Phần
19
Chương
VIII : Tương Ưng Lakkhana
I.
Phẩm Thứ Nhất
I. Đống
Xương(Tạp, Đại 2, 135a) (S.ii,254)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm)
chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Lúc
bấy giờ Tôn giả Lakkhana và Tôn giả Mahà Moggallàna trú ở
núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).
3) Rồi
Tôn giả Mahà Moggallàna đắp y, vào buổi sáng, cầm y bát, đi
đến Tôn giả Lakkhana.
4) Sau
khi đến, nói với Tôn giả Lakkhana:
- Chúng
ta hãy cùng đi, này Hiền giả Lakkhana. Chúng ta hãy đi vào Ràjagaha
để khất thực.
- Thưa vâng,
Hiền giả.
Tôn
giả Lakkhana vâng đáp Tôn giả Mahà Moggallàna.
5) Rồi
Tôn giả Mahà Moggallàna khi đi từ núi Gijjhakuuta bước xuống,
đi qua một chỗ, liền mỉm cười.
6) Rồi
Tôn giả Lakkhana nói với Tôn giả Mahà Moggallàna:
- Này
Hiền giả Moggallàna, do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại
mỉm cười?
- Này
Hiền giả Lakkhana, không phải thời là câu hỏi ấy. Trước
mặt Thế Tôn, hãy hỏi tôi câu hỏi ấy.
7) Rồi
Tôn giả Lakkhana và Tôn giả Mahà Moggallàna sau khi đi khất
thực ở Ràjagaha xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất
thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Lakkhana nói với Tôn giả Mahà
Moggallàna:
- Ở đây,
Tôn giả Mahàa Moggallàna khi từ núi Gijjhakuuta bước xuống,
đi ngang qua một chỗ, liền mỉm cười. Này Hiền giả Moggallàna,
do nhân gì, do duyên gì, Hiền giả lại mỉm cười?
9) - Ở
đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống,
tôi thấy một bộ xương đang đi trên trời. Các con kên kên,
các con quạ, các con chim ưng đuổi theo nó, cắn mổ xương sườn
nó, cắn xé nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn.
10) - Này
Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật
vi diệu thay! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một chúng
sanh như vậy. Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một
Dạ-xoa như vậy! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành
được một tự ngã như vậy!"
11) Rồi
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Sống
với nhau như thực nhãn, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử!
Thật sống với nhau như thực trí, này các Tỷ-kheo, là các
đệ tử. Vì rằng một đệ tử sẽ biết, hay sẽ thấy, hay
sẽ chứng thực như vậy.
12) Xưa
kia, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy chúng sanh ấy nhưng Ta không
có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và
những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau
khổ lâu dài.
13) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một đồ tể giết trâu bò (goghatako)
ở Ràjagaha này. Do nghiệp của người đó thuần thục, sau
khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm,
nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm và với quả thuần
thục còn lại người đó cảm thọ một tự ngã như vậy.
II. Đồ
Tể Giết Trâu Bò (Gavaghàtako) (Tạp, Đại 2, 135b)
(S.ii,256)
1)...
2) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một đống thịt đang đi giữa hư không. Các con kên kên,
các con quạ, các con chim ưng đuổi theo nó, cắn mổ nó, cắn
xé nó, và nó kêu lên tiếng kêu đau đớn.
3) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một đồ tể giết trâu bò.
III.
Một Miếng Thịt và Kẻ Bắt Chim (Tạp, Đại 2, 136a)
(S.ii,256)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một miếng thịt đang đi giữa hư không... đau đớn.
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một kẻ săn chim ở Ràjagaha.
IV. Người
Giết Dê Bị Lột Da (Tạp, Đại 2, 135c) (S.ii,256)
1) Ở đây,
này Hiền giả... tôi thấy một bị da... cắn mổ nó, cắt xé
nó, và nó kêu lên những tiếng kêu đau đớn...
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người đồ tể giết dê
ở tại Ràjagaha này...
V. Người
Giết Heo Với Đao Kiếm (Tạp 19-14, Đại 2, 136c) (S.ii,257)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với lông bằng đao kiếm đang đi giữa hư
không. Các đao kiếm ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi
xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những
tiếng kêu đau đớn.
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người giết heo ở tại Ràjagaha
này...
VI. Người
Săn Thú Với Cây Lao (Tạp, Đại 2, 136b) (S.ii,257)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với lông bằng các cây lao đang đi trên hư
không. Những cây lao ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi
xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những
tiếng kêu đau đớn.
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người thợ săn thú ở
tại Ràjagaha này.
VII.
Người Tra Tấn Vớ婠Mũi Tên. (S.ii, 257)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gujjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với lông bằng các mũi tên, đang đi giữa
hư không. Những mũi tên ấy tiếp tục đứng dựng lên và rơi
xuống trên thân người ấy, và người ấy kêu lên những
tiếng kêu đau đớn.
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người tra tấn ở tại Ràjagaha
này.
VIII.
Người Đánh Xe Với Các Cây Kim (Tạp, Đại 2, 136b)
(S.ii,257)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với lông bằng mũi kim đang đi giữa hư không...
2) Chúng sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người điều phục các loài thú (xin đọc Suuto thế cho Suucako của nguyên bản).
IX. NGười
Do Thám
1) Ở đây,
thưa Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với lông bằng mũi tên đang đi giữa hư không.
2) Các mũi
tên ấy đâm vào đầu và ra khỏi miệng người ấy. Chúng đâm
vào miệng và ra khỏi ngực người ấy, chúng đâm vào ngực
và ra khỏi bụng người ấy, chúng đâm vào bụng và ra khỏi
bắp vế của người ấy, chúng đâm vào bắp vế và ra khỏi
cổ chân của người ấy, chúng đâm vào cổ chân và ra khỏi
bàn chân của người ấy và người ấy kêu lên những tiếng
kêu đau đớn.
3) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một gián điệp ở tại Ràjagaha
này.
X. Người
Phán Quan Tham Nhũng Với Hòn Dái Lớn (S.ii,258)
1) Ở đây,
này các Tỷ-kheo, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người với hòn dái đang đi giữa hư không.
2) Khi đang
đi, người ấy mang hòn dái trên vai mà đi. Khi ngồi, người
ấy ngồi trên những hòn dái ấy.
3) Và các
con chim kên kên, chim quạ, chim ưng đuổi theo người ấy để
cắn mổ, cắn xé, và người ấy kêu lên những tiếng kêu đau
đớn.
4) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một phán quan ở Ràjagaha này.
II.
Phẩm Thứ Hai
I.
Kẻ Thông Dâm Bị Chìm Trong Hố (Tạp, Đại 2, 137b)
(S.ii,259)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời, Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm).
2) - Ở
đây, này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống,
tôi thấy một người với đầu chìm trong hố phân.
3) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người thông dâm ở tại Ràjagaha
này.
II. Tà
Ác Là Bà La Môn Ăn Phân (Tạp, Đại 2, 137c) (S.ii,259)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người chìm trong hố phân, ăn phân bằng hai tay.
2) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một Bà-la-môn tại Ràjgaha này.
Khi bậc Chánh Đẳng Giác Kassapa đang giảng dạy, người ấy
mời chúng Tỷ-kheo dùng cơm. Rồi người ấy lấy một cái gáo
đựng đầy phân và nói: "Ôi mong các Tôn giả ăn cho
tận kỳ thỏa thích và mang về!"
III.
Gian Phụ bị Lột Da (Tạp, Đại, 2, 137b) (S.ii,259)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một phụ nữ bị lột da đang đi giữa hư không. Những
con chim kên, những con quạ, những con chim ưng đuổi theo để
cắn mổ, rứt xé người ấy và người ấy kêu lên những
tiếng kêu đau đớn.
2) Người
phụ nữ ấy, này các Tỷ-kheo, là một người gian phụ ở Ràjagaha
này.
IV. Người
Phụ Nữ Xấu Xí Bói Toán (Tạp, Đại 1, 137b) (S.ii.260)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người phụ nữ hôi hám, xấu xí đang đi trên hư
không. Các con chim kên, các con quạ, các con chim ưng đuổi
theo để cắn mổ, rứt xé người ấy và người ấy kêu lên
những tiếng kêu đau đớn.
2) Người
phụ nữ ấy, này các Tỷ-kheo, là một người bói toán ở chính
Ràjagaha này.
V. Người
Đàn Bà Khô Héo Đã Rải Than Đỏ trên Một Người Đàn Bà (Tạp
19-25. Sân Nhuế Đính Du Sái, Đại 2, 137c) (S.ii, 260).
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một người đàn bà cằn cỗi, khô héo, dính đầy than
mồ hóng, đang đi trên hư không... Người ấy kêu lên những
tiếng kêu đau đớn.
2) Người
đàn bà ấy, này các Tỷ-kheo, là đệ nhất phu nhân của vua
xứ Kalinga. Bà ta vì ghen tức nên đã đổ lò than hồng lên
trên một vương nữ khác.
VI.
Kẻ Trộm Cướp Đứt Đầu (Tạp 19-15 Đoạn Nhơn Đầu.
Đại 2, 136c) (S.ii,260)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gujjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một cái thân không đầu đi giữa hư không. Con mắt và
miệng thời ở trên ngực.
2) Các
con chim kên, các con quạ, các con chim ưng đuổi theo để cắn
mổ, rứt xé người ấy và người ấy kêu lên những tiếng
kêu đau đớn.
3) Chúng
sanh ấy, này các Tỷ-kheo, là một người ăn cướp tên là Hàrika
ở tại Ràjagaha.
VII.
Tỷ Kheo (Tạp, Đại 2, 138b) (S.ii, 260)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một Tỷ-kheo đi giữa hư không.
2) Y tăng-già-lê
(thượng y) của vị ấy bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy
đỏ ngọn. Cái bát cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy
đỏ ngọn. Cái nịt cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy
đỏ ngọn. Thân cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
ngọn. Và vị ấy thốt lên những tiếng kêu đau đớn.
3)
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, là một ác Tỷ-kheo trong thời
bậc Chánh Đẳng Giác Kassapa đang thuyết pháp.
VIII.
Tỷ Kheo Ni (Tạp Đẳng, Đại 2, 138b) (S.ii,261)
1)... tôi
thấy một Tỷ-kheo-ni đi giữa hư không.
2) Y tăng-già-lê
của vị ấy bị cháy đỏ.
3)... là
một ác Tỷ-kheo-ni...
IX.
Học Nữ (S.ii,261)
1)... tôi
thấy một học nữ đi giữa hư không.
2) Y tăng-già-lê
của vị ấy bị cháy...
3)... là
một ác học nữ...
X. Sa
Di (S.ii,261)
1)... tôi
thấy một Sa-di đi giữa hư không...
2-3) Y Tăng-già-lê
của vị ấy bị cháy... là một ác Sa-di.
XI.
Sa Di Ni (S.ii,261)
1) Ở đây,
này Hiền giả, khi tôi từ núi Gijjhakuuta bước xuống, tôi
thấy một Sa-di-ni đi giữa hư không.
2) Y tăng-già-lê
(sanghàti) của vị này bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
ngọn. Bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
ngọn. Cái nịt cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
ngọn. Thân cũng bị cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
ngọn. Vị ấy thốt lên những tiếng kêu đau đớn.
3) Này
Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay, thật
hy hữu thay! Một kẻ có tên như vậy lại trở thành một chúng
sanh như vậy. Một kẻ có tên như vậy trở thành một
Dạ-xoa như vậy. Một kẻ có tên như vậy lại trở thành
được một tự ngã như vậy".
4) Rồi
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Sống
với như thực nhãn, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử. Sống
với như thực trí, này các Tỷ-kheo, là các đệ tử. Vì
rằng, một đệ tử sẽ biết, hay sẽ thấy, hay sẽ chứng
thực như vậy.
5) Xưa
kia, này các Tỷ-kheo, Ta cũng thấy Sa-di-ni ấy, nhưng Ta không
có nói. Nếu Ta có nói, các người khác cũng không tin Ta. Và
những ai không tin Ta, những người ấy sẽ bị bất hạnh, đau
khổ lâu dài.
6) Vị Sa-di-ni ấy, này các Tỷ-kheo, là một ác Sa-di-ni trong thời bậc Chánh Đẳng Giác Kassapa thuyết pháp. Do nghiệp của người đó thuần thục, sau khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và với quả thuần thục còn lại, người đó cảm thọ một tự ngã như vậy.
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com