.
中
阿
含
經
SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 1
PHẨM BẢY PHÁP
9. KINH THẤT XA
Tôi nghe như
vầy:
Một thời
Đức
Phật du hóa tại thành Vương xá,
trong tinh xá Trúc lâm,
cùng an cư mùa mưa với chúng
Đại
Tỳ-kheo.
Tôn giả Mãn Từ Tử
cũng an cư mùa mưa tại sinh quán mình. Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo
địa
phương, sau khi đã
trải qua ba tháng an cư mùa mưa,
khâu vá lại các y đã
xong, xếp y, cầm bát từ sinh quán
đi
về phía thành Vương xá. Lần lượt
đi
về phía trước, đến
thành Vương xá, trú ở tinh xá Trúc lâm, tại thành Vương xá.
Bấy giờ các Tỳ-kheo
địa
phương tới trước Đức
Thế Tôn, cúi đầu
lễ bái rồi ngồi sang một bên.
Đức
Thế Tôn hỏi rằng:
“Các
Tỳ-kheo, các ngươi từ
đâu
đến
đây? An cư mùa mưa ở
đâu?”
Các Tỳ-kheo
địa
phương ấy thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, chúng con từ sinh quán tới
đây
và an cư mùa mưa tại sinh quán”.
Thế Tôn hỏi:
“Trong các Tỳ-kheo
địa
phương, Tỳ-kheo nào được
các Tỳ-kheo khen ngợi rằng: ‘Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu
dục, tri túc;
tự mình nhàn cư
và khen ngợi nhàn cư; tự mình tinh tấn và khen ngợi tinh tấn; tự mình
chánh niệm và khen ngợi chánh niệm; tự mình nhất tâm và khen ngợi nhất
tâm; tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ; tự mình lậu tận và khen ngợi
lậu tận; tự mình khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ
và khen ngợi khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ’ chăng?”
Các Tỳ-kheo
địa
phương bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Mãn Từ Tử ở nơi sinh
quán của mình, được
các Tỳ-kheo khen ngợi rằng: ‘Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu
dục tri túc; tự mình nhàn cư và khen ngợi nhàn cư; tự mình tinh tấn và
khen ngợi tinh tấn; tự mình chánh niệm và khen ngợi chánh niệm; tự mình
nhất tâm và khen ngợi nhất tâm; tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ;
tự mình lâu tận và khen ngợi lâu tận; tự mình khuyến phát khát ngưỡng,
thành tựu hoan hỷ và khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan
hỷ’.”
Lúc bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử
đang
ngồi giữa đại
chúng. Tôn giả Xá-lê Tử suy nghĩ như vầy: “Thế Tôn theo sự thật mà hỏi các
Tỳ-kheo địa
phương kia. Các Tỳ-kheo
địa phương vô cùng khen ngợi Hiền giả
Mãn Từ Tử, là người ‘Tự mình thiểu dục, tri túc và khen ngợi thiểu dục,
tri túc; tự mình nhàn cư và khen ngợi nhàn cư; tự mình tinh tấn và khen
ngợi tinh tấn; tự mình chánh niệm và khen ngợi chánh niệm; tự mình nhất
tâm và khen ngợi nhất tâm; tự mình có trí tuệ và khen ngợi trí tuệ; tự
mình lậu tận và khen ngợi lậu tận; tự mình khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu hoan hỷ và khen ngợi khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ’.”
Tôn giả Xá-lê Tử lại suy nghĩ: “Biết lúc nào
tôi mới gặp Hiền giả Mãn Từ Tử
để
hỏi một vài nghĩa lý? Hiền giả ấy hoặc có thể nghe và trả lời những
điều
tôi hỏi”.
Bấy giờ
Đức
Thế Tôn, sau khi trải qua ba tháng an cư mùa mưa ở thành Vương xá, khâu vá
y xong, Ngài xếp y, ôm bát, từ thành Vương xá
đi
đến
nước Xá-vệ, lần lượt tiến về phía trước,
đến
nước Xá-vệ, trú trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô
độc.
Tôn giả
Xá-lê Tử và các Tỳ-kheo
địa
phương cùng ở lại Vương xá vài ngày, rồi xếp y, ôm bát,
đi
đến
nước Xá-vệ, lần lượt tiến về phía trước,
đến
nước Xá -vệ, cùng ở tại rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô
độc.
Lúc bấy giờ Tôn giả Mãn Từ Tử ở tại sinh quán
mình, sau khi đã
trải qua ba tháng an cư mùa mưa,
đã
khâu vá lại các y, rồi xếp y, ôm bát, từ quê quán mình
đi
đến
nước Xá-vệ, lần lượt tiến về phía trước,
đến
nước Xá-vệ, cùng ở trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô
độc.
Tôn giả Mãn Từ Tử
đến
chỗ Thế Tôn, cúi đầu
làm lễ, rồi trải Ni-sư-đàn
phía trước Như Lai mà ngồi kiết già.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử hỏi các Tỳ-kheo
rằng:
“Này chư Hiền, vị nào là Hiền giả Mãn Từ Tử?”
Các Tỳ-kheo bạch Tôn giả Xá-lê Tử:
“Xin thưa, vị ngồi trước Như Lai, trắng trẻo,
mũi cao như mỏ chim Oanh vũ, là vị ấy”.
Tôn giả
Xá-lê Tử
đã biết
đúng
mặt Mãn Từ Tử, liền ghi nhớ kỹ. Tôn giả Mãn Từ Tử sau khi qua
đêm,
trời hừng sáng, xếp y, cầm bát,
đi vào Xá-vệ
để
khất thực. Sau khi
ăn trưa xong lại, thâu dọn y bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn lên vai,
đến
rừng An-đà,
chỗ
đi
kinh hành. Tôn giả Xá-lê Tử cũng sau khi qua
đêm,
trời hừng sáng, xếp y, cầm bát,
đi
vào Xá-vệ
để
khất thực. Sau khi
ăn
trưa xong lại, thâu dọn y bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn
lên vai,
đến
rừng An-đà, chỗ
đi
kinh hành.
Bấy giờ Tôn giả Mãn Từ Tử
đến
rừng An-đà,
trải Ni-sư-đàn
dưới một gốc cây, ngồi kiết già. Tôn giả Xá-lê Tử cũng
đến
rừng An-đà,
cách Tôn giả Mãn Từ Tử không xa, trải Ni-sư-đàn
dưới một gốc cây ngồi kiết già.
Tôn giả Xá-lê Tử vào lúc xế chiều, rời chỗ
thiền tọa, đi
đến
chỗ Mãn Từ Tử, cùng chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên, và hỏi Tôn giả
Mãn Từ Tử rằng:
“Này Hiền giả, phải chăng
Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh?”
Đáp
rằng:
“Đúng
vậy”
“Này Hiền giả, vì lý do gì, có phải vì giới
thanh tịnh
nên ngài theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh chăng?”
Đáp
rằng:
“Thưa, không phải vậy”.
“Vì tâm thanh tịnh,
vì kiến thanh tịnh,
vì nghi thanh tịnh,
vì phi đạo
tri kiến thanh tịnh,
vì đạo
tích tri kiến
thanh tịnh, vì đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh
nên Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh chăng?”
Đáp:
“Không phải vậy”
Lại hỏi:
“Tôi vừa hỏi Hiền giả rằng: ‘Phải chăng
Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh?’ Hiền giả
đáp: ‘Đúng
vậy’. Rồi tôi hỏi Hiền giả: ‘Có phải vì giới thanh tịnh nên Hiền giả theo
Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh chăng?’
thì Hiền giả đáp:
‘Không phải vậy’; ‘Có phải vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi
thanh tịnh, vì phi đạo
tri kiến thanh tịnh, vì
đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh nên Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh chăng?’
thì Hiền giả cũng lại đáp
rằng ‘Không phải vậy’. Nhưng theo ý nghĩa nào
mà Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
tu phạm hạnh?”
Đáp:
“Này Hiền giả, vì Vô dư Niết-bàn vậy”.
Lại hỏi:
“Thế nào, này Hiền giả, có phải vì giới thanh
tịnh nên Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn chăng?”
“Đáp:
“Không phải vậy”.
Lại hỏi:
“Vì vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì
nghi thanh tịnh, vì đạo
phi đạo
tri kiến thanh tịnh, vì
đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh nên Hiền giả theo Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn chăng?”
“Đáp:
“Không phải vậy”.
Lại hỏi:
“Tôi vừa hỏi Hiền giả, ‘Thế nào, này Hiền
giả, có phải vì giới thanh tịnh nên Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn chăng?’
Hiền giả đáp:
‘Không phải vậy’. ‘Vì tâm thanh tịnh, vì kiến thanh tịnh, vì nghi thanh
tịnh, vì đạo
phi đạo
tri kiến thanh tịnh, vì
đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh nên Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn chăng?’
Vậy những điều
Hiền giả nói có ý nghĩa gì? Làm thế nào
để
biết được?”
Đáp
rằng:
“Này Hiền giả: Nếu vì giới thanh tịnh mà Thế
Tôn, Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn, thì
đó
là lấy hữu dư mà gọi vô dư. Nếu vì tâm thanh tịnh, vì tri kiến thanh tịnh,
vì nghi cái thanh tịnh, vì
đạo
phi đạo
tri kiến thanh tịnh, vì
đạo tích tri kiến thanh tịnh, vì
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh mà Đức
Thế Tôn Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn, thì tức là lấy hữu dư mà gọi là vô dư.
“Này Hiền giả, nếu lìa pháp
đó
mà Đức
Thế Tôn thi thiết Vô dư Niết-bàn thì phàm phu cũng sẽ Bát-niết-bàn, bởi vì
phàm phu cũng lìa pháp đó.
“Này Hiền giả, nhưng vì giới thanh tịnh, nên
tâm thanh tịnh; vì tâm thanh tịnh nên kiến thanh tịnh; vì kiến thanh tịnh
nên nghi cái thanh tịnh; vì nghi cái thanh tịnh nên
đạo
phi đạo
tri kiến thanh tịnh; vì
đạo phi
đạo
tri kiến thanh tịnh nên
đạo tích tri kiến thanh tịnh; vì
đạo
tích tri kiến thanh tịnh nên
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh, nên Đức
Thế Tôn Sa-môn Cù-đàm
thi thiết Vô dư Niết-bàn.
“Hiền giả,
xin hãy nghe thêm. Xưa, vua xứ Câu-tát-la là Ba-tư-nặc
ở nước Xá-vệ, có việc ở Sa-kê-đế.
Nhà vua suy nghĩ như vầy: ‘Dùng phương tiện gì
để trong một ngày
đi
từ Xá-vệ
đến
Sa-kê-đế
được?’
Lại suy nghĩ như vầy: ‘Nay ta nên từ Xá-vệ
đến Sa-kê-đế,
ở giữa
đường
đó, bố trí bảy cỗ xe’. Rồi thì, từ Xá-vệ
đến
Sa-kê-đế, ở giữa
đường
đó,
vua bố trí bảy cỗ xe. Bố trí bảy cỗ xe xong, từ Xá-vệ nhà vua
đi
đến cỗ xe thứ nhất, ngồi trên cỗ xe thứ nhất
đi
đến
cỗ xe thứ hai. Rồi bỏ cỗ xe thứ nhất cỡi cỗ xe thứ hai
đến
xe thứ ba; bỏ cỗ xe thứ hai ngồi trên cỗ xe thứ ba
đến
cỗ xe thứ tư; bỏ cỗ xe thứ ba ngồi trên cỗ xe thứ tư
đến
cỗ xe thứ năm;
bỏ cỗ xe thứ tư ngồi trên cỗ xe thứ năm
đến
cỗ xe thứ sáu; bỏ cỗ xe thứ năm
ngồi trên cỗ xe thứ sáu
đến cỗ xe thứ bảy; bỏ cỗ xe thứ sáu ngồi trên cỗ xe thứ bảy; trong một ngày
là đến
Sa-kê-đế.
“Sau khi làm việc xong ở Sa-kê-đế,
ngồi trong chánh điện
của nhà vua, với các đại
thần vây quanh. Quần thần tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, phải chăng
chỉ trong một ngày mà Thiên vương
đi
từ Xá-vệ đến
Sa-kê-đế?
“Vua nói:
Đúng
vậy.
“Tâu Thiên vương, có phải Thiên vương cỡi cỗ
xe thứ nhất mà trong một ngày
đi
từ Xá-vệ đến
Sa-kê-đế?
“Vua nói:
“Không phải vậy.
“Có phải Ngài cỡi cỗ xe thứ hai, cỗ xe thứ ba
cho đến
cỗ xe thứ bảy từ Xá-vệ đến
Sa-kê-đế?
“Không phải vậy.
“Thế nào, này Hiền giả, nếu quần thần lại hỏi
nữa, Ba-tư-nặc quốc vương xứ Câu-tát-la sẽ
đáp
thế nào? Có phải vua trả lời cho quần thần rằng:
“Ta ở Xá-vệ có việc ở Sa-kê-đế,
ta nghĩ thế này: ‘Dùng phương tiện gì
để
trong một ngày đi
từ Xá-vệ đến
Sa-kê-đế
được?’
Lại suy nghĩ như vầy: ‘Nay ta nên từ Xá-vệ
đến
Sa-kê-đế,
ở giữa đường
đó,
bố trí bảy cỗ xe’. Rồi thì, từ Xá-vệ
đến
Sa-kê-đế,
ở giữa đường
đó,
ta bố trí bảy cỗ xe. Bố trí bảy cỗ xe xong, từ Xá-vệ ta
đi
đến
cỗ xe thứ nhất, ngồi trên cỗ xe thứ nhất
đi
đến
cỗ xe thứ hai. Rồi bỏ cỗ xe thứ nhất cỡi cỗ xe thứ hai
đến
cỗ xe thứ ba; bỏ cỗ xe thứ hai ngồi trên cỗ xe thứ ba
đến
cỗ xe thứ tư; bỏ cỗ xe thứ ba ngồi trên cỗ xe thứ tư
đến
cỗ xe thứ năm;
bỏ cỗ xe thứ tư ngồi trên cỗ xe thứ năm
đến
cỗ xe thứ sáu; bỏ cỗ xe thứ năm
ngồi trên cỗ xe thứ sáu
đến cỗ xe thứ bảy; bỏ cỗ xe thứ sáu
ngồi trên cỗ xe thứ bảy; trong một ngày là
đến
Sa-kê-đế.
“Như vậy! Thưa Hiền giả, Ba-tư-nặc, vua xứ
Câu-tát-la, trả lời câu hỏi của quần thần như vậy.
“Cũng vậy, thưa Hiền giả, vì giới thanh tịnh
mà tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh, vì tri kiến
thanh tịnh nên nghi cái thanh tịnh, vì nghi cái thanh tịnh, nên
đạo
phi đạo
tri kiến thanh tịnh, vì
đạo phi
đạo
tri kiến thanh tịnh nên
đạo tri kiến thanh tịnh, vì
đạo
tích tri kiến thanh tịnh nên
đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh, vì đạo
tích đoạn
trí thanh tịnh nên Thế Tôn thi thiết Vô dư Niết-bàn”.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử hỏi Tôn giả Mãn Từ
Tử:
“Hiền giả
tên là gì? Các vị phạm hạnh
gọi Hiền giả như thế nào?”
Tôn giả Mãn Từ Tử trả lời rằng:
“Hiền giả, tôi hiệu
là Mãn. Thân mẫu tôi tên Từ, do
đó
các vị phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ Tử”.
Tôn giả Xá-lê Tử tán thán rằng:
“Lành thay! Lành thay! Tôn giả Mãn Từ Tử! Là
đệ
tử của Đức
Như Lai, trí biện hoàn hảo,
thông minh, quyết định,
an lạc vô úy, thành tựu sự chế ngự,
đạt
đến
đại
biện tài, được
phướn cam lồ,
ở trong cam lồ giới
tự mình đã
chứng ngộ, thành tựu và an trụ. Vì khi hỏi Hiền giả những ý nghĩa vô cùng
sâu xa thảy đều
được
trả lời. Hiền giả Mãn Từ Tử, những người phạm hạnh sẽ
được
nhiều lợi ích, nếu gặp được
Tôn giả Mãn Từ Tử, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái. Nay tôi cũng
được
lợi ích, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái. Những người phạm hạnh nên quấn y trên
đầu
để
đội
Hiền giả Mãn Từ Tử, vì để
được
nhiều lợi ích. Nay tôi cũng
được
nhiều lợi ích, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái”.
Tôn giả Mãn Từ Tử hỏi Tôn giả Xá-lê Tử:
“Hiền giả tên gọi là gì? Các vị phạm hạnh gọi
Hiền giả như thế nào?”
Tôn giả Xá-lê Tử trả lời rằng:
“Tôi tự là Ưu-ba-đề-xá.
Thân mẫu tôi là Xá-lê,
nên những người phạm hạnh gọi tôi là Xá-lê Tử”.
Hiền giả Mãn Từ Tử tán thán rằng:
“Hôm nay tôi
đã
bàn luận với vị đệ
tử ngang hàng Đức
Thế Tôn
mà không biết, cùng với bậc
Đệ
nhị tôn
luận bàn mà không biết, cùng với bậc
Đệ
nhị tôn
luận bàn mà không biết, cùng luận bàn với vị
đệ
tử tiếp tục vận chuyển pháp luân
đã
được
vận chuyển
mà không biết. Nếu tôi biết ngài là Xá-lê Tử thì tôi
đã
không trả lời nổi một câu, huống chi lại luận bàn sâu xa như thế. Lành
thay! Lành thay! Tôn giả Xá-lê Tử, là
đệ
tử của Đức
Như Lai, trí biện hoàn hảo, thông minh, quyết
định,
an lạc vô úy, thành tựu sự chế ngự,
đạt
đến
đại
biện tài, được
phướn cam lồ, ở trong cam lồ giới tự mình
đã
chứng ngộ, thành tựu và an trụ. Vì Hiền giả
đã
hỏi những ý nghĩa vô cùng sâu xa. Hiền giả Xá-lê Tử, những người phạm hạnh
sẽ được
nhiều lợi ích, nếu gặp được
Tôn giả Xá-lê Tử, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái. Nay tôi cũng
được
lợi ích, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái. Những người phạm hạnh nên quấn y trên
đầu
để
đội
Hiền giả Xá-lê Tử, vì để
được
nhiều lợi ích. Nay tôi cũng
được
nhiều lợi ích, tùy thời mà thăm
viếng, tùy thời mà lễ bái”.
Hai vị Hiền giả khen ngợi nhau như vậy. Cùng
khen ngợi nhau như vậy rồi, hoan hỷ phụng hành, liền từ chỗ ngồi
đứng
dậy, trở về chỗ nghỉ của mình.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ Nhất
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục