KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Trọn bộ mười quyển
BỒ TÁT ĐỊA
PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU
SỰ NHIẾP LẤY CỦA TẤT CÁNH ĐỊA
Khi Bồ Tát tu tất cả Hạnh, có sáu việc khéo nhiếp chúng sanh:
1.Hết lòng nhiếp lấy.
2.Tăng thêm sự nhiếp lấy.
3.Giữ sự nhiếp lấy.
4.Rốt ráo nhiếp lấy.
5.Chẳng rốt ráo nhiếp lấy.
6.Sự nhiếp lấy sau hết.
-Đại Bồ Tát lúc sơ phát tâm nhiếp lấy chúng sanh như: cha mẹ, anh em, vợ con, bà con thân tộc, v.v…Hết lòng buộc niệm về phương tiện nhiếp lấy, nghĩ rằng: “Làm sao tôi có thể đem lại cho chúng sanh mọi sự an vui”. Khi khởi nguyện như vậy rồi, tùy sức của mình mà cấp giúp cho. Đây gọi là sự hết lòng nhiếp lấy của Bồ Tát.
-Đại Bồ Tát tuy tấm lòng trội hơn cha mẹ, vợ con, anh em thân thuộc, nhưng không kiêu căng, tự cao ngã mạn, mà còn cung cấp, nuôi dưỡng gấp bội. Nếu được làm vua, thì việc cư xử đối với thân tộc lại cũng như vậy. Sự tăng thêm là phá hỏng điều ác, dạy làm điều lành, tùy sức lễ lạy, ca tụng, cung cấp dưỡng nuôi, mang lại món ăn, áo mặc và các món cần dùng. Biết ơn, báo ơn, trông nom bệnh hoạn, tìm kiếm thuốc thang. Đối với gia nhân, chẳng xem họ là kẻ tớ hèn hạ mà tưởng chừng như anh em cật ruột. Nếu thấy tộc thuộc gây tạo tội lỗi, bèn kham nhẫn chịu. Nói năng ngay thẳng lời lẽ nhu hòa, không hề thô bạo. Nếu làm vua một nước, chẳng gây đau khổ đối với nhân dân, chẳng giết mạng người, lìa bỏ cực hình, lấy chánh pháp trị nước. Tùy theo gốc gác của mỗi giòng tộc mà phân ranh giới, chẳng sanh tham lam xâm đoạt nước người, ra sức nuôi dân, xem khắp dân chúng dường như con một. Những vật sở hữu đều cùng quyến thuộc chia dùng cân bằng, lời nói thành thực, lời nói dịu dàng không chút thô tục và lìa tánh sẻn tham.
Đây gọi là tăng thêm sự nhiếp lấy của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát nhiếp lấy chúng sanh, có hai nhân duyên: Nột là bố thí tài sản, hai là bố thí giáo pháp. Đem tài sản thí phá sự nghèo nàn. Đem giáo pháp bố thí phá chấp tà bậy. Đối với chúng sanh tâm Bồ Tát luôn luôn bình đẳng, chẳng tạo điều sẻn lận, chẳng có ý ngã mạn kiêu xa, làm ra tướng trạng bực thầy, chẳng cầu mong người đền ơn đáp nghĩa, chẳng cầu mong người cung cấp dưỡng nuôi. Nếu có người nào vì cầu phước báo mà tìm đến cúng dường, Bồ Tát cũng không ngăn cấm, vì khiến cho họ thêm lớn phước đức trang nghiêm. Nếu như có người tu tập pháp lành, trì giới, tinh tấn, Bồ Tát thấy rồi cúng dường, gần gũi và làm người sai khiến. Người không hiểu nghĩa, vì họ giải nói rõ nghĩa. Người đã hiểu nghĩa, Bồ Tát vì nói khiến được tăng trưởng. Nếu như có người mắc vào lưới nghi, liền vì người ấy nói nghĩa sâu xa khiến dứt trừ nghi. Dẫu khổ hay vui cũng đồng cảnh ngộ với người nhưng tâm không tăng giảm. Biết người phạm tội, dùng phương tiện khéo chỉ vẽ sám hối, có khi quở trách, có lúc đề cao, gặp người bệnh khổ trông nom không bỏ, khéo dùng phương tiện trừ mối lo âu.
Nếu có chúng sanh kém sắc, chậm tiến, tâm Đại Bồ Tát không hề khinh miệt, mà tùy lúc giảng nói nhân duyên của tâm chơn chánh, gặp người sầu khổ, nói pháp an ủi. Tự mình khéo tư duy, lời lẽ bất tín của những người khác không thể lay động, được người cho vật liền đem chia đều đại chúng. Thành tựu đầy đủ sự tu tập lòng từ, gặp người mưu sinh chơn chánh đón chào hỏi han, xa lìa ác tâm, thường tu thiện pháp, không hề phóng túng, lìa bỏ biếng lười, thường lập thệ nguyện: “Làm sao cho phước đức của tôi san sẻ đồng đều đến khắp tất cả”.
Trong tất cả thế gian, không phải lúc nào Đại Bồ Tát cũng thực hành giữ sự nhiếp lấy, mà là những lúc có sự lợi ích mới là nhiếp giữ. Đây gọi là Giữ sự nhiếp lấy của Đại Bồ Tát.
-Nếu có những người căn tánh tối chậm, hoặc là những người căn lành khó thuần, thì sự nhiếp lấy của Đại Bồ Tát phải trải lâu xa. Vì trải qua lâu xa, cuối cùng họ phải có tâm trong sạch. Đây gọi là rốt ráo nhiếp lấy.
-Nếu những chúng sanh căn tánh trung bình sự thành thực bực trung, thì việc nhiếp lấy chẳng phải lâu xa. Vì sao? Vì không bao lâu sẽ được tâm trong sạch. Đây gọi là chẳng rốt ráo nhiếp lấy.
-Nếu như có người căn cơ lanh lợi, dễ được thuần thục, sự thuần thục bực thượng, dễ tịnh, dễ điều. Đây gọi là sự nhiếp lấy sau hết của Đại Bồ Tát.
Như trên gọi là sáu điều nhiếp lấy của Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát dùng sáu sự nhiếp thủ này, nhiếp tất cả chúng sanh trong ba đời. Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại nhiếp lấy chúng sanh đều không ra ngoài sáu thứ nhiếp này.
Khi Đại Bồ Tát nhiếp hóa chúng sanh có mười hai sự khó:
-Đại Bồ Tát biết rõ không ngã, không ngã sở, không chúng sanh, nhưng vì chúng sanh mà tu tập hạnh khổ. Đó là sự khổ thứ nhứt.
-Vì điều phục chúng sanh mà tạo sự quở trách, nhưng vẫn tự mình bảo vệ giới cấm chẳng để tổn thương. Đây gọi là cái khó thứ hai.
-Vật dùng có ít kẻ xin lại nhiều, ấy là cái khó thứ ba.
-Bồ Tát chỉ một thân lại hệ thuộc nhiều người, phải quây quần đem thân làm người cung cấp sai khiến. Đây là cái khó thứ tư.
-Cùng mang một thân, đồng với chư thiên phóng dật, nhưng trong thâm tâm không chút phóng dật. Đây gọi là cái khó thứ năm.
-Thường làm sai sử cho rất nhiều người nhưng riêng tự mình đối với giới cấm không để hỏng mất. Ấy là cái khó thứ sáu.
-Thường chung đụng với những kẻ xấu ác như tham dục, giận hờn, ngu si, se lận, nịnh hót quanh co, gian tà xảo quyệt…Ở chung với họ nhưng chẳng hành động theo. Đó là cái khó thứ bảy.
-Biết rõ sanh tử có nhiều mối lo ngại, nhưng vì chúng sanh mà chẳng bỏ xa. Ấy là cái khó thứ tám.
-Tất cả phiền não qua lần sống chết, khi bỏ mạng sống tâm chưa thanh tịnh, dầu chưa thanh tịnh nhưng không mất chánh niệm. Đây là cái khó thứ chín.
-Chưa được tâm thanh tịnh nhưng có thể đem thân mình và những gì yêu mến nhứt như vợ con, quyến thuộc cung cấp cho người. Đây là cái khó thứ mười.
-Chúng sanh tâm tư khác biệt, cảnh giới rộng lớn chẳng đồng, có khi phải mềm mỏng, có khi phải hỷ xả. Ấy là cái khó thứ mười một.
-Trọn không buông lung, chẳng dứt phiền não, ấy là cái khó thứ mười hai.
-Đại Bồ Tát đối với chúng sanh, chẳng tạo điều khinh trọng. Có lúc làm ra vẻ khinh thường, có lúc giả làm ra vẻ trịnh trọng, có khi chỉ nhìn cảnh tượng, có khi tâm phát mạnh dạn, khi thì lập nguyện, khi thì buông lung, hoặc tu trí tuệ, hoặc tu mềm mỏng, hoặc như quở trách, hoặc như bỏ rơi, hoặc siêng năng tinh tấn, hoặc bê trễ lười biếng, hoặc tạo ra phương tiện v.v.
Đại Bồ Tát lập sự học như thế, ở trong cảnh ngộ khó khăn mà làm người không lo rầu, hối hận, đã có thể tự bảo vệ lấy mình, lại làm lợi ích cho khắp tha nhân.
PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY
SỰ RỐT RÁO CỦA TẤT CÁNH ĐỊA
Đại Bồ Tát tu mời hai hạnh, tóm lại có thể chia làm bảy Địa. Sáu địa thuộc về Bồ Tát, một địa chung với Thanh Văn. Bảy địa là:
1.Tánh địa.
2.Giải địa.
3.Tịnh tâm địa.
4.Trì địa.
5.Định địa.
6.Định hạnh địa.
7.Tất cánh địa.
Tánh Hạnh, Giải Hạnh, mỗi Hạnh là một Địa. Hỷ Hạnh gọi là Tịnh tâm địa.
Giới Hạnh, Tuệ Hạnh cho đến Hành Hạnh, gọi là Trì địa.
Vô tướng Hạnh gọi là Định địa.
Vô ngại Hạnh gọi là Định hạnh địa.
Như Lai Hạnh gọi là Tất cánh địa. (Phẩm sau sẽ nói về Tất cánh địa)
Khi Bồ Tát từ địa dưới vào Tịnh tâm địa, làm sao có thể chấm dứt nỗi khổ nơi ba ác đạo?
Bồ Tát khi còn tu tập các thiền định hữu lậu thế gian. Tu pháp tiền hữu lậu rồi, được kết quả sự thanh tịnh của thế thiền, tu thế thiền được thanh tịnh rồi liền được giải địa, trang nghiêm đạo Bồ Đề và tu tập 110 món thuộc Bi tâm. Bởi tu Bi tâm cho nên được tâm cứu vớt đối với chúng sanh. Vì được Bi tâm cho nên vẫn thấy vui thích với ba ác đạo, xem ba đường ác như nhà cửa của mình.
Bồ Tát lại quán xét: “Nơi ba đường ác, trong khi trang nghiêm Vô thượng Bồ Đề, vì chúng sanh mà tôi chịu phiền khổ não, nếu tâm trong sạch của tôi có đủ thế lực, nguyện cho bao nhiêu nỗi khổ của chúng sanh đều gom vào thân tôi”.
Sự khéo lập nguyện lớn, do năng lực thiện nghiệp và năng lực thiền định thế gian, cho nên Bồ Tát xa lìa tập khí phiền não nơi thân tâm. Vì lìa tập khí cho nên thân tứ đại thay đổi. Tứ đại thay đổ và do sụ thanh tịnh của thế thiền mà chẳng đến ba đường ác, vì thế Bồ Tát được dứt sự khổ nơi ba ác đạo.
Qua Giải Hạnh Địa rồi vào Tịnh tâm địa, những công đức và mười tịnh tâm như đã nói trong Hỷ hạnh, mười tịnh pháp như vậy là những pháp đối trị, nhằm đối trị những tâm bất tịnh như: Tâm không muốn tạo tác. Không chịu phát tâm lập nguyện. Không thọ giới Bồ Tát. Tâm không tin tưởng, Tâm xấu ác, Tâm chẳng tu Bi nguyện. Tâm giận dỗi. Tâm lo rầu hối hận. Tâm không từ mẫn và Tâm buông lung. Nói chung là những thứ tâm thô hèn do tham tiếc thân mạng, chẳng tùy thuận thế gian, trễ nải, lười biếng, không hổ, không thẹn, sợ khổ bức thân, nghi ngờ, hèn nhát, chẳng chịu siêng năng cúng dường Tam Bảo. Mười tịnh tâm là để đối trị những tâm bất tịnh như trên.
Trong mười Tịnh tâm này, ba pháp đầu nhằm làm cho tâm trong sạch, Bảy pháp sau làm thanh tịnh sự trang nghiêm.
Đại Bồ Tát tin về Bồ Đề và đạo Bồ Đề, vì tin đạo Bồ Đề và thấy chúng sanh chịu khổ, Bồ Tát phát sanh lòng Từ rộng lớn, vì sanh lòng Từ cho nên liền lập đại nghiệp: “Nguyện cho tôi cứu vớt tất cả những nỗi khổ như thế”.
Bởi tâm thương xót cho nên xả thân ban cho không tham tiếc thứ gì, làm lợi ích chúng sanh tâm không lo hối. Vì tâm không lo hối, Bồ Tát cầu học phương thuật thế gian. Biết các phương thuật thế gian, cho nên khéo biết thời tiết để chiều chuộng lòng người. Do biết đúng thời cho nên gọi là Biết rõ thế gian. Do sức trí tuệ cho nên khách trần phiền não khó bề xâm nhập. Nếu bị xâm nhập rất sanh hổ thẹn. Vì sự hổ thẹn nên chẳng để phiền não tự do phát khởi. Đây gọi là sự mạnh mẽ. Do sự mạnh mẽ nên không buông lung. Vì không buông lung cho nên tu tập pháp lành. Vì tu pháp lành cho nên thọ giới Bồ Tát. Thọ Giới Bồ Tát cho nên cúng dường Tam Bảo, do cúng dường Tam Bảo mà tâm trở nên thanh tịnh, thế nên gọi là Tịnh địa.
PHẨM THỨ HAI MƯƠI
TÁM
HẠNH TẤT CÁNH ĐỊA
Đại Bồ Tát trụ Giải địa cho đến Bồ Tát địa có bốn hạnh:
1.Hạnh Ba la mật.
2.Hạnh Bồ đề.
3.Hạnh thần thông.
4.Hạnh thành thục chúng sanh.
Hạnh Ba la mật: Như trước đã nói về sáu pháp ba la mật, Phương tiện ba la mật, Nguyện ba la mật, Lực ba la mật, Trí ba la mật, Mười ba la mật như thế gọi là Hạnh ba la mật.
Phương tiện ba la mật hay khéo, gồm có mười hai cách thức như đã nói ở phẩm trước (12 sự khó).
Nguyện ba la mật gồm có năm điều, cũng đã nói như ở trước.
Mười Lực trang nghiêm thanh tịnh, gọi là Lực ba la mật.
Biết rõ Xứ chẳng phải Xứ của tất cả các pháp, gọi là Trí ba la mật. Biết đệ nhứt nghĩa đế, gọi là Bát nhã ba la mật.
Lại nữa, vô lượng trí gọi là phương tiện ba la mật. Cầu Thắng trí hơn nữa gọi là Nguyện ba la mật. Chẳng bị bốn thứ mà làm chướng ngại gọi là Lực ba la mật. Có thể biết tánh chơn thật của các pháp giới gọi là Trí ba la mật.
Trên đây gọi là Hạnh ba la mật.
Hạnh Bồ Đề: Bốn niệm xứ cho đến tám Thánh đạo, Bốn sự suy cầu, Bốn Chơn trí như đã nói ở trước, gọi là Hạnh Bồ Đề.
Hạnh thần thông: Như trong phẩm chẳng thể nghĩ bàn đã nói rõ. Sáu thần thông cũng đã nói đến, gọi là Hạnh thần thông.
Hạnh thành thục chúng sanh: Có hai ý nghĩa vô lượng: Điều phục vô lượng và Phương tiện vô lượng như trước đã nói, gọi là Hạnh thành thục chúng sanh.
Bốn Hạnh như thế của Bồ Tát nhiếp tất cả Hạnh.