dịch
- 2
- CHƯƠNG HAI
- HAI PHÁP
IV. PHẨM TÂM THĂNG BẰNG
1-11. ĐẤT
1.- Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng
cho các Thầy về địa vị bậc không phải Chân nhân và địa vị bậc Chân
nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
- Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa
vị bậc không phải Chân nhân ? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo,
không biết ơn, không nhớ ơn. Đối với những người độc ác, đây là
đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết
ơn, không nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này
các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân,
này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Đối với những thiện nhân, đây
là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết
ơn, nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo,
tức là biết ơn, nhớ ơn.
2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo,
ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai ? Mẹ và Cha. Nếu một
bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt một
trăm năm, cho đến trăm tuổi ; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội,
và dầu tại đấy, mẹ cho có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này
các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này
các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực,
trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng
chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao ? Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới
thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không
có lòng tin, khuyến khích, an trú, hướng dẫn các vị ấy vào lòng tin ; đối
với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy
vào thiện giới ; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú các vị ấy vào bố thí ; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến
khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này
các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
3. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Bà-la-môn ấy nói với Thế Tôn :
- Tôn giả Gotama đã nói gì, đã
thuyết gì ?
- Này Bà-la-môn, ta thuyết về hành
động và Ta thuyết về không hành động.
- Như thế nào, Tôn giả Gotama thuyết
về hành động và thuyết về không hành động ?
- Ta thuyết không hành động, này
Bà-la-môn, đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta thuyết
không hành động đối với nhiều loại pháp ác, bất thiện. Ta thuyết
hành động, này Bà-la-môn, đối với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý
nghĩ thiện. Ta thuyết hành động đối với nhiều loại pháp thiện. Như vậy,
này Bà-la-môn, ta thuyết về hành động và Ta thuyết về không hành động.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
… từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng !
4. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến
Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, gia chủ Anàthapindika bạch Thế Tôn :
- Có bao nhiêu người, bạch Thế Tôn,
đáng được cúng dường ở đời ? Và chỗ nào cần phải bố thí cúng dường.
- Có hai hạng người, này gia chủ,
đáng được cúng dường ở đời : Hữu học và vô học. Đối với hai hạng
người này đáng được cúng dường ở đời, này gia chủ, ở đây cần
phải bố thí cúng dường.
Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ
nói như vậy xong, bậc Đạo sư lại nói thêm :
Hữu học và vô học
Cả hai ở trong đời
Đều đáng được cúng dường
Đối với người dâng lễ
Họ giữ thân chánh trực
Cả lời nói ý nghĩ
Phước điền người dâng cúng
Đây thí có quả lớn.
5. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở tại
Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Đông Viên, lâu đài của mẹ Migàra. Tại đấy,
Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền Tỷ-kheo !
- Thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tổn hại
Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như sau :
- Này chư Hiền, tôi sẽ giảng về
con người bị nội kiết sử trói buộc và vị ngoại kiết sử trói buộc.
Hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tổn hại
Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như sau :
- Này chư Hiền, thế nào là người
bị nội kiết sử trói buộc ? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh,
sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi
chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập
trong các học giới. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào
một trong các Thiên giới. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy làm người
lại trở về, trở về ở thế giới này. Vị này, này chư Hiền, được
gọi là người bị nội kiết sử trói buộc, người trở lại, trở lui trạng
thái này.
Thế nào, này chư Hiền, là người
bị ngoại kiết sử trói buộc ? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới
hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh
hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập
trong các học giới. Vị ấy, chứng đạt và an trú tịch tịnh tâm giải
thoát. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một loại chư
Thiên. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn
trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người
bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng
thái này nữa.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới hạnh … và chấp nhận học tập trong các học giới. Vị ấy thực
hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các hữu. Vị ấy thực hiện sự đoạn
diệt khát ái. Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt tham. Vị ấy, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới. Sau khi từ chỗ
ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái
này nữa. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử
trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.
Rồi một số đông chư Thiên với
tâm thăng bằng đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
đứng một bên. Đứng một bên, chư Thiên ấy bạch Thế Tôn :
- Tôn giả Sàriputta này, bạch Thế
Tôn, tại Đông viên, lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị nội
kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng
rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn. Lành thay ! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì
lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sàriputta.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi
Thế Tôn, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay
đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâm, hiện ra ở tại Đông
viên, tại lâu đài mẹ Migàra, trước mặt Tôn giả Sàriputta. Thế Tôn ngồi
xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Tôn giả Sàriputta đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi
xuống một bên :
- Ở đây, này Sàriputta, có một số
đông chư Thiên, với tâm thăng bằng, đi đến Ta ; sau khi đến, đảnh lễ
Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, chư Thiên ấy thưa với Ta : "Tôn
giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Đông viên, lâu đài mẹ Migàra,
thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại
kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn. Lành thay ! Bạch
Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sàriputta".
Này Sàriputta, chư Thiên ấy tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng
đứng chỉ trong một khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn
nhau. Này Sàriputta, Thầy có thể nghĩ như sau : "Chắc chắn, tại chỗ
kia (trên thế giới) đã tu tập, nhờ vậy, chư Thiên ấy, tuy con số đến
10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong một khoảng trống đầu một
cây kim, không có chen lấn nhau". Này Sàriputta, Thầy chớ có thấy như
vậy. Chính tại đây, này Sàriputta, chư Thiên ấy đã tu tập tâm, nhờ như
vậy chư Thiên ấy tuy con số đến … không chen lấn nhau. Do vậy, này
Sàriputta, cần phải ta như sau : "Chúng tôi sẽ có các căn an tịnh, các
ý an tịnh". Này Sàriputta, cần phải học tập như vậy. Với những ai
có các căn an tịnh, thời thân nghiệp cũng sẽ được an tịnh, khẩu nghiệp
được an tịnh, ý nghiệp được an tịnh. "Chúng tôi sẽ đem tặng cho
các vị đồng Phạm hạnh một quà tặng an tịnh". Như vậy, này
Sàriputta, các Thầy cần phải học tập. Các du sĩ ngoại đạo này, này
Sàriputta, không được nghe pháp môn này, họ sẽ bị thiệt hại.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna ở
tại Vanara, trên bờ sông Kaddamada. Rồi Bà-la-môn Àràmadanda đi đến Tôn
giả Mahà Kaccàna, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời
chào đón hỏi thăm ; sau khi nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Bà-la-môn Àràmadanda thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna :
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna,
do duyên gì các người Sát-đế-lỵ tranh chấp với các người Sát-đế-lỵ,
các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà-la-môn, các người gia
chủ tranh chấp với các người gia chủ ?
- Do nhân thiên chấp, bị trói buộc,
bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham, này
Bà-la-môn, nên các quý tộc tranh chấp với các quý tộc, các người Bà-la-môn,
các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ.
- Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna,
do duyên gì các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn ?
- Do nhân thiên chấp, bị trói buộc,
bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham, này
Bà-la-môn, nên các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn.
- Nhưng thưa Tôn giả Kaccàna, có người
nào ở đời có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị
xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên
chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi
các kiến tham này ?
- Có người ở đời này, này
Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị
xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên
chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi
các kiến tham này.
Vị ấy là ai, này các Bà-la-môn,
có thể vượt qua thiên chấp … kiến tham này ?
Ở quốc độ phương Đông, này
Bà-la-môn, có một thành phố tên là Sàvatthi, Tại đấy, Thế Tôn nay đang
trú, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Vị Thế Tôn ấy, này Bà-la-môn, đã
vượt qua thiên chấp … kiến tham này.
Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn
Àràmadanda từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, đầu
gối phía hữu quỳ trên đất, chắp tay hướng về phía Thế Tôn, và nói
lên ba lần với lời cảm hứng như sau :
- Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác ! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ! Vị Thế
Tôn ấy, đã vượt qua thiên chấp … kiến tham này.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Kaccàna ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccàna ! Như người dựng đứng
lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Tôn giả
Kaccàna dùng nhiều pháp môn để giải thích. Thưa Tôn giả Kaccàna, con nay
xin quy y Tôn giả Kaccàna, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng ! Mong Tôn giả
Kaccàna nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng !
7. Một thời, Tôn giả Mahà Kaccàna
trú ở Madhurà, tại rừng Gundhà. Rồi Bà-la-môn Kandaràyana đi đến Tôn giả
Mahà Kaccàna ; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn Kandaràyana thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna :
- Tôi có nghe như sau, thưa Tôn giả
Kaccàna : "Sa-môn Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế
mời ngồi các bậc Bà-la-môn già cả, trưởng lão, các bậc trưởng thượng
đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt mức cuối tuổi đời". Thưa Tôn
giả Kaccàna, có phải sự tình là như vậy không ? Nếu Tôn giả Kaccàna
không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc
Bà-la-môn già cả, trưởng lão, các bậc trưởng thượng đã đi quá nửa
cuộc đời, đã đạt mức cuối tuổi đời, sự tình như vậy, thưa Tôn
giả Kaccàna, là không được tốt đẹp.
- Này Bà-la-môn, có Thế Tôn, bậc
Tri giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã tuyên bố về
địa vị của tuổi trưởng lão và địa vị của tuổi trẻ. Vị trưởng
lão, này Bà-la-môn, 80 tuổi hay 90 tuổi, hay 100 tuổi đời, nếu vị ấy thọ
hưởng các dục vọng, sống giữa các dục vọng, bị đốt cháy bởi lửa
nhiệt não của dục vọng, bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, cố
gắng tìm cầu các dục vọng ; người như vậy được gọi là kẻ ngu,
không phải là bậc trưởng lão. Dầu cho này Bà-la-môn, một người còn trẻ,
một thanh niên trẻ trung với tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ hiền thiện
trong thời sơ khởi của tuổi đời, mà người ấy không hưởng thọ hưởng
các dục vọng, sống giữa các dục vọng, bị đốt cháy bởi lửa nhiệt
não của dục vọng, bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, cố gắng
tìm cầu các dục vọng ; người như vậy được gọi là bậc có trí, bậc
trưởng lão.
- Khi được nghe nói vậy,
Bà-la-môn Àràmadanda từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một
bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân các Tỷ-kheo còn trẻ tuổi và nói :
- Trưởng lão là chư Tôn giả, đã
đứng trên địa vị trưởng lão. Trẻ tuổi là chúng con, đã đứng trên
địa vị trẻ tuổi.
Thật vi diệu, Tôn giả Kaccàna, …
Mong Tôn giả Kaccàna nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng !
8. - Khi nào các người ăn trộm cường
mạnh, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, các vua chúa yếu đuối, trong khi ấy,
thật không an toàn cho các vua chúa đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên
cương. Và trong khi ấy, thật không an toàn cho các Bà-la-môn, các gia chủ
để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, khi các ác Tỷ-kheo cường mạnh, khi ấy, các thuần tịnh
Tỷ-kheo yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo thuần tịnh
giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc đi đến
các quốc độ biên địa. Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là bất hạnh cho
đa số, là không an lạc cho đa số, là không lợi ích cho đa số, là bất
hạnh, là đau khổ cho chư Thiên và loài Người.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, vua chúa cường
mạnh, trong khi ấy, các trộm cướp yếu đuối, trong khi ấy, thật an toàn
cho các vua chúa đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên cương. Và trong khi
ấy, thật an toàn cho các Bà-la-môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra,
đi quan sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi
các thuần tịnh Tỷ-kheo cường mạnh, khi ấy, các ác Tỷ-kheo yếu đuối.
Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, các ác Tỷ-kheo giữ thái độ im lặng, hoặc
ẩn mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc các chỗ khác. Và như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạnh phúc cho đa số, là an lạc cho đa số, là lợi ích cho đa số, là
hạnh phúc, là an lạc cho chư Thiên và loài Người.
9. Ta không tán thán hai loại tà hạnh,
này các Tỷ-kheo, ở người gia chủ hay người xuất gia. Người gia chủ, này
các Tỷ-kheo, hay người xuất gia theo tà hạnh, do nhân duyên tà hạnh,
không thể đem lại chánh lý, thiện pháp.
Ta tán thán hai loại chánh hạnh,
này các Tỷ-kheo, ở người gia chủ hay người xuất gia. Người gia chủ, này
các Tỷ-kheo, hay người xuất gia theo chánh hạnh, do nhân duyên chánh hạnh,
có thể đem lại chánh lý, thiện pháp.
10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
chặn đứng cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ sai lạc các kinh điển
và những văn tự thích ứng, thì những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu
trách nhiệm về bất hạnh cho đa số, không an lạc cho đa số, không lợi
ích cho đa số, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra,
các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chất chứa nhiều vô phước làm cho diệu
pháp biến mất.
Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
tùy thuận cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ đúng đắn các kinh điển
và những văn tự thích ứng, thì những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu
trách nhiệm về hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số,
hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra, các Tỷ-kheo ấy,
này các Tỷ-kheo, chất chứa nhiều phước đức, làm cho diệu pháp an trú.
--- o0o ---
|
Mục lục Kinh Tăng Chi bộ ||
Phẩm
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
( Trang nhà Quảng Đức, 01/01/2002)
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục