dịch
- 3
- CHƯƠNG BA
- BA PHÁP
IV. PHẨM SỨ GIẢ CỦA TRỜI
NGANG BẰNG VỚI PHẠM THIÊN
- Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận như các Đạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận là đáng được cúng dường.
Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Các Đạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Đáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao ? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là
cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu
chúng vào đời.
Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Đạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy, bậc Hiền triết
Đảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân
Với sở hành như vậy,
Đối với mẹ và cha
Đời này người Hiền khen
Đời sau hưởng Thiên lạc
ÀNANDA
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên ; ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Rất có thể, bạch Thế Tôn, một
Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã
kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên ; đối với tất cả tướng ở
ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên ; và do chứng
đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tuỳ miên ; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy.
- Rất có thể, này, Ànanda, một Tỷ-kheo
được định như vậy … có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát,
tuệ giải thoát ấy.
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, rất
có thể, một Tỷ-kheo được định như vậy … có thể chứng đạt và an
trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy ?
- Ở đây, này Ànanda, vị Tỷ-kheo
suy nghĩ như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù diệu, tức là chỉ tức
tất cả hành, từ bỏ tất cả sanh y, đoạn tận tham, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Như vậy, này Ànanda, rất có thể Tỷ-kheo được định
như vậy, … có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ấy.
Lại nữa, này Ànanda, liên hệ đến
vấn đề này, Ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi của
Punnaka", chương về Pàràyana.
Do phân tích ở đời
Những vật cao và thấp
Với vị không dao động
Bởi vật gì ở đời,
An tịnh, không tối mù,
Không phiền muộn, không cầu
Ta nói người như vậy,
Đã vượt khỏi sanh già.
SÀRIPUTTA
Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên :
- Này Sàriputta, Ta có thể thuyết
pháp một cách tóm lược. Này, Sàriputta, ta có thể thuyết pháp một cách
rộng rãi. Này Sàriputta, ta có thể thuyết pháp một cách tóm lược và rộng
rãi. Và những người hiểu biết được thật là khó tìm !
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn,
nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, để Thế Tôn thuyết pháp một cách
tóm lược, thuyết pháp một cách rộng rãi, và thuyết pháp một cách tóm
lược và rộng rãi. Sẽ có những người có thể hiểu rõ Chánh pháp.
- Vậy này Sàriputta, hãy học tập
như sau : "Trong cái thân có thức này, sẽ không có ngả kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tùy miên ; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên, chúng
tôi sẽ chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy !".
Như vậy, này Sàriputta, các Ông cần phải học tập. Khi nào Tỷ-kheo đối
với thân có thức này, không có ngả kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy
miên ; đối với tất cả các tướng ở ngoài, không có ngả kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tùy miên ; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, không có ngả kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên ; vị ấy
chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. Người như vậy,
này Sàriputta, được gọi là Tỷ-kheo đã chặt đứt khát ái, đã cởi mở
kiết sử, với chơn chánh hiệu quán kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau.
- Lại nữa, này Sàriputta, liên hệ
đến vấn đề này, ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi
của Udaya" trong chương Pàràyana.
Đoạn tận cả hai pháp
Dục tham và sân hận
Và từ bỏ hôn trầm
Cận đứng mọi trạo hối
Với xả niệm thanh tịnh
cạy trước pháp tư duy ?
Ta nói trí giải thoát
Vô minh được phá tận.
33. CÁC NGUYÊN NHÂN
- Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba ? Tham là nguyên nhân khởi lên các
nghiệp. Sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Si là nguyên nhân khởi
lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì
tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ
tham, tại chỗ nào tư 5 ngã được hiện hữu, tại chỗ ấy, nghiệp ấy
được thuần thục. Chỗ nào nghiệp ấy được thuần thục, cỗ ấy quả
dị thục của nghiệp ấy được cảm thọ ngay trong hiện tại, hay trong đời
sống kế tiếp, hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm từ
sân, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ sân … Phàm nghiệp nào được làm từ
si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si … tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần
thục … hay trong một đời sau nữa.
Ví dũ, này các Tỷ-kheo, các hạt
giống không bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư,
còn tươi tốt được khéo gieo vào một đồng ruộng tốt, được trồng vào
đất khéo sửa soạn, và được trời mưa xuống đều đặn, các hạt giống
ấy, này các Tỷ-kheo, được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ tham … hay trong môt đời
sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm từ sân … hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm từ si … hay trong một đời sau nữa.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba ? Không tham là nguyên nhân khởi lên
các nghiệp. Không sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không si là
nguyên nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì
không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không tham, duyên khởi từ không
tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp
ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân
cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai.
Phàm nghiệp nào được làm từ
không sân … Phàm nghiệp nào được làm từ không si, này các Tỷ-kheo,
sanh ra từ không si … Vì rằng si được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy
được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân
cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai.
Ví như này các Tỷ-kheo, các hạt
giống không thể bị bể vụn, không hư thối, không bị gió và nắng làm
hư, còn được tươi tốt, được khéo gieo. Và một người lấy lửa đống
chúng, sau khi lấy lửa đốt, làm cho chúng thành tro, sau khi làm thành tro,
quạt chúng trong gió lớn, hay cho vào dòng nước sông chảy nhanh mang cuốn
đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hạt giống ất được đoạn tận, được
cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho
không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ không tham …
không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không
sân … không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ
không si … không thể sanh khởi trong tương lai.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp :
Phàm có hạnh nghiệp nào,
Sanh từ tham sân si,
Do kẻ vô trí làm
Dầu có ít hay nhiều
tại đây được cảm thọ,
Không phải tại chỗ khác
Do vậy vị Tỷ-kheo
Từ bỏ tham, sân, si
Làm khởi lên minh trí,
Từ bỏ mọi ác thú.
VỀ ÀLAVÌ
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Àlavì, tại
Gomagga, trong rừng Simsapà, trên chỗ có trải lá.
Rồi Hatthaka, người Àlavì, đang
đi bộ hàng du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong
rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn ; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống mộ bên. Ngồi xuống một bên,
Hatthaka người Àlavì bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có
an lạc không ?
- Phải, này Hoàng Tử, ta sống được
an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những
người ấy.
- Bạch Thế Tôn, lạnh là đếm mùa
đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời
gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm
làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà
Savittha, và lạnh là làn gió thổi.
Rồi Thế Tôn nói như sau :
- Dẫu vậy, này Hoàng Tử, Ta sống
được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số
những người ấy. Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu
có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời. Hoàng Tử nghĩ thế nào, này
Hoàng Tử ? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc
nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa
được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy, có một chỗ nằm
có tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng,
chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadaki, tấm thảm có tàn
tre phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn thắp đỏ và bốn
bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy
nằm ngủ có an lạc không ? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào ?
- Bạch Thế Tôn, người ấy nằm
ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy
là một trong những người ấy.
- Hoàng Tử nghĩ thế nào, này
Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi
lên những nhiệt lão về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi
những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người
gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái
sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.
Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng
Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những
nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh… do si sanh. Bị nung đốt bởi những
nhiệt não do si sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người
gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh,
cảm thấy đau khổ. Si ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ,
làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.
Luôn luôn được an lạc,
Vi phạm chí tịch tịnh
Không bị dục uế nhiễm
Trong mát, không sanh y,
Mọi tham trước dứt đoạn,
Nhiếp phục tâm sầu khổ,
An tịnh, cảm thọ lạc
Với tâm đạt an tịnh.
DIÊM VƯƠNG
1-6
- Có ba Thiên sứ này, này các Tỷ-kheo,
Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Sau khi thân làm ác, miệng nói ác,
ý nghĩ ác, khi thâm hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục, với hai cánh tay bắt người ấy dẫn đến Vua Yama
(Diêm vương) và thưa :
- "Thưa Đại cương, người này
không kính mẹ, không kính cha, không kính Savittha-môn, không kính Bà-la-môn,
không tôn kính các bậc lớn tuổi trong gia đình, Đại vương hãy hình phạt
nó"
Rồi vua Yama chất vấn người ấy
:, cật vấn, nạn vấn người ấy về Thiên sứ thứ nhất :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ nhất hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông 80 tuổi, hay
90 tuổi, hay 100 tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa
đi vừa run rẩy, bệnh hoạn, tuổi trẻ đã tận, răng rụng tóc bạc, hư
rụng, sói đầu, da nhăn, đầu rung, tay chân da mồi khô đét ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
già, ta không vượt qua tuổi già. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về
lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia, chúng ta sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự
phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm,
không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn
bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư Thiên
làm, không phải Sa-môn làm, Bà la - môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi
làm và Ngươi se thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy.
Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo, sau
khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ nhất,
liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
hai :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ hai hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông, bệnh hoạn
khổ não nguy kịch, rơi nằm trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần
người khác nâng dậy, cần người khác dìu nằm xuống ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
bệnh, ta không vượt qua bệnh hoạn. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân,
về lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia … ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của
các nghiệp ấy."
3. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
hai, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
ba :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ ba hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông, chết đã
được một ngày, hay chết được hai ngày, hay chết được ba ngày, sưng
phù lên, xanh xám lại và nát rữa ra ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
chết, ta không vượt qua sự chết. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về
lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia …ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của
các nghiệp ấy."
4. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
ba, rồi giữ im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, những người
lính địa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc. Họ lấy
cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng
vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn chân, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, Họ lấy cọc sắt nung
đỏ đóng giữa ngực. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn,
cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh
chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Này
các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục bắt người ấy nằm xuống
và lấy cái rìu chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa
được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục dựng
ngược người ấy, chân trên đầu dưới và lấy dao sắc chặt người ấy.
Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo,
các người lính địa ngục, cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người
ấy chạy tới, kéo người ấy chạy lui, trên đất được đốt cháy đỏ,
cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa được
tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục đẩy người
ấy lên, kéo người ấy xuống trên một sườn núi đầy than hồng, cháy
đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực, Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa
được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục nắm
ngược người ấy, chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào
một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ
rực, Người ấy ở đây, bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, khi thì
trôi nổi lên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy
ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Nhưng người ấy không thể mệnh chung cho đến không ác nghiệp của người
ấy được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính đĩa ngục
quăng người ấy vào Đại địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Đại địa ngục
ấy :
- Có bốn góc, bốn cửa
- Chia thành phần bằng nhau,
- Xung quanh có tường sắt,
- Mái sắt lợp lên trên
- Nền địa ngục bằng sắt
- Nung đỏ cháy đỏ rực
- Đứng thẳng luôn có mặt
- Rộng một trăm do tuần
Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo,
vua Yama suy nghĩ như sau : "Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ
lãnh những hình phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, ta có thể hầu
hạ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho ta, và ta có thể thông hiểu pháp do
Thế Tôn thuyết giảng".
Này các Tỷ-kheo, điều ta đang nói,
không phải ta nghe từ một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào khác ; những điều
ta đang nói chỉ được ta biết mà thôi, chỉ được ta thấy mà thôi, chỉ
được ta hiểu mà thôi.
- Dầu Thiên sứ báo động,
- Thanh niên vẫn phóng dật
- Họ ưu buồn lâu dài,
- Sanh làm người hạ liệt.
- Ở đây, bậc Chân nhân,
- Được Thiên sứ báo động,
- Không bao giờ phóng dật
- Trong diệu pháp bậc thánh
- Thấy sợ trong chấp thủ
- Trong hiện hữu sanh tử
- Được giải thoát không thủ
- Sanh tử được đoan trừ
- Được yên ổn không lạc
- Ngay hiện tại tịch tịnh
- Mọi oán hận sợ hãi
- Các vị ấy vượt qua
- Mọi đau đớn khổ sầu
- Thảy đều được siêu thoát.
BỐN BẬC ĐẠI VƯƠNG
- Này các Tỷ-kheo, trong ngày thứ
tám của nửa tháng, các vị Đại thần cố vấn cho bốn Đại vương, đi
du hành trong thế giới này để xem trong loài người, có nhiều người có
hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính các Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng
các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha, có đề cao cảnh giác, có làm các
công đức.
Này các Tỷ-kheo, trong ngày 14 của
nửa tháng, các Hoàng tử của bốn Thiên vương, đi du hành trong thế giới
này để xem trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ … có
làm các công đức.
Này các Tỷ-kheo, trong ngày rằm lễ
Uposatha, bốn vị Thiên vương tự mình đi du hành trong thế giới này để
xem trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ … có làm các
công đức.
Nếu chỉ có ít người giữa loài
người, này các Tỷ-kheo, có hiếu với mẹ … là các công đức, thời này
các Tỷ-kheo, bốn vị Đại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ
ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammà :
- "Thưa chư vị, có ít người
giữa loài người có hiếu với mẹ … có làm các công đức".
Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở
cõi trời thứ ba mươi ba không hoan hỉ nói :
- "Thật vậy, Thiên chúng sẽ bị
tổn giảm và Asura chúng (A-tu-la) sẽ được sung mãn."
Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu có nhiều
người giữa loài người, có hiếu với me … có làm các công đức, thời
này các Tỷ-kheo, bốn vị Đại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời
thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammà :
- "Thưa chư Vị, có nhiều người
giữa loài người, có hiếu với me … có làm các công đức".
Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở
cõi trời thứ ba mươi ba hoan hỷ nói
- "Thật vậy, Thiên chúng sẽ
được sung mãn, còn các Asura chúng sẽ bị tổn giảm.
SAKKA
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên
chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba,
trong khi ấy, nói lên bài kệ như sau :
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã
bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát đúng, không nói đúng. Vì cớ sao ?
Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa ly tham, chưa ly sân, chưa ly si. Còn vị
Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm
hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích
đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Với
vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng.
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Vì cớ sao ? Vị Tỷ-kheo ấy, này
các Tỷ-kheo, đã ly tham, ly sân, ly si.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên
chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba,
trong khi ấy nói lên bài kệ như sau :
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã
bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát đúng … Vì cớ sao ? Ta nói rằng
Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán …
chánh trí giải thoát. Với vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này
mới là thích đáng :
Ngày mười bốn, ngày rằm
Ngày tám trong nửa tháng
Kể cả phần đặc biệt
Khéo đầy đủ cả tám
Theo làm lễ Bố-tát
Vị ấy giống như ta.
Vì cớ sao ? Ta nói rằng, vị Tỷ-kheo
ấy, này các Tỷ-kheo, đã thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não,
giải thoát khỏi khổ đau.
ĐƯỢC NUÔI DƯỠNG TẾ NHỊ
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi
dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các Tỷ-kheo, trong
nhà Phụ vương ta, có các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa
sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất
cả phục vụ cho ta. Không một hương chiên đàn nào ta dùng, này các Tỷ-kheo,
là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo.
Bằng vải kàsi là áo cánh, bằng vải kàsi là nội y, bằng vải kàsi là
thượng y. Đêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta để tránh xúc
chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương. Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được
xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho
mùa mưa. Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa,
được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu. Trong
các nhà của người khác, các đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt
gà và cơm nấu.
Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy
đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị
như vậy, ta suy nghĩ rằng : "Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị già,
không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị già, không vượt
qua khỏi già, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền, hổ
thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi quan
sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi
trẻ được đoạn trừ hoàn toàn.
Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị bệnh,
không vượt khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị bệnh, không
vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị già, ta có thể bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi
quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh
trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.
Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị chết,
không vượt khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, lại bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy. Ta cũng bị chết, không
vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, ta có thể bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm ? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta". Sau khi
quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống
trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.
KIÊU MẠN
1. - Có ba kiêu mạn này, này các Tỷ-kheo,
Thế nào là ba ? Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu
mạn của sự sống.
Sau sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ,
này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác
hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân,
làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng
chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Sau sưa trong Kiêu
mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác
hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do
làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về
ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Sau sưa trong kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn
phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các
ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói,
làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Sau sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ,
này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống
thế tục. Say sưa trong kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Say sưa trong kiêu mạn
của đời sống, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui
lại đời sống thế tục
Bị bệnh và bị già
Lại còn phải bị chết
Kẻ phàm phu ghê tởm
Người khác bị như vậy
Nếu ta cũng ghê tởm
Chúng sanh bị như vậy,
Không xứng đáng cho ta,
Với ta được sống vậy
Nên ta sống như thật
Biết pháp không sanh y
Sự say sưa không bệnh
Tuổi trẻ và sự sống
Tất cả ta nhiếp phục
Thấy xuất ly an ổn
Nơi ta khởi tinh tấn
Vì ta thấy niết bàn
Ta không còn có thể
Thọ hưởng các dục vọng
ta sẽ không trở lui
Đích Phạm hạnh ta đến
TĂNG THƯỢNG
1-4
- Này các Tỷ-kheo, có ba tăng thượng
này. Thế nào là ba ? Ngã tăng thượng, thế giới tăng thượng, pháp tăng
thượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ngã tăng thượng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đi đến ngôi rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống,
quan sát như sau : "Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa,
không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau) : "Nay ta bị
rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ bị khổ chi
phối. Có thể do làm như vậy, sự đoạn tận tất cả các khổ uẩn này
được hiện khởi lên (cho ta). Và ta đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, sau khi đã đoạn tận tất cả các dục vọng như vậy, lại
còn đeo đuổi các dục vọng nhu kia hay còn ác tệ hơn. Như vậy, thật không
xứng đáng cho ta".
Vị ấy lại quan sát như sau :
"Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động ; an trú là niệm
của ta, không có thất niệm ; khinh an là thân của ta, không có dao động ;
định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm". Vị ấy làm cho tăng thượng
tự ngã, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không
tội, gìn giữ cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là tự ngã tăng thượng.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
thế giới tăng thượng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi
thẩm sát như sau : "Không phải vì áo … (như trên) có thể làm như vậy,
đoạn tận của tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Và ta
đã xuất gia như vậy, lại có thể suy nghĩ về dục tầm hay có thể suy
nghĩ về sân tầm, hay có thể suy nghi về hại tầm. To lớn là đại chúng
này sống ở trong đời. Trong đại chúng sống ở đời, có các vị
Sa-môn, Bà-la-môn có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông. Các vị
này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thể thấy chúng được, và
chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng. Chúng biết về ta như sau :
"Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện".
Lại có các chư Thiên có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông. Các
vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thể thấy chúng được,
và chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng. Các vị ấy có thể biết
về ta như sau : "Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất
thiện"
Vị ấy lại quan sát như sau :
"Thắng tấn là tinh tấn của ta … được nhứt tâm. Vị ấy làm cho tăng
thượng thế giới, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu
tập không có tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh". Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là thế giới tăng thượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
pháp tăng thượng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đi đến ngôi rừng "…, … có thể do làm như vậy, đoạn tận tất cả
các khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta. Pháp được Thế Tôn khéo
thuyết, thiết thực hiện tại, có kết quả ngay tức thời, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình tự
mình giác hiểu. Nay ta có những người đồng Phạm hạnh, chúng sống biết
và thấy. Ta đã được xuất gia trong pháp và Luật khéo giảng như vậy,
không lẽ ta lại có thể sống biếng nhác phóng dật. Như vậy, thật không
xứng đáng cho ta". Vị ấy lại quán sát như sau : "Thắng tấn là
sự tinh tấn của ta… được nhứt tâm. Vị ấy làm cho tăng thượng pháp,
từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không có tội,
giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
pháp tăng thượng. Này các Tỷ-kheo, có ba pháp tăng thượng này.
- Trên đời không giấu được
- Ác nghiệt tự mình làm
- Ngã của ngươi ta biết
- Là thật hay là giả
- Ngươi thật kinh thiện ngã
- Mặt giáp mặt chứng kiến
- Muốn che giấu tự ngã
- Điều ác tự ngã làm
- Chư Thiên và Như Lai
- Thấy rõ ở trong đời
- Sở hành của kẻ ngu
- Làm các hạng tà vạy
- Vậy vị ngã tăng thượng
- Sở hành phải chánh niệm
- Vị thế giới tăng thương
- Hãy khôn khéo, Thiền tịnh
- Với vị pháp tăng thượng
- Hãy sống theo tùy pháp
- Đại sĩ không thối thất
- Tinh cần theo chân lý
- Nhiếp phục được ma quân
- Chiến thắng được tử thần
- Với tinh cần tinh tấn
- sanh đã được đoạn tận.
- Bậc đạo sĩ như vậy,
- Hiểu thế gian diệu chí
- Đối với tất cả pháp
- Không có gì xúc phạm
-
--- o0o ---
|
Mục lục Kinh Tăng Chi bộ ||
Phẩm
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
( Trang nhà Quảng Đức, 01/01/2002)
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục