Lại, Mãn Từ
Tử! Có hai Bồ tát đề chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. một, Bồ tát vì có
phương tiện khéo léo nên mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hai, Bồ tát
vì không phương tiện khéo léo nên chậm chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cụ thọ! Phải biết thà làm Bồ tát chậm chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
chẳng rơi Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác. Nếu các Bồ
tát mau cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên biết trong ấy gồm có hai việc:
Một là nếu không phương tiện khéo léo bèn chứng thật tế, rơi bậc Nhị thừa.
Hai là nếu có phương tiện khéo léo mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như trong nhà
lửa có các đống của báu, có người tìm của vào trong nhà ấy. Người kia bấy
giờ gồm có hai việc: một là nếu không phương tiện khéo léo chết thui nơi
nhà lửa, hai là nếu có phương tiện khéo léo hốt của chạy ra. Như vậy, Bồ
tát mau cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nên biết trong đây gồm có hai việc:
một là nếu không phương tiện khéo léo bèn chứng thật tế, rơi bậc Nhị thừa
như chết nhà lửa, hai là nếu có phương tiện khéo léo mau chứng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề như hốt của chạy ra. Vậy nên, phải
biết thà làm Bồ tát chậm chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng làm mau
cầu rơi bậc Nhị thừa. Khi ấy, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Mau chứng thật tế đâu chẳng phải
phương tiện khéo léo của Bồ tát? Xá Lợi Tử
đáp: Mau chứng thật tế chẳng phải là Bồ tát phương tiện khéo léo. Sở dĩ vì
sao? Vì rơi bậc Nhị thừa chẳng phải là bình đẳng lưu loại của phương tiện
khéo léo, mà là quả đẳng lưu của không phương tiện khéo léo, vì lui mất sở
cầu Ðại Bồ đề vậy. Bởi là Bồ tát cầu Ðại Bồ đề nhiêu ích hữu tình, chẳng
cầu thật tế, nên chứng thật tế chẳng phải quả khéo tiện. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng hành được thí, chẳng cac Bồ
tát khác làm được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới
có hủy khuyết, chẳng gọi bố thí Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng hộ được giới, chẳng các Bồ
tát khác hộ được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới
có hủy khuyết, chẳng gọi tịnh giới Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu được nhẫn, chẳng các Bồ
tát khác tu được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới
có hủy khuyết, chẳng gọi an nhẫn Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tinh tiến được, chẳng các Bồ
tát khác tinh tiến được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng gọi tinh tiến Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu định được, chẳng các Bồ
tát khác tu được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới
có hủy khuyết, chẳng gọi tĩnh lự Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu huệ được, chẳng các Bồ tát
khác tu được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có
hủy khuyết, chẳng gọi bát nhã Ba la mật đa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng hành nội không được, chẳng
các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng được rốt ráo hành nơi nội không. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng hành ngoại không, nội ngoại
không , không không, đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả
đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; chẳng các
Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên
giới có hủy khuyết, chẳng thể quán rốt ráo hành nơi ngoại không cho đến vô
tánh tự tánh không. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng quán vô minh, chẳng các Bồ
tát khác quán được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên
giới có hủy khuyết, chẳng thể quán rốt ráo nơi vô minh. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng quán được hành, thức, danh
sắc, sáu chỗ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; chẳng các Bồ tát khác
quán được.Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy
khuyết, chẳng thể quán rốt ráo hành cho đến lão tử. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng quán được khổ thánh đế, chẳng
các Bồ tát khác quán được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng thể quán rốt ráo khổ thánh đế. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng được tập diệt đạo thánh đế,
chẳng các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành
phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể quán rốt ráo tập diệt đạo thánh
đế. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tĩnh lự, chẳng các Bồ
tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên
giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn tu bốn tĩnh lự. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành bốn vô lượng, bốn vô
sắc định, chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi
xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn tu bốn vô
lượng, bốn vô sắc định. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành bốn niệm trụ, chẳng
các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn tu hành bốn niệm trụ. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; chẳng
các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi
xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn tu bốn chánh đoạn cho đến
tám thánh đạo chi. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành không giải thoát môn,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn không giải thoát
môn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn, chẳng các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi
phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tám giải thoát, chẳng
các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tám giải thoát. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tám thắng xứ, chín
định thứ lớp, mười biến xứ, chẳng các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát
này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu
viên mãn tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành trí Tịnh quán địa,
chẳng các Bồ tát khác hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành
phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn trí Tịnh quán địa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành trí Chủng tánh địa,
Ðệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Ðộc giác địa,
Bồ tát địa, Như Lai địa; chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát
này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu
viên mãn trí Chủng tánh địa cho đến trí Như Lai địa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành Cực hỷ địa, chẳng các
Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn Cực hỷ địa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng Ly cấu địa, Phát quang địa,
Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động
địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa; chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các
Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng
thể tu viên mãn Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tất cả đà la ni môn,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tất cả đà la ni
môn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tất cả tam ma địa
môn, chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ.
Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tất cả tam ma
địa môn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành năm nhãn, chẳng các
Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ
nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn năm nhãn. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành sáu thần thông, chẳng
các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi
xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn sáu thần thông. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành Như Lai mười lực,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn Như Lai mười
lực. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành bốn vô sở úy, bốn vô
ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng;
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành ba mươi hai tướng,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn ba mươi hai
tướng. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tám mươi tùy hảo,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tám mươi tùy
hảo. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành pháp vô vong thất,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn pháp vô vong
thất. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tánh hằng trụ xả,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tánh hằng trụ
xả. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành Nhất thiết trí, chẳng
các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi
xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn Nhất thiết trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí, chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành
nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn
đạo tướng trí, nhất thiết trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành tất cả hạnh Bồ tát Ma
ha tát, chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi
xứ.Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn tất cả
hạnh Bồ tát Ma ha tát. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành
nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng
các Bồ tát khác nghiêm tịnh được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành
phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng thành thục hữu tình, chẳng
các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi
xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn thành thục hữu tình. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tùy hỷ các công đức kẻ khác,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn tùy hỷ các công đức
kẻ khác. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng hồi hướng Nhất thiết trí trí,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể viên mãn hồi hướng Nhất
thiết trí trí. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng đem một ăn thí thu được công
đức, hơn các Bồ tát trụ lâu đại kiếp số cát Căng già xả uống ăn thượng
diệu vua Chuyển Luân bố thí tất cả chỗ được công đức. Các Bồ tát này hành
nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn
tu hành bố thí. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng nhất tâm nhóm các công đức
hơn các Bồ tát trụ tâm đại kiếp số cát căng già nhóm các công đức. Các Bồ
tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể
tu viên mãn nhóm các công đức. Lại, Mãn Từ
Tử! Nếu các Bồ tát làm suy nghĩ này: Ta năng tu hành phương tiện khéo léo,
chẳng các Bồ tát khác tu hành được. Các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Vì
hành phi xứ nên giới có hủy khuyết, chẳng thể tu viên mãn phương tiện khéo
léo. Cụ thọ phải
biết: Nếu các Bồ tát phương tiện khéo léo tu các công đức, nếu khởi những
các suy nghĩ như thế nên biết kia chẳng phải phương tiện khéo léo. Vì cớ
sao? Mãn Từ Tử! Vì Bồ tát chẳng nên hơn Bồ tát, Bồ tát chẳng nên khinh dể
Bồ tát, Bồ tát chẳng nên hàng phục Bồ tát. Bồ tát ở chỗ các Bồ tát khác
cúng dường cung kính nên như cúng dường cung kính Như Lai. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Bồ tát vì chỉ nên cung kính Bồ tát hay cũng nên
cung kính các hữu tình khác? Xá Lợi Tử
đáp: Chúng các Bồ tát nên khắp cung kính tất cả hữu tình. Nghĩa là các Bồ
tát như kính Như Lai, như vậy cũng nên kính các Bồ tát. Như kính Bồ tát,
như vậy cũng nên kính cac hữu tình, tâm không sai khác. Vì cớ sao? Mãn Từ
Tử! Chúng các Bồ tát đối các hữu tình tâm nên nhún thấp, nên cung kính
sâu, nên cùng tự tại, nên lìa kiêu mạn. Như vậy, Bồ tát đối các hữu tình
hết lòng ccung kính như Phật, Bồ tát. Như vậy, Bồ
tát nên làm nghĩ này: Khi ta chứng Vô thượng Chánh đẳng giác, sẽ vì hữu
tình nói pháp yếu sâu thẳm khiến dứt phiền não được vào Niết bàn, hoặc
được Bồ đề an vui rốt ráo, hoặc khiến giải thoát các khổ ác thú. Lại, Mãn Từ
Tử! Như vậy, Bồ tát đối loại hữu tình nên khởi từ tâm, đối các hữu tình
tâm lià kiêu mạn. Làm nghĩ như vầy: Ta phải tu học phương tiện khéo léo
khiến các hữu tình tất cả đều được tánh rất đệ nhất. Sở dĩ vì sao? Tánh đệ
nhất ấy, chỗ gọi Phật tánh. Ta phải phương tiện khiến các hữu tình đều
được thành Phật. Như vậy, Bồ
tát đối loại hữu tình đều khởi từ tâm, muốn khiến hữu tình tất cả đều cư
ngôi Pháp Vương. Ngôi Pháp Vương đây rất thắng rất tôn, đối pháp hữu tình
đều được tự tại. vậy nê, chúng Bồ tát Ma ha tát nên khắp cung kính tất cả
hữu tình lòng từ đầy khắp, không chỗ xen hở vậy, vì Pháp thân Như Lai khắp
tất cả vậy. Khi ấy, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Vì sao Bồ tát khởi nghĩ như vầy: “ Ta
phải cung kính tất cả hữu tình. Ta chứng Vô thượng Chánh đẳng giác rồi dạy
răn dạy trao tất cả hữu tình đều khiến chứng được tánh rất đệ nhất, tất cả
đều được cư ngôi Pháp Vương?” Ví như thầy
huyễn giỏi hoặc học trò kia ở đường ngã tư huyễn làm Ðại vương và bốn thứ
quân lính mạnh mẽ khó địch. Vua huyễn
trong ấy chẳng khởi nghĩ này: Ta nay có đủ bốn thứ quân hùng dũng thế lực
khó địch. Bốn thứ huyễn
quân chẳng khởi nghĩ này: Tất cả chúng ta đều thuộc quyền Ðại vương, tùy ý
Ðại vương điều khiển. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Tất cả trong đây hoặc vua hoặc
quân đều chẳng thật có, trọn không tư tánh, thật có tự tánh đều chẳng
nhiếp về đâu. Như Thế Tôn nói các pháp như huyễn, tất cả hữu tình cũng lại
như thế. Ðã đều như huyễn ai cung kính ai? Ai lại khiến ai được tánh đệ
nhất cư ngôi Pháp vương, nói những pháp nào? Xá Lợi Tử
đáp: Như vậy, như vậy. Hữu tình và pháp như huyễn tất cả. Phải biết trong
ấy Bồ tát như huyễn cung kính tất cả hữu tình như huyễn, phương tiện khéo
léo dạy răn dạy trao khiến được đệ nhất Phật tánh như huyễn, cư ngôi Pháp
vương, nói pháp như huyễn. Nhưng các Bồ tát tuy khởi nghĩ ấy mà với trong
đó trọn không sở chấp. Nếu các Bồ
tát đối trong các pháp có chút sở kiến, các Bồ tát này chẳng phải hành Bát
nhã Ba la mật đa. Nếu khi Bồ tát đối trong các pháp trọn không sở kiến,
khi ấy Bồ tát chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa. Như vậy, Bồ tát phương tiện
khéo léo dù hành tinh tiến Ba la mật đa giáo hóa hữu tình khiến được thành
Phật mà đối các pháp trọn không sở kiến, nghĩa là chẳng thấy có phần ít
pháp tánh thật năng khiến kia được tánh đệ nhất, cũng chẳng thấy có phần
ít thật năng khiến kia cư ngôi Pháp Vương. Dù không sở kiến mà chẳng quay
lui. Phải biết Bồ
tát năng tinh tiến rộng lớn mặc ssội áo giáp mũ trụ, trọn không sở chấp.
Nghỉa là các Bồ tát biết ngôi Pháp Vương tuy đều như huyễn, trọn chẳng
thật có, mà tinh siêng cầu tới chẳng lui. Dù siêng tinh tiến cầu tới quả
Phật, mà đối các pháp trọn không sở kiến. mặc dù không sở kiến mà chẳng
quay lui. Như vậy Bồ tát tuy biết trời, người, a tố lạc thảy, thảy đều bại
hoại mà đối trong ấy không tưởng bại hoại, vì đạt tất cả chủng đều như
huyễn vậy. Như vậy Bồ
tát phương tiện khéo léo cầ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu
tình nói pháp vắng lặng. Nghĩa là dù các thứ danh cú văn thân phương tiện
tuyên nói tánh tất cả pháp, mà bản tánh của pháp đều chẳng thể nói. Lại, Mãn Từ
Tử! Tánh tất cả pháp chẳng thể chỉ rõ, chẳng thể tuyên nói. Bồ tát khi
chứng được Ðại Bồ đề, mặc dù vì hữu tình nói tánh các pháp mà khởi nghĩ
này: Ta đối Bồ đề trọn không sở đắc, cũng thường đối pháp chẳng vì hữu
tình có điều tuyên nói. Ta dù chứng được Vô thượng Bồ đề mà Bồ đề đây thật
chẳng thể chứng, ta dù tuyên nói tánh tất cả pháp mà tánh tất cả pháp thật
chẳng thể nói. Vì năng nói bị nói đều không tự tánh, năng chứng bị chứng
cũng bất khả đắc. Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát muốn chứng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề đối trong các pháp chẳng nên chấp trước. Dù không chấp
trước mà không quay lui. Do không quay lui, tâm chẳng chìm đắm. Do chẳng
chìm đắm nhiếp thọ tinh tiến. Ðấy là tinh tiến Ba la mật đa. Lại đem tinh
tiến Ba la mật đa hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, viên mãn tịnh giới
Ba la mật đa. Lại đem tịnh giới Ba la mật đa hồi hướng cầu tới Nhất thiết
trí trí, khiến tịnh giới Ba la mật đa đây càng thắng càng tăng, càng sáng
càng tịnh. Như vậy, Bồ tát tu học tịnh giới Ba la mật đa mau được viên mãn
tăng thắng sáng tịnh, đều do Bồ tát hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Khi ấy, Mãn
Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu tất cả pháp đều như việc huyễn,
trọn chẳng thật có, làm sao Bồ tát hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí mà
được thành lập? Xá Lợi Tử
đáp: Nếu tất cả pháp thật có phần ít chẳng như việc huyễn, thời các Bồ tát
rốt ráo chẳng thể hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Vì tất cả pháp
không chút thật có, đều như việc huyễn, nên các Bồ tát hồi hướng cầu tới
Nhất thiết trí trí. Như vậy, các Bồ tát có chỗ kham năng hồi hướng cầu tới
Nhất thiết trí trí tinh siêng không mỏi, đều do rõ thấu các pháp chẳng
thật, như huyễn như hóa. “Có chỗ kham năng” phải biết tức là Bồ tát tinh
tiến Ba la mật đa. Mãn Từ Tử
nói: Như vậy, Bồ tát có chỗ kham năng hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí
trí, tinh siêng không mỏi, là nghiệp pháp nào mà nói kham năng tức là tinh
tiến? Làm sao tu học, làm sao kham năng như thế? Xá Lợi Tử
nói: Kham năng tức là phương tiện khéo léo của nghiệp sở tác. Bồ tát các
nương phương tiện khéo léo mới biết tất cả pháp đều như việc huyễn. Bồ tát
an trụ phương tiện khéo léo chẳng sợ pháp không, chẳng rơi thật tế. Ví như có
người trụ đỉnh núi cao, hai tay nắm vững chiếc dù nhẹ bền, đến chót nhọn
núi cất chân xòe dù cúi xem xuống gộp hố sâu hiểm tuyết, dù nương sức gió
được chống đỡ, nên tuy đến chỗ hiểm mà chẳng bị rơi rớt. Như vậy, Bồ tát
phương tiện khéo léo được sức Ðại bi Bát nhã nắm giữ, tuy có thật quán các
pháp như huyễn, hiển hiện hư dối, bản tánh vắng lặng, mà tâm trọn không
thấp hèn sợ hãi, đối pháp thật tế cũng chẳng chứng vào. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử!
Các Bồ tát này phương tiện khéo léo, được sức Ðại bi Bát nhã giữ gìn,
chẳng sợ không pháp, chẳng chứng thật tế; như cầm chiếc dù từ cao cúi
xuống gộp xem hầm hiểm tuyệt không sợ rơi. Như vậy, chúng Bồ tát Ma ha tát
mặc đội áo mũ bền chắc, nhiếp thọ phương tiện khéo léo, thành tựu viên mãn
tịnh giới Ba la mật đa đệ nhất làm chỗ nương dựa, tuy cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề mà chẳng thấy pháp đã chứng sẽ chứng. Nên biết rõ Bồ tát Tịnh
giới Ba la mật đa như thế, tất cả đều do được phương tiện khéo léo nhiếp
thọ, nên mới đến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như vậy, Bồ
tát được phương tiện khéo léo nhiếp thọ nên thường chẳng xa lìa sở học sáu
thứ Ba la mật đa. Các Bồ tát này do chẳng xa lìa sở học sáu thứ Ba la mật
đa, lần hồi gần kề Nhất thiết trí trí, vượt hơn tất cả Thanh văn Ðộc
giác.Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Các Bồ tát này ý chuyên cầu tới Nhất thiết trí
trí như tìm ngọc vô giá. Lại, Mãn Từ
Tử! Như có hai người làm phương tiện lớn đi vào hang núi sâu tìm ngọc vô
giá. Kia vào chưa lâu bèn thấy hai bên hang có ngọc vàng bạc thảy ít giá
trị, hai người đồng thấy chẳng lấy. Lần hồi đi tới lại thấy hai bên hang
có ngọc nhiều giá trị, một thấy chẳng lấy càng đi tới nữa, đến chỗ cực
thắng được gọc vô giá mặc ý mang về, được nhiều lợi ích. Như vậy, Bồ
tát làm phương tiện lớn cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề muốn vì hữu
tình làm nhiêu ích lớn, tới vào Phật pháp lược có hai thứ: Một, có Bồ
tát vì không phương tiện khéo léo, nên tuy nghe các thứ thiện pháp thế
gian tâm chẳng tham nhiễm, mà nghe bao nhiêu công đức Nhị thừa tâm bèn say
mê. Bởi say mê nên tinh siêng thu nhận, xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí,
lui mất tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Như kia trước thấy ngọc ít giá trị
tuy chẳng tham đắm mà thấy nhiều giá trị tham lấy mang về, mất ngọc vô
giá. Hai, có Bồ
tát có phương tiện khéo léo nên trước nghe cac thứ thiện pháp thế gian tâm
chẳng tham nhiễm, kế nghe bao nhiêu công đức Nhị thừa cũng chẳng say
đắm.Vì chẳng say đắm, bèn chẳng suy nghĩ. Do chẳng suy nghĩ nên chẳng tu
tập. Ðã chẳng tu tập, phương tiện chán bỏ. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát đây
biết thiện pháp thế gian nhiều các tội lỗi chẳng thể lợi mình lợi người
rốt ráo, ngăn ngại sở cầu Nhất thiết trí trí. Căn lành công đức Thanh văn,
Ðộc giác dù là xuất thế gian mà chỉ lợi mình, chẳng thể lợi khắp tất cả
hữu tình, cũng ngăn sở cầu Nhất thiết trí trí nên chẳng say đắm, cũng
chẳng suy nghĩ, đối căn lành kia chẳng ưa tu tập. Do đây vượt khỏi bậc Nhị
thừa kia, siêng cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, lần hồi chứng được Nhất
thiết trí trí. Như kia người sau thấy ngọc ít giá trị và nhiều giá trị đều
chẳng tham lấy, lần hồi đi vào sâu đến chỗ cực thắng được ngọc vô giá mặc
ý lấy mang về, cùng các hữu tình làm hiêu ích lớn. Như vậy, Bồ
tát phương tiện khéo léo đã chẳng tham nhiễm thiện pháp thế gian, đối pháp
Nhị thừa cũng chẳng say đắm. Do đấy lần hồi tới Ðại Bồ đề, tu nhiều trăm
ngàn khổ hạnh khó làm, cúng dường cung kính vô lượng Như Lai, thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật đến cực viên mãn, được Nhất thiết trí lợi
ích an vui vô lượng hữu tình, như ngọc vô giá được nhiều lợi ích. Như vậy, Bồ
tát phương tiện khéo léo dù nghe các thứ công đức Nhị thừa mà năng thấu rõ
đều chẳng rốt ráo, tuy năng chứng lấy mà rất chán bỏ. Dù năng chán bỏ mà
năng khéo nói phương tiện nhiêu ích cho loại hữu tình kia khiến khéo tu
hành chứng vui Niết bàn. Như vậy, Bồ tát phương tiện khéo léo được chẳng
nhiếp thọ công đức Nhị thừa, tinh tiến tu hành các hạnh Bồ tát tới chứng
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, làm lợi ích an vui các hữu tình. Bấy giờ, Mãn
Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: nếu các Bồ tát trụ ngôi Bất thối, đối những hạnh
nào chẳng nên say đắm? Xá Lợi Tử
đáp: Kia đối sáu thứ Ba la mật đa chẳng nên say đắm. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử!
nếu rất say đắm bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba
la mật đa, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng
lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở
cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối
sáu thứ Ba la mật đa, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở
như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các thứ quán không. Vì cớ sao? Nếu
rất say đắm quán nội không, ngoại không, nội ngoại không , không không,
đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình,
cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng
được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên Bồ tát kia phải khởi nghĩ này:
Ta đối các thứ quán không như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không
lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các quán chơn như thảy.Vì cớ sao? Mãn
Từ Tử! Nếu rất say đắm quán các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất
hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,
pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, tâm bèn tạp nhiễm,
chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi
Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối quán chơn như thảy như
thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu,
mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các quán duyên khởi. Vì cớ sao? Mãn
Từ Tử! Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối quán vô minh duyên
hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu chỗ, sáu
chỗ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu,
hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử; quán vô minh diệt nên hành diệt, cho
đến sanh diệt nên lão tử diệt, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi
vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới
năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải
khởi nghĩ này: Ta đối các pháp duyên khởi như thế, dù nên tinh siêng tu
tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên
say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các quán thánh đế.Vì cớ sao? Mãn Từ
Tử! Nếu rất say đắm quán khổ tập diệt đạo bốn thánh đế, tâm bèn tạp nhiễm,
chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi
Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối các quán thánh đế như
thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu,
mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các phần pháp giúp Bồ đề. Vì cớ sao?
Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm quán bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, tâm bèn tạp
nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh
cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối các phần pháp giúp Bồ
đề như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa
cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm các quán ba môn giải thoát. Vì cớ
sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn,
tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể
nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối ba môn
giải thoát như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như
chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm môn đà la ni, môn tam ma địa. Vì cớ
sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm môn đà la ni, môn tam ma địa, tâm bèn tạp
nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh
cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối môn đà la ni, môn tam
ma địa như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa
cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm tĩnh lự, vô lượng, đẳng chí, giải
thoát. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm tĩnh lự, vô lượng, đẳng chí,
giải thoát, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng
lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này:
Ta đối tĩnh lự, vô lượng, đẳng chí, giải thoát như thế, dù nên tinh siêng
tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng
nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm thắng xứ, biến xứ, chín định thứ lớp.
Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm thắng xứ, biến xứ, chín định thứ
lớp, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại
chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối
thắng xứ, biến xứ , chín định thứ lớp như thế, dù nên tinh siêng tu tập
mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say
đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm tu trí các bậc. Vì cớ sao? Nếu rất
say đắm quán tu trí các bậc, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi
vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới
năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải
khởi nghĩ này: Ta đối tu trí các bậc như thế, dù nên tinh siêng tu tập
mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say
đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm năm nhãn, sáu thần thông. Vì cớ sao?
Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm năm nhãn, sáu thần thông, tâm bèn tạp nhiễm,
chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi
Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối năm nhãn, sáu thần thông
như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy
đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm Như Lai mười lực, bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui
hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới
năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải
khởi nghĩ này: Ta đối Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải như
thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu,
mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả. Vì cớ
sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, tâm bèn
tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm
tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở
như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm mười tám pháp Phật bất cộng.Vì cớ
sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm mười tám pháp Phật bất cộng, tâm bèn tạp
nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh
cõi Phật.Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối mười tám pháp Phật
bất cộng như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như
chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm pháp vô vong thất, tánh hằng trụ
xả.Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm pháp vô vong thất, tánh hằng trụ
xả, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi vui hữu tình, cũng lại chẳng
thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới năng chứng được sở cầu Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải khởi nghĩ này: Ta đối
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh
mẽ không lúc xen hở như chữa cháy đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm.
Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát kia chẳng nên say đắm Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Nếu rất say đắm Nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí, tâm bèn tạp nhiễm, chẳng thể như thật lợi
vui hữu tình, cũng lại chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy trải lâu mới
năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát kia phải
khởi nghĩ này: Ta đối Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
như thế, dù nên tinh siêng tu tập mạnh mẽ không lúc xen hở như chữa cháy
đầu, mà đối trong ấy chẳng nên say đắm. Lại, Mãn Từ
Tử! Các Bồ tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng nên hiện hành
phân biệt như thế, rằng ta do tịnh giới Bồ tát như vậy nhiếp thọ được các
tướng và tùy hảo. Nếu các Bồ tát hiện hành tâm phân biệt như thế ấy, nên
biết gọi là phạm giới Bồ tát. Vậy nên, Bồ
tát chẳng nên tham cầu các tướng tùy hảo,cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Nếu các Bồ tát lấy đắm các tướng hảo thọ trì tịnh giới, nên biết gọi
là lấy đắm tịnh giới có chỗ hủy phạm. Nếu các Bồ tát lấy đắm tịnh giới có
chỗ hủy phạm, quyết định chẳng năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề.
Nguồn: www.quangduc.com