KINH ÐỊA TẠNG
HT. Thích Trí Quang dịch giải
---o0o---
Ghi
Chú
Ghi
Chú
(1)
Bản
dịch
này
đáng
lẽ
cũng
chia
kinh
Địa
tạng
làm
2
cuốn
như
Chính
13/777-790,
nhưng
vẫn
chia
làm
3
cuốn
như
nguyên
bản
thường
là
để
dễ
thích
ứng
với
thì
gian
trì
tụng.
Ghi
Chú
(2)
Tạm
dịch
tên
23
định
như
sau:
1.
định
có
thể
phát
ra
trí
giác,
2.
định
đầy
đủ
trí
giác
vô
biên,
3.
định
đầy
đủ
trí
giác
trong
sạch,
4.
định
đầy
đủ
trí
giác
hổ
thẹn,
5.
định
đầy
đủ
trí
giác
các
thừa,
6.
định
đầy
đủ
trí
giác
không
lo,
7.
định
đầy
đủ
trí
giác
thần
thông,
8.
định
soi
khắp
thế
gian,
9.
định
đèn
đuốc
chư
Phật,
10.
định
ánh
sáng
kim
cương,
11.
định
trí
giác
khó
phá,
12.
định
ánh
sáng
của
điện,
13.
định
đầy
đủ
mùi
vị
hơn
hết,
14.
định
đầy
đủ
tinh
chất
hơn
hết,
15.
định
đầy
đủ
đồ
dùng
hơn
hết,
16.
định
dẫn
ra
trí
tuệ
không
cãi,
17.
định
dẫn
ra
phấn
chấn
hơn
hết,
18.
định
dẫn
ra
ánh
sáng
đường
đời,
19.
định
khéo
ở
kim
cương
hơn
hết,
20.
định
dẫn
ra
quán
sát
tăng
thượng,
21.
định
đầy
đủ
từ
bi,
22.
định
dẫn
ra
phước
đức,
23.
định
ánh
sáng
điện
biển.
Ghi
Chú
(3)
Ngũ
trược,
hay
ngũ
trược
ác
thế,
mà
trong
kinh
Thập
luân,
ngài
Huyền
tráng
đã
dịch
ngũ
trược
ác
thời,
là
thời
kỳ
dữ
dội
đầy
cả
5
thứ
vẩn
đục
--
thời
kỳ
mà
nói
chung
là
kiếp
trược
(thời
kỳ
vẩn
dục:
thời
kỳ
dữ
dội),
vì
có
kiến
trược
(kiến
thức
vẩn
đục:
kiến
thức
sai
lầm),
có
phiền
não
trược
(tâm
lý
vẩn
đục:
tâm
lý
độc
ác),
có
chúng
sinh
trược
(con
người
vẩn
đục:
con
người
xấu
kém),
và
có
mạng
trược
(đời
sống
vẩn
đục:
đời
sống
ngắn
ngủi).
Giai
đoạn
ngũ
trược
thì
dẫn
đến
giai
đoạn
tam
tai,
tức
là
3
tai
nạn
đao
binh,
tật
dịch,
cơ
cẩn
(chiến
tranh,
nhiễm
độc,
nhân
mãn).
Sự
dữ
dội
của
tam
tai
thì
cứ
nhìn
vào
thế
giới
ngày
nay
cũng
đủ
thấy,
không
đợi
phải
tả
lúc
ấy
con
người
thấy
cái
gì
cũng
là
vũ
khí,
và
một
lá
cỏ
giết
người
còn
hơn
tất
cả
binh
chủng
toàn
cõi
Ấn
độ
xưa.
Ghi
Chú
(4)
Phải
nói
rõ
vị
thứ
đối
với
mình
của
người
mình
cầu
an
cầu
siêu
cho.
Nếu
nhiều
người
cùng
lúc
lễ
bái
trì
tụng
thì
chỉ
bạch
"Đệ
tử
chúng
con
nguyện
cầu
siêu
cho
những
người
quá
vãng
và
cầu
an
cho
những
người
hiện
còn".
Ghi
Chú
(5)
Khuy
cơ
đại
sư
nói,
khi
giải
thích
chữ
Phật
trong
câu
"nhất
thời
Phật
tại",
rằng
xét
bản
chữ
Phạn
của
các
kinh
đều
gọi
đức
bổn
sư
là
Bạc
dà
phạn
(Thế
tôn).
Đức
Bổn
sư
dạy
để
chữ
ấy
vì
chữ
ấy
gồm
đủ
các
đức
tính.
Nhưng
dịch
chủ
ý
muốn
vắn
tắt
nên
để
chữ
Phật
(Vạn
33/71B).
Ghi
Chú
(6)
Hai
lần
không
thể
nói
hết
là
1
trong
những
số
rất
nhiều.
Ghi
Chú
(7)
Thế
giới
hệ
nghĩa
là
một
hệ
thống
thế
giới.
Thế
giới,
quốc
độ,
hầu
hết
những
chữ
ấy
tôi
đã
đổi
ra
chữ
thế
giới
hệ,
để
mong
hình
dung
nổi
một
thế
giới
của
hóa
thân
Phật
giáo
hóa.
Nên
tạm
đối
chiếu
thế
giới
hệ
như
vậy
với
các
thiên
hà
trong
thiên
văn.
Nhưng
thế
giới
hệ
chỉ
là
đại
thiên
thế
giới
(tam
thiên
đại
thiên
thế
giới),
chưa
phải
hoa
tạng
thế
giới
hay
thế
giới
chủng.
Ghi
Chú
(8)
Chính
văn
bất
khả
tư
nghị
có
khi
để
nguyên,
có
khi
được
dịch
là
siêu
việt,
có
khi
được
dịch
là
không
thể
nghĩ
bàn.
Bất
khả
tư
nghị
có
nghĩa
là
siêu
việt
tư
duy
và
mô
tả.
Ở
chỗ
khác,
từ
ngữ
này
có
khi
chỉ
cho
thật
tướng
"ngôn
ngữ
đạo
đoạn,
tâm
hành
xứ
diệt":
chỉ
cho
Không.
Nhưng
ở
kinh
này
thì
từ
ngữ
này
hầu
hết
chỉ
có
nghĩa
siêu
việt,
vĩ
đại,
không
thể
nghĩ
và
nói
cho
thấu;
có
khi
chỉ
có
nghĩa
phi
thường,
đặc
biệt,
không
thể
nghĩ
và
nói
một
cách
bình
thường.
Ghi
Chú
(9)
Ánh
sáng
ngàn
vạn
ức
sắc
thái,
chính
văn
là
bách
thiên
vạn
ức
đại
quang
minh
vân,
dịch
đủ
là
vầng
mây
ánh
sáng
rực
rỡ
đủ
cả
trăm
ngàn
vạn
ức
sắc
thái.
Ánh
sáng
ngàn
vạn
ức
sắc
thái
là
ánh
sáng
biểu
thị
vô
số
các
pháp
mà
Phật
có
và
muốn
truyền
đạt,
tức
đại
viên
mãn,
v/v.
Nhìn
vào
ánh
sáng
này,
bực
thượng
căn
nhìn
ra
và
có
được
các
pháp
ấy.
Thuyết
pháp
và
nghe
pháp
như
vậy
là
sắc
trần
thuyết
pháp.
Mà
lục
trần
đều
thuyết
pháp
cả.
Nên
thế
giới
Hương
tích
thuyết
pháp
bằng
hơi
thơm
và
đó
là
hương
trần
thuyết
pháp.
Phải
coi
thêm
các
chú
thích
11
và
12
dưới
đây.
Ghi
Chú
(10)
Không
thể
nói
hết
cũng
là
1
số
nhiều,
sau
số
hai
lần
không
thể
nói
hết.
Ghi
Chú
(11)
Â
thanh
đủ
mọi
sắc
thái
mầu
nhiệm,
chính
văn
là
chủng
chủng
vi
diệu
chi
âm,
dịch
sát
là
âm
thanh
đủ
thứ
mầu
nhiệm.
Âm
thanh
đây
là
tiếng.
Chưa
phải
nói,
chưa
phải
ngôn
ngữ.
Tức
như
tiếng
Phật
mở
cửa
tháp
Đa
bảo
hay
2
tiếng
dằng
hắng
và
đàn
chỉ
trong
Pháp
hoa.
Âm
thanh
đây
có
lúc
cũng
là
nói,
nhưng
chỉ
như
Phật
nói
"Thiện
lai
tỷ
kheo"
(cách
Phật
truyền
giới;
người
được
nói
với,
nghe,
là
thành
tỷ
kheo).
Âm
thanh
đủ
sắc
thái
mầu
nhiệm
là
âm
thanh
biểu
thị
vô
số
các
pháp
mà
Phật
có
và
muốn
truyền
đạt,
tức
lục
độ,
v/v.
Các
bậc
thượng
căn
nghe
âm
thanh
này
là
nghe
ra
và
có
được
các
pháp
ấy.
Thuyết
pháp
và
nghe
pháp
như
vậy
là
thanh
trần
thuyết
pháp.
Sau
ánh
sáng
và
âm
thanh,
Phật
nói,
chỉ
là
nói
lại
những
gì
2
thứ
ấy
biểu
thị,
và
nói
cho
những
ai
phải
hiểu
bằng
lời
nói.
Lời
nói
cũng
là
thanh
trần,
nhưng
sau
âm
thanh
nhiều
lắm,
đến
nỗi
văn
thân,
danh
thân
và
cú
thân
thì
đã
là
bất
tương
ưng
hành
pháp.
Ghi
Chú
(12)
Ánh
sáng
và
âm
thanh
mà
Phật
phóng
xuất
là
vài
thần
lực
của
ngài,
có
tác
dụng
vừa
biểu
thị
các
pháp
mà
ngài
muốn
truyền
đạt,
vừa
làm
cho
những
người
có
cơ
duyên
đến
dự
pháp
hội
Phật
tuyên
thuyết
về
các
pháp
ấy
-
tức
kinh
này
đây.
Ghi
Chú
(13)
Phi
phi
tưởng
là
Phi
tưởng
phi
phi
tưởng,
nhưng
gọi
tắt
là
Phi
phi
tưởng
lại
chỉnh
hơn.
Ghi
Chú
(14)
Kinh
này
hay
dùng
chữ
đại
sĩ
đễ
gọi
đức
Địa
tạng.
Bản
dịch
này
dùng
toàn
chữ
này
thay
hết
những
chữ
khác
nữa
đã
gọi
ngài.
Và
chỉ
ngài
mới
gọi
bằng
chữ
đại
sĩ.
Ghi
Chú
(15)
Tám
bộ
thiên
long
là
8
bộ
loại:
1.
Thiên:
chư
thiên,
2.
Long:
chúa
thủy
tộc,
3.
Dạ
xoa:
quỉ
thần
phi
hành
không
gian,
4.
Càn
thát
bà:
nhạc
thần
tấu
nhạc
thế
tục
của
Đế
thích,
5.
A
tu
la:
thần
hay
chiến
đấu
với
Đế
thích,
6.
Ca
lâu
la:
thần
kim
sí
điểu,
7.
Khẩn
na
la:
ca
thần
tấu
nhạc
chánh
pháp
của
Đế
thích,
8.
Ma
hầu
la
dà:
thần
địa
long.
Tám
bộ
thiên
long
cũng
gọi
là
8
bộ,
8
bộ
long
thần,
thiên
long
quỉ
thần.
Tám
bộ
này
khác
8
bộ
quỉ
chúng
của
4
Thiên
vương
thống
lãnh.
Trong
8
bộ,
thiên
và
long
linh
nhất
nên
hay
gọi
là
8
bộ
thiên
long.
Lại
nữa,
8
bộ
thiên
long
thường
kèm
theo
từ
ngữ
ờnhân
phi
nhânở,
có
nghĩa
tất
cả
8
bộ
khi
đến
Phật
thì
hiện
thân
người,
nhưng
gốc
của
họ
không
phải
loài
người,
nên
gọi
là
nhân
phi
nhân
(người
không
phải
người).
Trường
hợp
nhân
phi
nhân
có
nghĩa
nhân
loại
và
loài
khác,
thì
từ
ngữ
này
cũng
hay
đi
sau
từ
ngữ
8
bộ
thiên
long,
nhưng
loài
khác
là
8
bộ
thiên
long
(và
8
bộ
quỉ
chúng).
Ghi
Chú
(16)
Thì
gian
lâu
dài,
chính
văn
là
vĩnh.
Vĩnh
nghĩa
là
vĩnh
viễn,
lâu
dài,
rất
lâu.
Kinh
này
phần
nhiều
là
2
nghĩa
sau.
Ghi
Chú
(17)
Sáu
đường
(lục
đạo)
là
địa
ngục,
quỉ,
súc
sinh
(thường
gọi
là
3
đường
dữ)
và
trời,
người,
a
tu
la
(trời
và
người
thường
gọi
là
đường
lành).
Sáu
đường
có
khi
thu
lại
5
đường
(ngũ
đạo)
thì
a
tu
la
gồm
vào
trong
quỉ
và
trời.
Đường,
chính
văn
là
đạo,
có
nghĩa
những
nẻo
đường
chúng
sinh
qua
lại
lên
xuống;
cũng
gọi
là
thú,
có
nghĩa
những
hướng
chúng
sinh
đi
mau
đến.
Do
đó,
6
đường
có
khi
cũng
dịch
6
loài.
Ghi
Chú
(18)
Trăm
triệu,
chính
văn
là
na
do
tha,
ngài
La
thập
dịch
là
cai,
ngài
Khuy
cơ
giải
là
trăm
triệu
(Vạn
52/447B).
Ghi
Chú
(19)
Đọc
thấy
như
thế
này
đừng
nghĩ
thành
Phật
rồi
không
còn
độ
sinh
nữa.
Trái
lại.
Thành
Phật
là
để
độ
sinh,
và
độ
sinh
mới
nhiều
hơn.
Nên
chính
đức
Địa
tạng
cũng
hiện
thân
Phật
mà
độ
sinh
(Chính
13/725).
Như
vậy,
nói
như
trên
đây
về
đại
nguyện
của
đức
Địa
tạng
chỉ
là
đề
cao
một
đại
nguyện
đặc
biệt
của
một
vị
đại
sĩ
độc
đáo.
Những
cách
nói
sau
này
cũng
vậy.
Ghi
Chú
(20)
Kiếp
vô
số
là
a
tăng
kỳ
tiếp.
A
tăng
kỳ
là
vô
số
(1
trong
các
số
rất
lớn).
A
tăng
kỳ
kiếp
là
thời
kỳ
dài
vô
số.
Ghi
Chú
(21)
Giáo
pháp
tương
tự,
chính
văn
là
tượng
pháp.
Sự
tồn
tại
của
giáo
pháp
Phật
có
3
thời
kỳ:
thời
kỳ
giáo
pháp
nguyên
chất
(chánh
pháp,
có
sự
giải
thoát
kiên
cố),
thời
kỳ
giáo
tương
tự
(tượng
pháp,
có
sự
thiền
định
kiên
cố)
và
thời
kỳ
giáo
pháp
cuối
cùng
(mạt
pháp,
chỉ
có
sự
đấu
tranh
kiên
cố).
Hiện
nay
là
thời
kỳ
giáo
pháp
cuối
cùng
của
đức
Bổn
sư.
Ghi
Chú
(22)
Nghiệp
thức,
chính
văn
là
hồn
thần,
1
chữ
có
vẻ
cố
ý
dùng
cho
phổ
thông.
Nhưng
chữ
ấy
có
những
ý
tưởng
trái
với
Phật
pháp.
Chữ
ấy
đúng
ra
phải
nói
là
nghiệp
thức,
tức
di
thục
thức
trong
Duy
thức
học
hay
thức
và
hữu
trong
12
duyên
khởi,
là
trung
hữu
trong
4
hữu,
nên
phải
đổi
lại
cho
xác.
Nghiệp
thức
là
thức
đã
huân
tập
nghiệp
một
cách
thành
thục,
nên
ngay
hiện
tại
mà
đã
hình
thành
nghiệp
quả
vị
lai:
đang
là
con
người
mà
đã
thấy
sẽ
là
ông
trời
hay
con
vật
(nghiệp
quả
vị
lai
ấy
là
sinh
trong
12
duyên
khởi).
Ghi
Chú
(23)
Diêm
phù,
nói
giản
dị,
là
thế
giới
loài
người
chúng
ta
đây.
Ghi
Chú
(24)
Nhân
tố
thánh
thiện,
hay
nhân
tố
thánh
thiện
và
thượng
đẳng,
là
dịch
những
chữ
thiện
nhân,
thánh
nhân,
thánh
phần,
thánh
sự,
thiện
sự,
thiện
duyên,
thánh
thượng
nhân.
Những
chữ
này,
ở
kinh
này,
dầu
gồm
có
chữ
thánh
cũng
vẫn
chưa
phải
chỉ
cho
nhân
tố
vô
lâểu,
mà
chỉ
là
những
việc
thiện
kinh
này
đề
ra,
quan
trọng
là
niệm
Phật,
trì
kinh
này,
bố
thí
hiến
cúng,
không
sát
sinh
...
Việc
thiện
như
vậy
là
nhân
tố
sinh
nhân
thiên.
Và
sẽ
trở
thành
nhân
tố
vô
lậu
nếu
biết
hồi
hướng
cho
chúng
sinh,
nghĩa
là
làm
cho
nhân
tố
thánh
thiện
vượt
lên
(siêu
thánh
nhân)
như
kinh
này
dạy
rõ.
Ghi
Chú
(25)
Toàn
là
địa
ngục,
chính
văn
là
thị
giai
địa
ngục,
thị,
có
bản
chép
đại:
sai.
Ghi
Chú
(26)
Tuệ
giác
vô
thượng,
chính
văn
là
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề,
dịch
ý
là
vô
thượng
chánh
đẳng
giác:
tuệ
giác
biết
đúng,
biết
khắp
và
biết
hơn
hết.
Tuệ
giác
ấy
là
của
Phật,
và
được
gọi
tắt
là
vô
thượng
bồ
đề
(tuệ
giác
vô
thượng).
Ghi
Chú
(27)
Phân
hóa
thân
hình
ra
cả
ngàn
trăm
ức
là,
theo
kinh
Phạn
võng
(Chính
24/997),
Phật
từ
bản
thân
phân
hóa
một
ngàn
thân,
một
ngàn
thân
này
mỗi
thân
phân
hóa
một
trăm
ức
thân
nữa.
Như
vậy
ngàn
trăm
ức
nghĩa
là
một
ngàn
và
một
ngàn
lần
trăm
ức.
Thân
Phật
trong
lịch
sử
loài
người
là
1
trong
số
một
ngàn
lần
trăm
ức.
Nhưng
một
ngàn
và
một
ngàn
lần
trăm
ức
như
vậy
chỉ
là
nói
Phật
phân
hóa
thân
Phật,
chưa
nói
Phật
phân
hóa
thân
khác
và
phân
hóa
cảnh
vật
-
là
2
sự
phân
hóa
mà
kinh
Địa
tạng
này
kể
ra
một
số
ở
dưới.
Phật
nói
chính
ta
cũng
phân
hóa
thân
hình
ra
cả
ngàn
trăm
ức,
Phật
ấy,
đối
với
chúng
ta
thì
chỉ
là
một
trong
số
một
ngàn
lần
trăm
ức,
nhưng
đối
với
đức
Địa
tạng
thì
ít
nhất
cũng
là
bản
thân
đã
phân
hóa
ra
ngàn
trăm
ức
thân
hình
(như
Phạn
võng
nói)
lại
phân
hóa
thân
khác
và
phân
hóa
cảnh
vật
(như
một
phần
nữa
của
kinh
này
nói).
Ghi
Chú
(28)
Bản
in
năm
2514
(1970)
tôi
đã
chuyển
văn
một
chút
mà
dịch:
Hoặc
hiện
sông
núi,
bình
nguyên,
ao
hồ,
suối
giếng,
lợi
ích
tất
cả,
toàn
là
tác
dụng
hóa
độ.
Nay
trích
ra
đây
để
làm
cho
câu
này
rõ
nghĩa
hơn.
Về
chữ
bình
nguyên,
chính
văn
là
nguyên,
không
nên
cố
hiểu
như
có
bộ
thủy
rồi
dịch
là
suối
nguồn.
Ghi
Chú
(29)
Dịch
sát:
...
thì
đại
sĩ
hãy
nhớ,
tại
cung
trời
Đao
lợi
này
ta
đã
thiết
tha
ký
thác,
mà
làm
cho
chúng
sinh
thế
giới
hệ
Sa
bà
trong
quãng
từ
nay
đến
ngày
Di
lạc
từ
tôn
xuất
thế,
đều
được
giải
thoát,
xa
hẳn
mọi
sự
thống
khổ,
gặp
Phật
thọ
ký
cho.
- Ghi
Chú
(30)
Đức
Phật
của
mình,
chính
văn
là
kỳ
Phật.
Chữ
kỳ
Phật
ấy
là
chữ
duy
nhất
và
rất
đúng.
Trong
phần
dẫn
nhập,
phẩm
1
đã
nói
thần
lực
tại
cung
Đao
lợi
có
1
phần
không
nói
mà
thấy
rất
rõ,
đó
là
biến
cung
Đao
lợi
vốn
rất
lớn
và
trang
nghiêm
càng
lớn
và
trang
nghiêm
vô
tận,
trường
hợp
như
Bồ
đề
tràng
trong
Hoa
nghiêm.
Đến
phẩm
này,
khi
nói
"đức
Thế
tôn
đưa
cánh
tay
vàng
xoa
trên
đỉnh
đầu
hết
thảy
thân
hình
của
Địa
tạng
đại
sĩ
đã
phân
hóa
tại
các
thế
giới
hệ
nhiều
đến
vô
số
con
số
vô
số".
Nói
như
vậy
mà
không
thêm
ít
nhất
là
mấy
chữ
"bằng
thần
lực"
vào
trước
hay
sau
mấy
chữ
đức
Thế
tôn,
nhưng
ta
vẫn
thấy
thần
lực
ấy
rất
rõ.
Đó
là
nói
về
Phật.
Còn
đức
Địa
tạng
thì
nội
một
việc
phân
thân
cũng
đã
thấy
ngài
là
vị
pháp
thân
đại
sĩ.
Nên
đức
Phật
của
ngài,
như
trên,
không
phải
chỉ
là
đức
Phật
chúng
sinh
thấy
được.
- Ghi
Chú
(31)
- Năm
nghiệp
dữ
trong
đoạn
này
nói,
xét
ra
chính
là
5
thứ
mà
các
phẩm
sau
gọi
là
5
tội
sa
vào
vô
gián
ngục,
mặc
dầu
trong
chi
tiết
thì
nói
cho
người
xuất
gia
nhiều
hơn.
Trong
đoạn
này
chính
văn
có
câu
"thiên
vạn
ức
kiếp"
cần
phải
nói
đến.
Câu
này
không
phải
chỉ
có
trong
đoạn
này,
mà
kinh
này
còn
nhiều
chỗ
nữa
cũng
nói
và
có
khi
nói
khác
một
chút.
Câu
này
theo
văn
tự
thường
và
thường
hiểu
là
ngàn
vạn
ức
kiếp.
Ý
nghĩa
câu
này
thì
ngoại
trừ
nói
tổng
quát,
khoa
dụ
hay
cảnh
cáo,
nói
để
biểu
thị
sự
tối
đa,
còn
có
chỗ
như
đoạn
này
lại
có
ý
nói
đến
đại
kiếp.
Nhưng
sự
sống
lâu
tại
vô
gián
ngục,
theo
2
ngài
Khuy
cơ
và
Cát
tạng
là
các
vị
đáng
học
nhất,
khi
giải
thích
Pháp
hoa
(phẩm
Thí
dụ)
nói
"nhập
a
tỳ
ngục,
cụ
túc
nhất
kiếp"
(Chính
9/15)
thì
kiếp
ấy
là
tiểu
kiếp
(tiểu
kiếp
của
ngài
La
thập
dịch
là
trung
kiếp
của
ngài
Huyền
tráng
dịch).
Tham
chiếu
Vạn
42/401B
và
Vạn
52/410B
và
411A.
Do
vậy,
"thiên
vạn
ức
kiếp"
phải
dịch
một
kiếp
ngàn
vạn
ức
năm
(và
ức
kiếp
nên
dịch
một
kiếp
có
ức
năm
...).
-
- Ghi
Chú
(32)
- Năm
sự
ấy
nói
ngay
ở
dưới.
Nhưng
nói
tắt
và
xác
hơn
thì
cái
tên
vô
gián
ngoài
cái
nghĩa
của
luận
Câu
xá
nói
chịu
khổ
một
cách
không
có
sự
tạm
ngừng
hay
không
có
sự
vui
xen
vào,
còn
có
cái
nghĩa
của
luận
Thành
thật
nói
đọa
vào
vô
gián
ngục
thì
không
có
đời
nào
hay
sát
na
nào
xen
cách
vào.
Nghĩa
là
đời
này
chết
là
đời
sau
đọa
liền,
không
có
đời
nào
xen
cách;
hơn
nữa,
sát
na
này
chết
là
sát
na
sau
đọa
liền,
không
có
sát
na
nào
xen
cách.
Học
lý
này
cho
thấy
đọa
vô
gián
ngục
nặng
ở
chỗ
không
có
cái
thì
gian
49
ngày
để
có
thể
làm
phước
cứu
vớt
hiệu
quả
hơn.
-
- Ghi
Chú
(33)
- Dịch
sát:
mọi
Khương,
rợ
Hồ,
các
sắc
tộc
phương
đông
và
các
sắc
tộc
phương
bắc.
Tức
là
chỉ
nói
về
mọi
rợ.
Nhưng
ý
thì
ở
đây
rõ
ràng
phải
nói
cả
mọi
rợ
và
văn
minh.
-
- Ghi
Chú
(34)
- Đã
sẩy
vào
trong
dòng
nước
có
lưới
rồi,
thì
dẫu
có
lúc
tạm
thoát
ra
khỏi
lưới
đi
nữa,
chính
văn
là
thoát
nhập
tạm
xuất
(sẩy
vào
tạm
thoát).
Chữ
sẩy
khá
giống
từ
ngữ
bất
giác
vọng
động.
Không
bản
chính
nào
chép
thoát
hoặc
tạm
xuất
(thảng
hoặc
tạm
thoát).
Với
ví
dụ
này,
kinh
này
nói
giải
thoát
có
2:
thoát
đường
dữ
(thoát
lưới)
và
thoát
cả
5
đường
luân
hồi
(thoát
dòng
nước).
Đó
là
nói
về
quả.
Nói
về
nhân
thì
ví
dụ
này
cho
thấy
giải
thoát
là
thoát
thức
tánh
bất
định
(thoát
dòng
nước)
và
thoát
hoàn
cảnh
chi
phối
(thoát
lưới);
hoặc
cạn
hơn,
giải
thoát
là
thoát
nghiệp
dữ
(thoát
lưới)
và
thoát
hoàn
cảnh
chi
phối
(thoát
dòng
nước).
Như
vậy
sự
giải
thoát
kinh
này
tuy
có
2:
có
sự
thoát
tạm
và
có
sự
thoát
hẳn;
nhưng
sự
thoát
tạm
(thoát
lưới:
thoát
nghiệp
dữ
và
đường
dữ
địa
ngục)
là
cần
kíp
nhất
và
kinh
này
rất
quan
tâm.
-
- Ghi
Chú
(35)
- Đàn
chỉ,
thường
cắt
nghĩa
là
gảy
móng
tay,
có
nghĩa
móng
tay
này
gảy
móng
tay
khác.
Nhưng
xét
ra
có
lúc
và
có
chỗ
không
ổn.
Đàn
là
đánh,
gõ,
gảy;
chỉ
là
ngón
tay,
không
phải
móng
tay.
Như
vậy
đàn
chỉ
là
đánh
hay
gõ
ngón
tay
vào
vật
khác
(như
gõ
cửa)
hay
có
nơi
dùng
8
ngón
tay
của
2
bàn
tay
đánh
vào
nhau
(gần
như
vỗ
tay).
Đàn
chỉ
như
vậy
thì
đúng
nhu
cầu
của
Tăng
luật.
Còn
đàn
chỉ
theo
nghĩa
tốc
độ
(như
kinh
này
nói
ở
đây)
thì
cắt
nghĩa
thế
nào
cũng
được.
-
- Ghi
Chú
(36)
- Y
phục
ở
đây
là
vải
lụa
gấm
vóc
dùng
làm
khăn,
đãy
và
hộp
mà
che
phủ
chứa
đựng.
-
- Ghi
Chú
(37)
- Chính
văn
đủ
thì
có
3:
tước,
cáp
(bồ
câu)
và
uyên
ương.
Riêng
tước,
thường
nói
là
chim
sẻ,
nhưng
Địa
tạng
khoa
chú
(Vạn
35/264A)
nói
là
khổng
tước
(con
công)
:
loại
chim
dâm
bậy
nhất.
-
- Ghi
Chú
(38)
- Kiến
thức
sai
lầm,
chính
văn
là
tà
kiến,
cốt
yếu
chỉ
cho
các
chủ
thuyết
phủ
nhận
nguyên
lý
nhân
quả,
nhất
là
nguyên
lý
nhân
quả
về
thiện
ác
và
nghiệp
báo.
Tà
kiến
là
ác
kiến:
kiến
thức
độc
hại.
Chỗ
không
có
Phật
pháp,
chính
văn
là
biên
địa:
những
địa
phương
biên
thùy,
nói
rộng
ra
là
những
nơi
không
có
Phật
giáo
hay
tư
tưởng
Phật
giáo.
Tuy
nhiên,
tà
kiến
và
quả
báo
tà
kiến
như
thế
này
chưa
đủ
để
diễn
tả
những
chủ
thuyết
độc
hại
nhân
loại
hiện
nay.
-
- Ghi
Chú
(39)
- Khổ
báo
hay
phước
báo
đều
có
3
giai
đoạn.
Ba
giai
đoạn
của
khổ
báo:
giai
đoạn
chịu
trước,
chịu
ngay
trong
đời
này
hay
đời
kế
tiếp;
giai
đoạn
chính
thức,
chịu
ngay
trong
đời
kế
tiếp
hay
các
đời
sau
(trừ
trường
hợp
sinh
thân
đọa
địa
ngục);
giai
đoạn
còn
thừa,
chịu
trong
các
đời
sau.
Xét
những
quả
khổ
được
nói
trong
đoạn
kinh
này
thì
thấy
phần
nhiều
giai
đoạn
chịu
trước,
cũng
có
thứ
là
giai
đoạn
còn
thừa.
Hai
giai
đoạn
này
hay
giống
nhau,
và
phần
nhiều
chịu
trong
loài
người,
còn
giai
đoạn
chính
thức
thì
toàn
đọa
3
đường
dữ
mà
khổ
nhất
là
địa
ngục.
-
- Ghi
Chú
(40)
- Bốn
chúng
là
tỷ
kheo,
tỷ
kheo
ni,
ưu
bà
tắc,
ưu
bà
di.
Bốn
chúng
còn
là
người
(4
chúng
trên),
trời,
rồng
và
thần
(tức
8
bộ).
Lại
có
pháp
số
4
chúng
nữa
tuy
không
chính
thức
mà
rất
đáng
chú
ý.
Là
với
một
pháp
thoại
của
Phật
có
1.
người
phát
khởi:
người
khơi
động
để
Phật
nói,
2.
người
đương
cơ:
những
người
đối
tượng
của
pháp
Phật
nói,
3.
người
ảnh
hưởng:
những
người
làm
trang
trọng
cho
cuộc
nói
pháp
ấy,
4.
người
kết
duyên:
những
người
kết
duyên
lành
với
pháp
ấy
để
tương
lai
chứng
ngộ.
-
- Ghi
Chu
(41)
- Dịch
sát:
không
bằng
lòng
chịu
thay.
Nhưng
nghĩa
chính
là
bằng
lòng
chịu
thay
cũng
không
được.
-
- Ghi
Chú
(42)
- Vì
tôi
biết
từ
lâu,
chính
văn
là
ngô
dĩ
cửu
tri.
Chữ
dĩ
ở
đây
là
vì,
không
phải
chữ
dĩ
là
đã
như
bản
khác
chép.
Chép
dĩ
là
đã
thì
thừa
và
non.
-
- Ghi
Chú
(43)
- Viên
sắt
có
cạnh
sắc
gai
nhọn,
chính
văn
là
tật
lê.
Tật
lê
phải
viết
bộ
thảo,
không
phải
bộ
kim.
Tật
lê
là
vũ
khí
bằng
sắt,
làm
giống
trái
tật
lê,
thứ
trái
có
3
cạnh
4
gai,
tức
là
có
nhiều
cạnh
sắc
gai
nhọn.
Vũ
khí
này
mắc
vào
một
đầu
giây
xích.
Người
sử
dụng
móc
tay
vào
đầu
dây
xích
còn
lại,
rồi
cánh
tay
giật
tới
giật
lui
với
một
tốc
độ
mau
và
mạnh,
vũ
khí
tật
lê
vung
tới
vung
lui
làm
cho
nạn
nhân
khó
né
tránh
cho
khỏi.
Vũ
khí
người
học
võ
còn
có
cái
gọi
là
tật
lê
chùy,
quân
khí
cũng
có
thứ
gọi
là
thiết
tật
lê.
-
- Ghi
Chú
(44)
- Lược
bớt
chữ
nhân
phi
nhân,
chỉ
để
ngắn
gọn
mà
thôi.
-
- Ghi
Chú
(45)
- Đem
lại
lợi
ích
trong
nhân
loại
và
chư
thiên,
chính
văn
là
lợi
ích
nhân
thiên.
chính
văn
ấy
tuy
cũng
có
thể
hiểu
và
dịch
là
lợi
ích
cho
nhân
loại
và
chư
thiên,
nhưng
không
chính
xác
với
việc
và
ý
bằng
sự
hiểu
và
dịch
như
đã
dịch.
Dịch
như
đã
dịch,
có
nghĩa
là
đem
lại
sự
yên
vui
tuyệt
diệu
(thắng
diệu
lạc
mà
ở
đây
gọi
là
lợi
ích)
cho
nhân
thiên
và
mọi
loài
(chính
văn
gọi
là
6
đường
chúng
sinh).
Thắng
diệu
lạc
hay
lợi
ích
như
vậy
tuy
còn
siêu
việt
lên
nữa
chứ
không
phải
chỉ
có
ở
trong
phạm
vi
nhân
thiên,
nhưng
phần
chính
vẫn
là
ở
trong
phạm
vi
ấy,
nên
gọi
là
"đem
lại
lợi
ích
trong
nhân
loại
và
chư
thiên".
-
- Ghi
Chú
(46)
- Y
phục
gấm
lụa:
coi
lại
chú
thích
36
.
-
- Ghi
Chú
(47)
- Không
mọi
bịnh
hoạn,
chính
văn
là
vô
chư
tật
bịnh.
Có
bản
chép
thiếu
4
chữ
này
:
sai.
-
- Ghi
Chú
(48)
- Diễn
tấu
nhạc
khí,
chính
văn
là
tác
chư
kyՠnhạc.
Câu
này
có
chỗ
còn
là
biểu
diễn
kịch
nghệ
và
hòa
tấu
nhạc
khí.
Dĩ
nhiên
kyՍ
nhạc
ở
đây
là
kyՠnhạc
Phật
giáo.
Riêng
chữ
kyՠphải
viết
bộ
thủ
hay
bộ
nhân,
nghĩa
là
kyՠthuật
diễn
tấu;
không
phải
viết
bộ
nữ,
có
nghĩa
là
kyՠnữ.
-
- Ghi
Chú
(49)
- Lắm
sự
kinh
hãi,
chính
văn
là
yểm
mị.
Mị
là
ngủ
say.
Yểm
là
bóng
đè,
ma
đè,
ác
mộng,
nói
chung
là
những
sự
làm
kinh
hãi.
-
- Ghi
Chú
(50)
- Năm
tội
sa
vào
vô
gián
ngục,
chính
văn
là
ngũ
vô
gián
tội,
còn
được
dịch
là
5
nghiệp
dữ
vô
gián
hay
dịch
tắt
hơn:
5
tội
vô
gián.
Dịch
thật
rõ
thì
ngũ
vô
gián
tội
là
5
tội
sa
vào
địa
ngục
có
5
sự
không
xen
cách.
Năm
tội
hay
nghiệp
dữ
ấy,
ở
kinh
này,
là
tội
đã
nói
trong
phẩm
3
(coi
lại
chú
thích
31).
-
- Ghi
Chú
(51)
- Cử
động,
chính
văn
là
cử
chỉ,
dịch
đúng
và
đủ
thì
phải
là
hoạt
động
(cử)
và
đình
chỉ
(chỉ),
có
nghĩa
làm
hay
ngưng
gì
của
chúng
ta
cũng
là
tội
lỗi
nếu
làm
hay
ngưng
với
dụng
ý
và
hậu
quả
xấu.
-
- Ghi
Chú
(52)
- Một
câu
đủ
nghĩa,
chính
văn
và
nhất
cú.
Nhất
cú
không
phải
là
1
câu,
mà
là
1
câu
đủ
nghĩa,
như
nói
các
pháp
vô
thường,
chúng
sinh
có
giác
tánh,
v/v.
Còn
1
bài
chỉnh
cú,
chính
văn
là
nhất
kệ.
Kệ,
mà
dịch
ý
là
tụng,
có
2
loại
chung
và
riêng.
Loại
riêng
là
thể
văn
chỉnh
cú,
4
câu
làm
1
kệ,
mỗi
câu
có
3
đến
8
chữ.
Loại
chung
là
lối
tính
tổng
số
chữ
:
bất
cứ
thể
văn
chỉnh
cú
hay
thể
văn
trường
hàng,
cứ
đếm
8
chữ
làm
1
câu,
4
câu
làm
1
kệ,
và
mấy
kệ
là
tổng
số
chữ
của
mỗi
kinh
luận.
Nhất
kệ
(1
bài
chỉnh
cú)
là
chỉ
cho
cả
2
loại
kệ
ấy:
chỉ
cho
bất
cứ
4
câu
liên
tiếp
nào
thuộc
thể
văn
chỉnh
cú,
hay
chỉ
cho
bất
cứ
32
chữ
liên
tiếp
nào
trong
tổng
số
chữ.
-
- Ghi
Chú
(53)
- Phan
cái,
cái
ở
đây
không
phải
lọng,
dù,
mà
là
bảo
cái.
Phan
cái
là
bảo
cái
có
mắc
tràng
phan.
-
- Ghi
Chú
(54)
- Ngay
sau
khi
mới
chết,
chính
văn
là
lai
thế.
Lai
thế
là
đời
sau.
Nói
người
sắp
chết
hay
chết
rồi
mà
đời
sau
họ
có
nhân
lành
làm
cho
đời
sau
ấy
sinh
nhân
thiên
thì
vô
lý,
nên
có
người
đổi
chữ
lai
thế
mà
dịch
là
đời
trước:
đời
trước
hay
đời
này
họ
có
nhân
lành
để
đời
sau
họ
sinh
nhân
thiên.
Nhưng
sự
việc
ở
đây
là
ngay
sau
khi
mới
chết,
nhất
là
49
ngày
sau
đó,
thì
gian
này
cũng
thuộc
về
lai
thế
(đời
sau)
nhưng
chỉ
mở
đầu
lai
thế
ấy
mà
thôi.
Và
thì
gian
này
người
chết
có
thể
có
nhân
lành
do
người
khác
làm
cho:
đó
là
điều
kinh
này
khuyến
khích
và
mới
nói
ở
đoạn
trên
và
trong
nhiều
chỗ
khác.
Người
khác
làm
cho,
người
khác
ấy
là
một
phần
thân
nhân
biết
Phật
pháp,
là
bạn
tốt.
Không
những
người
khác
làm
cho,
mà
tự
người
chết,
ngay
sau
khi
mới
chết,
cũng
có
thể
có
nhân
lành,
như
phẩm
13
nói,
"...
kẻ
nào
tùy
theo
nghiệp
dữ
mà
sa
vào
đường
dữ,
khi
sắp
vào
đó
hay
đã
đến
ngay
đầu
cửa
rồi,
kẻ
ấy
niệm
được
một
danh
hiệu
Phật
đà,
một
danh
hiệu
Bồ
tát,
hoặc
nhớ
được
1
câu
đủ
nghĩa
hay
4
câu
chỉnh
cú
của
kinh
điển
đại
thừa
..."
Như
vậy,
ngay
sau
khi
mới
chết
(cũng
là
lai
thế
mà
chính
văn
nói),
người
chết
vẫn
có
nhân
lành
do
được
làm
cho
hay
tự
làm
lấy
và
nhân
lành
đó
rất
quan
trọng
đối
với
đời
sau
(lai
thế)
của
người
chết.
-
- Ghi
Chú
(55)
- Sát
chính
văn
thì
đoạn
này
phải
dịch:...
để
cứu
giúp
họ,
thì
thọ
trai
chưa
xong
hay
lúc
sắp
đặt
trai
soạn,
nước
gạo
lá
rau
đừng
đổ
nơi
đất;
cho
đến
trai
soạn
chưa
hiến
cúng
Phật
Tăng
thì
đừng
ăn
trước
...
Dịch
sát
như
vậy
thì
vị
trí
mấy
chữ
"thọ
trai
chưa
xong"
không
ổn.
Nên
phải
chuyển
văn
mà
dịch
như
đã
dịch.
Thêm
nữa,
xét
những
chữ
tinh
khiết,
sạch
sẽ,
cẩn
trọng,
giữ
gìn
sạch
sẽ
ở
dưới,
thì
đoạn
này
đáng
lẽ
nên
hiểu
và
dịch
"lúc
sắp
đặt
trai
soạn
thì
gạo
nước
rau
lá
đừng
để
dưới
đất".
Nay
không
dịch
như
vậy
nhưng
vẫn
phải
hiểu
và
làm
như
vậy.
Tức
là
đồ
thải
ra
không
đổ
xuống
đất,
mà
đồ
chưa
làm
hay
đang
làm
không
nên
để
dưới
đất,
dưới
chỗ
ngồi.
-
- Ghi
Chú
(55b)
- Điều
này,
và
cọng
với
trước
đây,
cho
thấy
kinh
Địa
tạng
đề
cao
niệm
Phật,
không
sát
sinh,
chu
cấp
người
già
người
bịnh
và
sản
phụ.
Đó
là
sự
đặc
thù
của
kinh
này
về
quan
niệm
phước
đức.
-
- Ghi
Chú
(56)
- Khám
thất
là
cái
nhà
làm
theo
hình
cái
khám
thờ,
tức
như
đền,
miếu
...
Nếu
tách
ra
thì
khám
là
khám
thờ,
thất
là
đền
miếu
thờ.
-
- Ghi
Chú
(57)
- Cung
điện,
như
của
chư
thiên
mà
thôi
cũng
đã
có
ánh
sáng
và
di
chuyển
theo
thân
(cũng
có
ánh
sáng).
-
- Ghi
Chú
(58)
- Đoạn
này
dịch
như
vậy
là
đối
chiếu
kyՠvới
chữ
và
việc
dưới
đây,
nhất
là
sau
đây.
Dịch
như
vậy
có
nghĩa
sự
đem
lại
lợi
ích
trong
nhân
loại
và
chư
thiên
chính
là
sự
bất
khả
tư
nghị,
và
sự
làm
cho
nhân
tố
thánh
thiện
ấy
siêu
việt
lên
chính
là
sự
chứng
được
thập
địa.
Nên
4
sự
mà
thực
ra
chỉ
có
2:
sự
ích
lợi
bất
khả
tư
nghị,
sự
này
là
nhân
tố
thánh
thiện;
sự
làm
cho
nhân
tố
thánh
thiện
ấy
siêu
việt
lên
để
chứng
được
thập
địa.
Hai
sự
như
thế
này
tức
như
Phật
dạy
về
sự
bố
thí
và
dạy
cách
hồi
hướng
sự
bố
thí
ấy.
Cả
2
sự
này
có
cái
căn
bản
và
cứu
cánh
là
vô
thượng
bồ
đề.
Rốt
lại,
sự
ích
lợi
bất
khả
tư
nghị
là
chính
yếu,
trong
đó
bao
gồm
sự
biến
thành
nhân
tố
chứng
được
thập
địa
và
không
thoái
chuyển
vô
thượng
bồ
đề.
Chính
sự
diễn
dịch
qui
nạp
này
cho
thấy
tại
sao
ở
đây
liệt
ra
5
sự
mà
sau
đây
thì
nói
toàn
là
những
sự
ích
lợi
bất
khả
tư
nghị.
Nếu
không
làm
như
vậy
mà
chỉ
dịch
lấy
có
thì
là
"sự
ích
lợi
nhân
thiên,
sự
bất
khả
tư
nghị,
sự
siêu
việt
nhân
tố
thánh
thiện
lên
(không
phải
siêu
việt
lên
trên
nhân
tố
thánh
thiện),
sự
chứng
thập
địa,
sự
cứu
cánh
không
thoái
chuyển
vô
thượng
bồ
đề".
-
- Ghi
Chú
(59)
- Sát
thì
phải
dịch:
Vừa
rồi
lại
được
đức
Thế
tôn
nói
cho
toàn
thể
đại
chúng
biết
ngài
muốn
tán
dương
sự
lợi
ích
của
đức
Địa
tạng.
Nên
con
thỉnh
cầu
đức
Thế
tôn
vì
hết
thảy
chúng
sinh
trong
hiện
tại
và
vị
lai
mà
tán
dương
sự
bất
khả
tư
nghị
của
đức
Địa
tạng,
làm
cho
8
bộ
thiên
long
chiêm
lễ
được
phước.
Dịch
sát
như
vậy
thì
có
sự
trùng
lặp,
lại
có
sự
ngược
nhau.
Nhưng
vẫn
dịch
sát
ra
đây
để
thấy
sự
ích
lợi
của
đức
Địa
tạng
chính
là
sự
bất
khả
tư
nghị
của
ngài.
Vì
vậy
mà
xuống
ngay
đoạn
dưới,
tự
Phật
nói
rõ
là
sự
lợi
ích
bất
khả
tư
nghị.
-
- Ghi
Chú
(60)
- Chính
văn
là
nhất
chiêm
nhất
lễ,
dịch
sát
là
một
nhìn
một
lạy.
Nhưng
đối
chiếu
với
từ
ngữ
ấy
ở
đoạn
sau
đoạn
này
1
đoạn
thì
thấy
ý
nghĩa
là
chuyên
nhất
trong
sự
chiêm
lễ,
nên
phải
dịch
nhất
tâm
mà
chiêm
ngưỡng
lễ
bái.
-
- Ghi
Chú
(61)
- Chính
văn
là
anh
lạc,
chữ
ấy
có
trường
hợp
là
chuỗi
ngọc,
nhưng
ở
đây
là
vòng
hoa
(dầu
có
thể
là
vòng
hoa
được
làm
bằng
ngọc).
Có
một
bản
dịch
Pháp
hoa
từ
Phạn
tự
cho
thấy
như
vậy.
-
- Ghi
Chú
(62)
- Có
bản
chép
ít
lời
hơn,
theo
đó
thì
dịch:
...
chiêm
bái
hình
tượng
Địa
tạng
đại
sĩ
nên
tức
khắc
tránh
khỏi
đường
dữ;
còn
cha
mẹ
thân
nhân
của
người
ấy
vốn
có
nghiệp
lành
đã
sinh
trong
nhân
loại
hay
chư
thiên
hưởng
sự
yên
vui
tuyệt
diệu,
thì
nhờ
công
đức
trên
mà
tăng
thêm
cho
nhân
tố
thánh
thiện,
sự
yên
vui
họ
đang
hưởng
cũng
tăng
thêm
vô
lượng
...
-
- Ghi
Chú
(63)
- Đoạn
này
tuy
văn
khí
và
văn
ý
thuộc
về
đoạn
trên,
nhưng
rõ
ràng
và
có
thể
tách
ra
làm
1
đoạn
riêng,
mà
là
1
đoạn
quan
trọng
cho
những
người
chuyên
trì
niệm
đức
Địa
tạng.
-
- Ghi
Chu
(64)
- Chỉ
dạy
và
chăm
nom,
chính
văn
là
giáo
thị.
Thị
ở
đây
là
nhìn,
coi
sóc,
chăm
nom,
không
phải
thị
là
chỉ,
chỉ
bày,
chỉ
dạy
(cùng
nghĩa
với
chữ
giáo)
như
bản
khác
chép.
-
- Ghi
Chú
(65)
- Thiện
nam
hay
thiện
nữ
ấy,
chính
văn
là
thiện
nam
nữ.
Nữ,
có
bản
chép
tử:
sai.
-
- Ghi
Chú
(66)
- Tà
dâm
có
thể
tổng
quát
làm
2
phần.
Phần
bản
thân
là
thủ
dâm,
ý
dâm,
cho
dâm.
Phần
với
người
hôn
phối
là
hành
dâm
phi
xứ
(ngoài
phòng
ngủ)
phi
chi
(Ngoài
bộ
phận
sinh
dục)
phi
lượng
(dâm
dục
quá
độ)
và
phi
thời
(lúc
bịnh,
thời
kỳ
mang
thai,
thời
kỳ
con
bú,
lúc
trai
giới,
cầu
nguyện,
ngày
vía).
Cữ
tà
dâm
ở
đây
là
bản
thân
và
phi
thời,
nghĩa
là
cữ
dâm
dục
hoàn
toàn.
Đến
như
tà
dâm
là
ngoại
tình
thì
không
cần
phải
nói.
-
- Ghi
Chú
(67)
- Thính
giác
sắc
bén,
chính
văn
là
lợi
nhĩ
căn
(thính
giác
sắc
bén,
nhĩ
căn
lanh
lợi).
Có
bản
chép
lợi
căn
nhĩ
(thính
giác
thuộc
giác
quan
sắc
bén,
nhĩ
căn
thuộc
lợi
căn).
Nghĩa
như
nhau.
-
- Ghi
Chú
(68)
Ngàn
trăm
ức,
chính
văn
là
thiên
bách
ức,
chép
bách
thiên
ức:
sai.
Coi
chú
thích
27.
--- o0o ---
MỤC
LỤC
I.
Dẫn
Nhập
II.
Ghi
Về Địa Tạng Đại Sĩ
III.
Nghi
Thức Sám Nguyện Đơn Giản Trước Khi Trì Tụng Kinh Địa
Tạng
Phẩm
1 : Thần Thông Tại Cung Đao Lợi
Phẩm
2 : Thân Phân Hóa Qui Tụ Lại
Phẩm
3 : Quán Sát Nghiệp Quả Chúng Sinh
Phẩm
4 : Nghiệp Quả Của Người Diêm Phù
Phẩm
5 : Danh Xưng Địa Ngục
Phẩm
6 : Thế Tôn Tuyên Dương
Phẩm
7 : Lợi Ích Người Còn Kẻ Mất
Phẩm
8 : Chúa Tôi Diêm La Xưng Tụng
Phẩm
9 : Xưng Tụng Danh Hiệu Chư Phật
Phẩm
10 : Trắc Lượng Công Đức Bố Thí
Phẩm
11 : Thần Đất Hộ Trì
Phẩm
12 : Lợi Ích Của Sự Thấy Nghe
Phẩm
13 : Thế Tôn Ký Thác
--- o0o ---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Source
: www.buddhismtoday.com
-o0o-
Trình
bày: Nhị
Tường
Cập
nhật:
01-02-2002