là đệ nhất.
[^]
22. DO KHÔNG ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Hư Không Tạng Bồ Tát đứng dậy cung
kính chấp tay bạch Phật: Tôi nhớ lại
tôi cùng Như Lai đồng chứng được
"vô biên thân" hồi thời Phật
Định Quang. Lúc đó tay tôi cầm bốn
đại bảo châu chiếu sáng cõi Phật
mười phương như số vi trần đều hóa
thành hư không. Bấy giờ tâm tôi sáng
suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Tôi
quán sát khắp phù trần hương sát cùng
tột hư không, nhập vào thân tôi. Thân
tôi và hư không không ngăn ngại gì
nhau. Do vậy, tôi khéo vận dụng hài hòa
vào cõi nước như vi trần làm Phật
sự được thuận lợi lớn lao. Sức
thần to lớn đó do tôi quán sát tứ
đại không có chỗ sở y. Do vọng
tưởng mà thấy có diệt có sanh. Hư
không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do
tôi phát minh được tánh đồng mà
chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay
Phật hỏi duyên nhơn nào được viên
thông, xin thưa: Do tôi quán chiếu hư
không vô biên mà thể nhập tam ma
đề là phương tiện ưu việt nhất.
[^]
23. DO THỨC ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Di Lặc Bồ Tát đứng dậy cung kính chấp
tay bạch Phật: Tôi nhớ lại vi trần
kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật
Nguyệt Đăng Minh. Tôi được theo Phật
xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế
gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc.
Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy tôi tu
tập định: Duy tâm thức và
tôi được nhập tam ma đề. Trải hằng sa
số kiếp đến nay, tôi sử dụng tam muội
ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm
cầu danh, được diệt hết. Đến thời
Phật Nhiên Đăng ra đời tôi mới
chứng được tam muội thức tâm
diệu viên vô thượng. Bấy giờ
tôi quán thấy cõi nước của chư Như
Lai, tột bờ mé hư không, tịnh uế, có
không đều do thức tâm biến hiện.
Bạch
Thế Tôn ! Do tôi tỏ ngộ Duy tâm
thức, thức tánh của tôi xuất
hiện vô lượng Như Lai, và hiện nay
được Phật thọ ký, tôi sẽ được
bổ xứ thành Phật ở cõi Ta Bà sau
này. Nay Phật hỏi nguyên nhân viên
thông, xin thưa: Tôi quán mười
phương đều Duy thức. Thức tâm tròn
sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận
thức đúng thực thể của tánh y tha
khởi thì chứng nhập tánh viên thành
thật, được vô sanh nhẫn. Đối với
tôi đó là pháp quán ưu việt nhất.
[^]
24. DO KIẾN ĐẠI
ĐƯỢC VIÊN THÔNG
Ngài
Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với
52 vị Bồ Tát đồng tu một pháp môn
cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch
Phật: Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có
Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng
Quang. Thời đó có 12 đức Phật ra
đời trong một kiếp. Đức Phật sau hết
hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho
tôi phép niệm Phật tam muội: Rằng Thập
phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như
mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ
như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con
không xa cách. Tâm chúng sanh nhớ
tưởng Phật thì tâm ấy là Phật. Nhất
định thấy Phật, không cần phương tiện
nào khác. Ví như người ướp hương thì
toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gọi
là hương quang trang nghhiêm. Chính tôi
nhờ niệm Phật mà được vô sanh nhẫn.
Nay ở cõi Ta Bà, tôi nguyện hướng
dẫn người niệm Phật để có được
tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào
được viên thông, xin thưa:
Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không
vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà
được tam ma đề đối với tôi đấy
là pháp môn thù thắng nhất.
[^]
*
* *
TRỰC
CHỈ
Đại
có nghĩa là bao trùm phổ biến khắp
không gian và thời gian. Địa, thủy, hỏa,
phong, không, kiến, thức. Phật học gọi
đó là thất đại, vì bảy thứ này
phổ biến không chỗ nào không có.
Không gian, thời gian, hàm tàng thất
đại không dư không thiếu; nói cách
khác tự thể không gian, thời gian là
thất đại ấy. Nếu tách bỏ thất đại
ra, không thể có khái niệm không gian
và thời gian. Do thất đại mà khái
niệm không gian và thời gian được cụ
thể hóa, được hình thành. Thất đại
là nguyên nhân trực tiếp của hiện
tượng vạn hữu, duyên khởi sanh ra
hiện tượng vạn hữu. Tuy nhiên nó chưa
phải là một đơn vị thực thể cố định
bất di bất dịch, một yếu tố đầu tiên
của hiện tượng vạn hữu nào. Theo
Phật học, không có một sự vật nào
có một thực thể cố định bất di bất
dịch của tự nó. Không có một sự
vật nào sanh ra mà không kết hợp tương
quan với những yếu tố khác. Chỉ len đan
thành chiếc áo len, nhưng chỉ len không
phải là yếu tố đầu tiên của chiếc
áo len ấy. Địa, thủy, hỏa, phong, không,
kiến, thức là những hình thái của
chủng tử được biểu hiện rõ nét hơn
trong Như Lai tàng bản thể mà thôi.
Nếu
hòa hợp bởi năm đại: Địa, thủy,
hỏa, phong và không là đủ yếu tố
duyên khởi ra núi sông, đất liền, cây
cỏ
trong vũ trụ.
Nếu
hòa hợp đủ bảy đại thì sẽ duyên
khởi sanh ra những loại chúng sanh có tri
giác trong vũ trụ.
Trong
các loại hữu tình có giác tri, con
người là ưu việt nhất.
Núi
sông đất liền cỏ cây hoa lá gọi là
khí thế gian hoặc cũng gọi là vô tình
chúng sanh.
Những
loài có tri giác gọi là chánh báo thế
gian cũng gọi là hữu tình chúng sanh.
Nhìn
bên khí thế gian để tìm hiểu nguyên ủy
của hiện tượng vạn hữu, người ta
gọi đó là vũ trụ quan.
Nhìn
bên hữu tình thế gian để tìm hiểu
nguồn gốc nguyên thỉ của con người,
người ta gọi đó là nhân sanh quan.
Qua
giáo lý đoạn kinh Thủ Lăng Nghiêm này,
ta thấy vũ trụ nhân sanh đồng một bản
thể. Như Lai tàng bản thể duyên sanh
hiện tượng vạn hữu như nước duyên
khởi sóng mòi bọt bong bóng vậy. Với
cái nhìn của người đạt đạo, nhận
thức rõ chân lý của hiện tượng vạn
pháp qua quy luật: tùy duyên bất biến,
bất biến tùy duyên; người ta tự tại
an nhiên thoải mái cả trong vấn đề
sống chết:
"Trường
không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm
âu".
Tuệ
Trung thượng sĩ, một thiền sư Việt Nam
đời Trần, quan niệm sự sống chết dễ
dàng, không chút sợ sệt, lo âu như
vậy. Tạm dịch hai câu thơ đó như sau:
"Cổ xe ảo ảnh
trong không
Có ai tham đắm
nặng lòng ước ao ?
Mặt hồ sóng
bọt lao xao
Có ai đau khổ
bọt tan sóng bình" ?
Do
con người nhận thức sai lầm vạn hữu,
đánh giá quá thấp hoặc quá cao. Sự
sai lầm đó, phủ lên hiện tượng vạn
hữu lớp sương mù "biến kế
chấp" làm cho con người không nhận
được thực chất "y tha duyên"
của hiện tượng vạn hữu. Do đó càng
không thể biết được nguồn gốc thanh
tịnh bản nhiên của "viên thành
thật" trong bản thể Như Lai tàng. Do
đó vọng sanh quan niệm: Sanh, diệt,
hữu, vô, đoạn, thường, khứ, lai
loạn khởi.
Các
Bồ Tát ngược dòng quán chiếu, thấy
rõ sự thật "y tha" dùng đuốc
trí tuệ rọi tan sương mù "biến
kế", nhận chân cái thật tánh
"viên thành" của thất đại. Thì
ra: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến,
thức vốn là chân không thanh tịnh bản
nhiên, châu biến pháp giới. Không có
một pháp nào mang theo, đem đến cho ai
một mảy may vương víu một tí tị phiền
não khổ đau nào !
Do
vậy, 25 vị thánh đệ tử, dựa trên căn
trần, thức và thất
đại đều chứng được quả giải
thoát viên thông.
[^]
--- o0o ---
Mục lục
Mục lục tập 01
|
chương 1 | chương 2 |chương 3 - chương 3a
Mục
lục tập 02 |
chương 4 |chương 5 | chương 6
Mục lục tập 03 |
chương 7| chương 8 | chương 9 | chương 10|
Phụ lục
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục