Quyển Thứ 411
Hội Thứ Hai
Phẩm Thí Dụ
Thứ 11
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát ấy là cú nghĩa gì?
Phật bảo: Thiện Hiện! Vô cú nghĩa là cú nghĩa Bồ tát. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Bồ đề, Tát đỏa, hai đã chẳng sanh, cú ở trong ấy lẽ cũng chẳng có,
nên vô cú nghĩa là cú nghĩa Bồ tát.
Thiện Hiện
phải biết: Ví như trong không, cú nghĩa dấu chim thật vô sở hữu; cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế, thật vô sở hữu. Ví như cú nghĩa cảnh mộng, việc
huyễn, ánh nắng, bóng sáng, trăng nước, tiếng vang, không hoa, biến hóa
thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Như cú nghĩa tất cả pháp chơn như thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ
tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa tất cả pháp pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa sắc như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng
lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa thọ tưởng hành thức như huyễn sĩ
thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa nhãn xứ như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ như
huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa sắc xứ như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa thanh hương vị xúc pháp xứ như
huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa nhãn giới như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý giới như
huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa sắc giới như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa thanh hương vị xúc pháp giới
như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa nhãn thức giới như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức
giới như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô
sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa nhãn xúc như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc như
huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ như huyễn sĩ thật
vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ như huyễn sĩ thật vô sở hữu,
cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa vô minh như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử như huyễn sĩ thật vô sở hữu; cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa hành nội không như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô
vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn
tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất
khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không như
huyễn sĩ thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa hành bốn niệm trụ như huyễn sĩ thật vô sở hữu, cú
nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi
như huyễn sĩ thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu.
Thiện Hiện
phải biết: Cú nghĩa cho đến hành Phật mười lực như huyễn sĩ thật vô sở
hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng như huyễn sĩ thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Cú nghĩa sắc như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa thọ tưởng hành thức như Phật thật vô sở
hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa nhãn
xứ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ
tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa sắc
xứ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa thanh hương vị xúc pháp xứ như Phật thật vô sở hữu, cú
nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa nhãn
giới như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý giới như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa sắc
giới như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa thanh hương vị xúc pháp giới như Phật thật vô sở hữu, cú
nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa nhãn
thức giới như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật
vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới như Phật thật vô sở
hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa nhãn
xúc như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại
như thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa vô
minh như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở
hữu. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô
sở hữu.
Cú nghĩa hành
nội không như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật
vô sở hữu. Cú nghĩa hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Cú nghĩa hành
bốn niệm trụ như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế
thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi như Phật thật vô sở hữu, cú
nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Cho đến cú
nghĩa hành Phật mười lực như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại
như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như Phật thật vô
sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Như cú nghĩa vô vi giới trong hữu vi giới thật vô sở hữu, cú nghĩa
hữu vi giới trong vô vi giới cũng thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại
như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô
thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ
tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Khi ấy, cụ thọ
Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nói sao cú nghĩa pháp vô sanh vô
diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật
vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu ư?
Phật bảo:
Thiện Hiện! Như cú nghĩa sắc cho đến thức vô sanh vô diệt, vô tác vô vi,
vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa
Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
nhãn xứ cho đến ý xứ vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô
đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
sắc xứ cho đến pháp xứ vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô
đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
nhãn giới cho đến ý giới vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại,
vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại
như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
sắc giới cho đến pháp giới vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô
hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng
lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành
vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
nhãn xúc cho đến ý xúc vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô
đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ
vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô
tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
vô minh cho đến lão tử vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô
đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa
bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô
thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ
tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như vậy, như
cú nghĩa Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh vô
diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật
vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Như cú nghĩa bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi rốt ráo tịnh
thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như vậy
cho đến như cú nghĩa Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt
ráo tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa ngã cho đến kiến giả thật vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên cú
nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa khi trời mọc,
tối tăm thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.
Như cú nghĩa khi kiếp tận, các hành thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng
lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, ác giới trong nhóm tịnh giới thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng
lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
loạn tâm trong nhóm tĩnh định thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như
thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ác huệ
trong nhóm minh huệ thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật
vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trói buộc trong
nhóm giải thoát thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô
sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, phi giải thoát tri
kiến trong nhóm giải thoát tri kiến thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng
lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các tối tăm trong nhật nguyệt
thảy, đại quang minh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật
vô sở hữu. Như cú nghĩa sáng chói của tất cả nhật nguyệt, tinh ngọc, hỏa
dược và các trời thảy trong Phật quang thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát
cũng lại như thế thật vô sở hữu. Vì cớ sao?
Thiện Hiện!
Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc Bồ tát, cú nghĩa như thế tất cả đều chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất
tướng, chỗ gọi vô tướng. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp
đều chẳng phải thật có, không chấp không ngại, phải siêng tu học, nên
chính giác biết.
Cụ thọ Thiện
Hiện liền thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát với những tất cả pháp nào
đều chẳng phải thật có, không chấp không ngại, phải siêng tu học? Các Bồ
tát Ma ha tát làm sao đối tất cả pháp nên chính giác biết? Phật bảo: Thiện
Hiện! Nếu tất cả pháp là thiện pháp, phi thiện pháp, hữu ký pháp, vô ký
pháp, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp, vô lậu pháp, hữu vi
pháp, vô vi pháp, cộng pháp, bất cộng pháp. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát đối tánh tất cả pháp như thế thảy không chấp không ngại, phải siêng tu
học. Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp thật vô sở hữu nên chính giác
biết.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là thiện pháp thế gian? Phật bảo:
Thiện Hiện! Nói thiện pháp thế gian là hiếu thuận cha mẹ, cúng dường Sa
môn, Bà la môn, kính thờ Sư trưởng, việc thí tánh phước nghiệp, việc giới
tánh phước nghiệp, việc tu tánh phước nghiệp; cấp giúp kẻ bệnh cùng hành
phước, phương tiện khéo léo cùng hành phước, mười thiện nghiệp đạo thế
gian. Hoặc tưởng sình trướng, tưởng mủ thối, tưởng sanh bầm, tưởng khác
đỏ, tưởng biến nát, tưởng mổ nuốt, tưởng rời tan, tưởng hài cốt, tưởng đốt
cháy. Hoặc thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc
Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm,
thiên tùy niệm, vắng lặng tùy niệm, thở vào ra tùy niệm, thân tùy niệm,
chết tùy niệm. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là thiện pháp thế gian.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là bất thiện pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Nói bất thiện pháp là: Hại sanh mạng, lấy chẳng cho, hành dục tà,
lời dối gạt, lời chia rẽ, lời thô ác, lời tạp uế, tham dục, giận dữ, tà
kiến và hờn căm, che não, dua nịnh, kiêu hại, ganh, xan, mạn thảy. Thiện
Hiện! Thảy đấy gọi là bất thiện pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào hữu ký pháp? Phật bảo: Thiện Hiện! Tức
là các thiện pháp và bất thiện pháp, gọi hữu ký pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là vô ký pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là thân nghiệp vô ký, ngữ nghiệp vô ký, ý nghiệp vô ký, bốn đại
chủng vô ký, năm căn vô ký, năm uẩn vô ký, mười hai xứ vô ký, mười tám
giới vô ký, pháp dị thục vô ký. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là vô ký pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là thế gian pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là thế gian năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, mười nghiệp đạo,
bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, mười hai nhánh duyên khởi
pháp. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là thế gian pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là pháp xuất thế gian? Phật bảo:
Thiện Hiện! Là xuất thế gian: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Không, vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn. Căn chưa biết, căn sẽ biết, căn đã biết, căn đủ
biết, tam ma địa có tầm có tứ, tam ma địa không tầm chỉ tứ, tam ma địa
không tầm không tứ. Hoặc minh, hoặc giải thoát, hoặc niệm, hoặc chính
tri, hoặc tác ý như lý. Hoặc tám giải thoát, hoặc chín định thứ lớp.
Hoặc nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,
thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,
tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh
không, vô tánh tự tánh không. Hoặc Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô
ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là pháp xuất thế gian.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là hữu lậu pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là đọa tam giới, hoặc năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Hoặc bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là
hữu lậu pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là vô lậu pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện!
Thảy đấy gọi là vô lậu pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là hữu vi pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là pháp buộc ba cõi, như năm uẩn. Như bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,
bốn vô sắc định. Như bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là hữu vi pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là vô vi pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Nếu pháp vô sanh vô diệt, vô trụ vô dị, hoặc hết tham, hết sân, hết
si; như chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế. Thiện
Hiện! Thảy đấy gọi là vô vi pháp.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là cộng pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần
thông. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là cộng pháp, vì cộng dị sanh vậy.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Những nào gọi là bất cộng pháp? Phật bảo: Thiện
Hiện! Là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện!
Thảy đấy gọi là bất cộng pháp, vì bất cộng với dị sanh vậy.
Thiện Hiện!
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối pháp như thế
thảy tự tướng không, chẳng nên chấp đắm, vì tất cả pháp vô phân biệt vậy.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối tất
cả pháp đem vô nhị làm phương tiện, nên chính giác biết, vì tất cả pháp
đều vô động vậy. Thiện Hiện! Đối tất cả pháp vô nhị vô động là cú nghĩa
Bồ tát, vô phân biệt vô chấp trước là cú nghĩa Bồ tát. Vì đấy nên vô cú
nghĩa là cú nghĩa Bồ tát.
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Duyên nào Bồ tát lại gọi Ma
ha tát? Phật bảo: Thiện Hiện! Do Bồ tát này đối trong chúng đại hữu tình
sẽ làm thượng thủ nên lại gọi Ma ha tát.
Thiện Hiện
thưa rằng: Những nào gọi là chúng đại hữu tình Bồ tát với trong sẽ làm
thượng thủ? Phật bảo: Thiện Hiện! Là trụ chủng tánh Đệ bát, Dự lưu, Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác và từ sơ pháp tâm cho đến bậc Bất thối
chuyển Bồ tát Ma ha tát. Như vậy đều gọi chúng đại hữu tình, Bồ tát đối
trong chúng đại hữu tình này sẽ làm thượng thủ nên lại gọi Ma ha tát.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng: Như vậy Bồ tát bởi duyên nào năng đối chúng đại
hữu tình sẽ làm thượng thủ? Phật bảo: Thiện Hiện! Do Bồ tát này đã phát
tâm Kim cương dụ bền chắc, quyết định chẳng lui hoại. Vậy nên năng đối
chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.
Thiện Hiện lại
thưa Phật rằng: Sao gọi Bồ tát tâm Kim cương dụ? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm như vầy: “Ta nay phải mặc áo giáp đại công
đức, với trong đồng nội lớn rộng vô biên sanh tử, vì các hữu tình phá hoại
tất cả oán địch phiền não. Ta phải khắp vì tất cả hữu tình làm khô hết
biển cả vô biên sanh tử, ta phải vất bỏ tất cả thân, của vì các hữu tình
làm đại nhiêu ích, ta phải tâm bình đẳng lợi ích an vui tất cả hữu tình.
Ta phải khắp khiến các loại hữu tình dạo đạo Tam thừa tới vào Niết bàn, ta
phải dù đem Tam thừa tế độ tất cả hữu tình mà đều chẳng thấy có một hữu
tình được ta diệt độ. Ta phải giác liễu tất cả pháp tánh vô sanh vô diệt,
vô tịnh vô nhiễm. Ta phải thuần đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tu
hành sáu pháp Ba la mật đa. Ta phải tu học đối tất cả pháp thông suốt rốt
ráo khắp vào diệu trí. Ta phải thông suốt tất cả pháp tướng nhất lý thú
môn, ta phải thông suốt tất cả pháp tướng nhị lý thú môn, ta phải thông
suốt tất cả pháp tướng đa lý thú môn và ta phải tu học các thứ diệu trí,
thấu rõ các pháp tánh để dẫn pháp thắng công đức”. Thiện Hiện! Đấy gọi Bồ
tát tâm Kim cương dụ. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương
tiện an trụ tâm này quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng
thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát pháp tâm như vầy: “Các loại hữu tình đang chịu
khổ não trong tất cả địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và người, trời, ta phải
chịu thay khiến nó an vui”. Các Bồ tát Ma ha tát phát tâm như vầy: “Ta vì
làm nhiêu ích tất cả hữu tình, nên trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức
muôn ức kiếp chịu nhiều thứ khổ nặng nề trong các địa ngục, dùng vô số
phương tiện giáo hóa khiến được vô dư Niết bàn”. Như vậy thứ lớp khắp vì
làm nhiêu ích tất cả hữu tình, vì kia mỗi mỗi đều trải vô lượng trăm ngàn
trăm ức muôn ức kiếp chịu nhiều thứ khổ nặng nề nơi các địa ngục, mỗi mỗi
đều đem vô số phương tiện giáo hóa khiến được vô dư Niết bàn. Làm việc
này rồi tự trồng căn lành, lại trải vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức
kiếp viên mãn tu nhóm tư lương Bồ đề, nhiên hậu mới chứng sở cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Thề nguyện như thế cũng gọi tâm Bồ tát Kim
cương dụ. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ
tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hằng thường pháp khởi thắng tâm, đại tâm. Do
tâm này quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. Cụ thọ Thiện
Hiện thưa Phật rằng: Sao gọi Bồ tát Ma ha tát thắng tâm, đại tâm? Phật
bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát phát tâm như vầy: “Ta nên từ sơ phát
tâm cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, quyết định chẳng khởi tâm tham
dục, giận dữ, ngu si, hờn căm, che não, dua gạt, ganh, xan, kiêu, hại, tà
kiến, mạn thảy, cũng quyết định chẳng khởi tâm tới cầu Thanh văn và Độc
giác”. Đấy là Bồ tát thắng tâm đại tâm. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở
đắc mà pháp phương tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu
tình sẽ làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát pháp khởi tâm quyết định chẳng nghiên động. Do
tâm này nên quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. Cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao gọi tâm Bồ tát chẳng
nghiêng động? Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát phát tâm như vầy:
Ta cần phải nương tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tu tập phát khởi tất
cả sự nghiệp sở tu, sở tác mà chẳng kiêu lung. Thiện Hiện! Đấy là tâm Bồ
tát chẳng nghiêng động. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương
tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng
thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khắp đối tất cả các loại hữu tình bình đẳng
phát khởi tâm chơn lợi lạc. Do tâm này nên quyết định năng đối chúng đại
hữu tình sẽ làm thượng thủ. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Sao là Bồ tát tâm chơn lợi lạc? Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma
ha tát phát tâm như vầy: Ta phải quyết định cùng đời vị lai lợi ích an vui
tất cả hữu tình, vì làm chỗ cồn bãi, nhà cửa, về nương thường chẳng bỏ
lìa. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát tâm chơn lợi lạc. Nếu Bồ tát Ma ha tát
đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng
đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa thường siêng tinh
tiến ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp. Do nhân duyên này quyết định
năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. Cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì là pháp? Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa thường đối pháp này ái lạc hân hỷ? Phật bảo:
Thiện Hiện! Đã nói pháp ấy là sắc, phi sắc đều vô tự tánh, đều bất khả
đắc, chẳng khá phá hoại, chẳng khá phân biệt được, đấy gọi là pháp. Nói
ái pháp ấy là đối pháp này khởi muốn mong cầu. Nói lạc pháp ấy là đối
pháp này xưng khen công đức. Nói hân pháp ấy là đối pháp này vui mừng tín
thọ. Nói hỷ pháp ấy là đối pháp này mến nhiều tu tập, gần gũi yêu
trọng. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa
đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thường năng ái pháp, lạc pháp, hân pháp,
hỷ pháp như thế mà chẳng kiêu cử, quyết định năng đối chúng đại hữu tình
sẽ làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tu bốn
niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát Ma ha tát này quyết
định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện trụ Kim cương dụ tam ma địa, cho đến trụ Vô trước vô vi vô
nhiễm giải thoát như hư không tam ma địa. Bồ tát Ma ha tát này do nhân
duyên đây quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.
Thiện Hiện!
Nhờ nhiều thứ nhân duyên như thế thảy, các Bồ tát Ma ha tát quyết định
năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. Vậy nên Bồ tát lại gọi Ma
ha tát.
Hội Thứ Hai
Phẩm Đoạn Các Kiến
Thứ 12
Bấy giờ, Xá
Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn đem trí huệ biện tài
nói các Bồ tát do nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát?
Phật bảo: Xá
Lợi Tử! Tùy ý ngươi nói. Xá Lợi Tử thưa: Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ tát
phương tiện khéo léo năng vi hữu tình tuyên nói pháp yếu, khiến dứt ngã
kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh giả kiến, dưỡng giả kiến, sĩ phu
kiến, bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, nho đồng kiến, tác giả kiến, thọ
giả kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến. Do nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát.
Bạch Thế Tôn!
Vì các Bồ tát phương tiện khéo léo, năng vì hữu tình tuyên nói pháp yếu,
khiến dứt thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến. Do nghĩa ấy nên gọi
Ma ha tát.
Bạch Thế Tôn!
Vì các Bồ tát phương tiện khéo léo, năng vì hữu tình tuyên nói pháp yếu,
khiến dứt uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến. Do
nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát.
Bạch Thế Tôn!
Vì các Bồ tát phương tiện khéo léo, năng vì hữu tình tuyên nói pháp yếu,
khiến dứt bốn niệm trụ kiến cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến. Do
nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát.
Bạch Thế Tôn!
Vì các Bồ tát phương tiện khéo léo, năng vì hữu tình tuyên nói pháp yếu,
khiến dứt thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh cõi Phật kiến, Bồ tát
kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết bàn kiến, Chuyển pháp luân kiến. Do
nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát.
Bạch Thế Tôn!
Vì các Bồ tát phương tiện khéo léo, năng vì hữu tình đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, tuyên nói pháp dứt hẳn tất cả kiến. Do nghĩa ấy nên gọi Ma
ha tát.
Khi ấy, cụ thọ
Thiện Hiện hỏi Xá Lợi Tử rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng vì hữu tình đem
vô sở đắc mà làm phương tiện tuyên nói pháp yếu dứt hẳn các kiến, thời
nhân nào, duyên nào có các Bồ tát tự hữu sở đắc mà làm phương tiện, khởi
uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến, bốn niệm trụ kiến,
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến; thành thục hữu tình kiến, nghiêm
tịnh cõi Phật kiến, Bồ tát kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết bàn kiến,
Chuyển pháp luân kiến ư?
Xá Lợi Tử nói:
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa không phương tiện khéo
léo ấy, đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, phát khởi uẩn kiến cho đến
Chuyển pháp luân kiến. Bồ tát Ma ha tát này vì không phương tiện khéo
léo, nên quyết định chẳng năng đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các
hữu tình tuyên nói pháp yếu dứt hẳn các kiến. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa có phương tiện khéo léo ấy, năng vì hữu tình đem
vô sở đắc mà làm phương tiện, tuyên nói pháp yếu dứt hẳn các kiến. Bồ tát
Ma ha tát này quyết định chẳng khởi các kiến uẩn thảy.
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn đem trí huệ
biện tài nói các Bồ tát, do nghĩa đây nên gọi Ma ha tát. Phật bảo: Thiện
Hiện! Tùy ý ngươi nói. Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Bởi các Bồ tát
vì muốn chứng được Nhất thiết trí trí, phát tâm Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng,
tâm chẳng chung Thanh văn, bậc Độc giác, với tâm như thế cũng chẳng lấy
đắm. Do nghĩa ấy nên gọi Ma ha tát. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vì tâm Nhất
thiết trí trí là chơn vô lậu, chẳng đọa ba cõi. Tâm cầu Nhất thiết trí
trí cũng là vô lậu, chẳng đọa ba cõi. Với tâm như thế, chẳng nên lấy
đắm. Vậy nên Bồ tát gọi Ma ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi
Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát tâm vô đẳng đẳng, tâm
chẳng chung Thanh văn, bậc Độc giác? Thiện Hiện đáp rằng: Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm chẳng thấy chút pháp có sanh có diệt, có giảm có tăng,
có nhiễm có tịnh. Xá Lợi Tử! Nếu chẳng thấy chút pháp có sanh có diệt, có
giảm có tăng, có nhiễm có tịnh, cũng chẳng thấy có tâm Thanh văn, tâm Độc
giác, tâm Bồ tát, tâm Như Lai. Xá Lợi Tử! Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát tâm vô
đẳng đẳng, tâm chẳng chung Thanh văn, bậc Độc giác. Các Bồ tát Ma ha tát
với tâm như thế chẳng nên lấy đắm, thời đối tất cả tâm Thanh văn, Độc
giác, dị sanh thảy cũng chẳng nên lấy đắm.
Khi ấy, Xá Lợi
Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát với tâm như thế chẳng nên lấy
đắm, thời đối tất cả tâm Thanh văn, Độc giác, dị sanh thảy cũng chẳng nên
lấy đắm. Và với tâm sắc thọ tưởng hành thức, cho đến tâm mười tám pháp
Phật bất cộng cũng chẳng nên lấy đắm. Vì cớ sao? Vì các tâm như thế vô
tâm tánh vậy. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như đã nói.
Khi ấy, Xá Lợi
Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu tất cả tâm vì vô tâm tánh vậy, chẳng nên lấy
đắm, thời sắc thọ tưởng hành thức cũng vô sắc thọ tưởng hành thức tánh,
chẳng nên lấy đắm. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô mười tám
pháp Phật bất cộng tánh, chẳng nên lấy đắm? Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy,
như vậy. Như thật đã nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu tâm Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời tất cả
tâm ngu phu, dị sanh, Thanh văn, Độc giác thảy, cũng ưng là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi. Vì cớ sao? Vì các tâm như thế bản tánh đều không
vậy. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như đã nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu tâm như thế vì bản tánh không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời
sắc thọ tưởng hành thức, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng ưng là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì cớ sao? Vì các pháp như thế bản tánh đều
không vậy? Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như đã nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu tâm sắc thảy pháp, vì vô tâm sắc thảy tánh vậy, chẳng nên lấy đắm,
thời tất cả pháp đều nên bình đẳng, đều vô sai biệt? Thiện Hiện đáp rằng:
Như vậy, như vậy. Thật như đã nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu tất cả pháp bình đẳng không sai biệt, vì sao Như Lai nói tâm sắc thảy
có các nhiều thứ khác nhau? Thiện Hiện đáp rằng: Đấy là Như Lai tùy theo
thế tục mà nói, chứ chẳng tùy thắng nghĩa.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu các dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Như Lai tâm sắc thảy pháp
đều là vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời các dị sanh và các Thánh giả, Bồ tát,
Như Lai lẽ không sai biệt? Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật
như đã nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nếu các phàm, Thánh, Bồ tát, Như Lai không sai biệt ấy, vì sao Phật nói
phàm, Thánh đại tiểu có nhiều thứ khác nhau? Thiện Hiện đáp rằng: Đấy
cũng Như Lai nương thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa.
Xá Lợi Tử! Các
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đem vô sở đắc làm phương
tiện, nên đối sở phát khởi tâm Đại Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng, tâm chẳng
chung Thanh văn, Độc giác thảy chẳng ỷ chẳng chấp. Đối sắc phi sắc cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng không lấy không đắm. Do nghĩa ấy nên gọi
Ma ha tát.
Hội Thứ Hai
Phẩm Sáu Đáo Bỉ Ngạn
Thứ 13-1
Bấy giờ, Mãn Từ Tử thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn đem trí huệ biện tài nói Bồ tát do nghĩa ấy
nên gọi Ma ha tát? Phật bảo: Mãn Từ Tử! Tùy ý ngươi nói. Mãn Từ Tử nói:
Bạch Thế Tôn! Bởi các Bồ tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình, mặc áo giáp
đại công đức nên phát tới Đại thừa, vì cưỡi Đại thừa nên gọi Ma ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử
rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc áo giáp
đại công đức? Mãn Từ Tử nói: Xá Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành
bố thí Ba la mật đa chẳng vì lợi vui số ít hữu tình tu hành bố thí Ba la
mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả hữu tình tu hành bố thí Ba la mật đa.
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật đa chẳng vì lợi vui
số ít hữu tình tu hành tịnh giới Ba la mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả
hữu tình tu hành tịnh giới Ba la mật đa. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành
an nhẫn Ba la mật đa chẳng vì lợi vui số ít hữu tình tu hành an nhẫn Ba la
mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả hữu tình tu hành an nhẫn Ba la mật đa.
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành tinh tiến Ba la mật đa chẳng vì lợi vui
số ít hữu tình tu hành tinh tiến Ba la mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả
hữu tình tu hành tinh tiến Ba la mật đa. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành
tĩnh lự Ba la mật đa chẳng vì lợi vui số ít hữu tình tu hành tĩnh lự Ba la
mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả hữu tình tu hành tĩnh lự Ba la mật đa.
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng vì lợi vui số
ít hữu tình tu hành bát nhã Ba la mật đa, mà khắp vì lợi vui tất cả hữu
tình tu hành Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ tát Ma ha tát
khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, Xá
Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát mặc áo giáp đại công đức chẳng vì phần hạn,
chẳng khởi nghĩ này: Ta phải cứu vớt ngần ấy hữu tình khiến vào cõi vô dư
bát Niết bàn, ngần ấy hữu tình chẳng cho vào kia. Ta phải cứu vớt ngần ấy
hữu tình khiến trụ Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng cho
trụ kia. Nhưng các Bồ tát khắp vì cứu vớt tất cả hữu tình khiến vào cõi
vô dư bát Niết bản và trụ Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Xá Lợi Tử! Đấy là
Bồ tát Ma ha tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, Xá
Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: Ta phải tự viên mãn bố thí
Ba la mật đa, cũng khiến tất cả hữu tình viên mãn bố thí Ba la mật đa. Ta
phải tự viên mãn tịnh giới Ba la mật đa, cũng khiến tất cả hữu tình viên
mãn tịnh giới Ba la mật đa. Ta phải tự viên mãn an nhẫn Ba la mật đa, cũng
khiến tất cả hữu tình viên mãn an nhẫn Ba la mật đa. Ta phải tự viên mãn
tinh tiến Ba la mật đa, cũng khiến tất cả hữu tình viên mãn tinh tiến Ba
la mật đa. Ta phải tự viên mãn tĩnh lự Ba la mật đa, cũng khiến tất cả hữu
tình viên mãn tĩnh lự Ba la mật đa. Ta phải tự viên mãn bát nhã Ba la mật
đa, cũng khiến tất cả hữu tình viên mãn bát nhã Ba la mật đa. Các Bồ tát
Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: Ta phải tự nương sáu thứ Ba la mật đa như
thế, an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không; tu hành bốn niệm trụ
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng khiến tất cả hữu tình nương sáu
thứ Ba la mật đa đây an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không; tu
hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Các Bồ tát Ma ha
tát khởi nghĩ như vầy: Ta phải nương sáu thứ Ba la mật đa như thế mau
chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vào cõi vô dư y bát Niết bàn. Cũng khiến
tất cả hữu tình nương sáu thứ Ba la mật đa đây, mau chứng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề vào cõi vô dư y bát Niết bàn. Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc giáp đại công đức.
--- o0o ---
Mục Lục Tập
17
Quyển thứ:
|
401
|
402
|
403
|
404
|
405
406
|
407
|
408
|
409
|
410
|
411
|
412
|
413
|
414
|
415 416
|
417
|
418
|
419
|
420
|
421
|
422
|
423
|
424
|
425
--- o0o ---
Mục Lục
Tổng Quát Kinh Bát Nhã
Tập: 1
| 2
|
3 | 4 | 5
| 6
| 7 |
8
| 9
| 10
|
11
| 12
13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19 |
20 | 21
| 22
| 23
| 24
--- o0o ---
Vi tính:
Phước Sơn Trần Minh
Cập nhật:
01-01-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục