(Khuddaka Nikaya - Sutta Pitaka)
Thích Huệ
Quang
"Quế hương bất viễn thư hương viễn
Thế vị vô như đạo vị trường"
Muốn có một cuộc sống tốt đẹp và trở thành người cao thượng thì ta phải thực hiện một cuộc khởi sự, dấn thân với một niềm tin vững chắc. Có như thế mới mạnh dạn bước vào cuộc đời. Mà đời là cuộc hành trình vô tận mà mỗi người trong chúng ta đang tiến bước.
Thời gian đã điểm cánh trên những chiếc lá vàng rơi và làm phôi pha tuổi trẻ, khiến con người thêm trưởng thành, thêm Kinh nghiệm, và cả những bài học đau khổ. Do đó, ta càng thêm sáng mắt ra, nhận rõ chân tướng vạn sự vạn vật và tác phong đạo đức, tư tưởng của ta càng được thấm nhuần đạo hạnh.
Kinh Pháp Cú xưa nay thường được xem như là cao điểm của tư tưởng hướng thượng hiền thiện của con người trong cuộc sống. Thường suy niệm về những lời vàng ngọc trong ấy và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày, tự thanh lọc thân tâm rồi ta sẽ thấy đó là người bạn cố tri luôn đem lại nguồn cảm hứng, an ủi, nâng đỡ, hộ trì và cải thiện tâm linh trên những bước thăng trầm trong cuộc sống.
Trong ý nghĩa đó, bài luận văn này được ra đời. Tuy nhiên, chỉ với một vai trò thật khiêm tốn. Song, dù sao cũng là một đánh dấu quan trọng với thành quả trong quá trình học tập của người viết. Chính vì vậy, nơi đây người viết thành kính dâng lên niềm tri ân sâu xa đối với Hòa Thượng Hiệu Trưởng Thích Minh Châu, Thượng Tọa Hiệu Phó Thích Chơn Thiện, Ngài Hiệu Phó Tống Hồ Cầm, Ngài Tổng Thư Ký -- Giáo Sư Trần Tuấn Mẫn, Giáo Sư Mỹ Học Hoàng Thiệu Khang, Thầy Bổn Sư, Thượng Tọa Thích Thánh Tâm...đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho người viết hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Người viết chọn phương cách tổng hợp phân tích nhằm liễu giải vấn đề trên phương diện Mỹ học, với chút tham vọng là đi vào nghiên cứu Kinh Pháp Cú để từ đó tìm ra nét đẹp nhân văn, sự huyền nhiệm Vô Ngã và Hiện Hữu của Pháp Cú trong tâm hồn con người. Khả năng của người viết có hạn, chỉ xin nguyện hết sức nỗ lực trong việc trình bày, khai triển theo sự nhận thức giới hạn của mình. Nếu bài luận có đem lại sự đồng cảm và sự xây dựng khiêm tốn nào đối với người đọc. Ðó chính là sự cảm thông sâu sắc giữa người viết và người đọc rồi. Ngưỡng mong các Bậc Tôn Sư cao minh, uyên bác từ bi hoan hỷ chỉ giáo thêm.
Do đó Dhammapada có thể có nghĩa là những bước chân đưa đến giác ngộ, giải thoát, đưa đến Chân -- Thiện -- Mỹ. Ðược hiểu như là "Ðường lối của Giáo Pháp, con đường chân lý, chánh tịnh đạo, con đường đạo hạnh..."
Kinh Dhammapada được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Không có Kinh nào được dịch ra nhiều thứ tiếng như tập Dhammapada.
Tất cả đều bao hàm tinh hoa giáo lý Ðức Phật, thích hợp với tâm tánh, trình độ, căn cơ khác nhau của người nghe.
Kinh Pháp Cú được dịch theo thể kệ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, văn xuôi bởi những Học Giả thuộc nhiều thời đại và có những tên khác nhau.
a/ Bản dịch Hán văn gồm 4 loại:
- Pháp Cú Thí Dụ Kinh Dhammapada -- Padàna gồm 4 quyển của Pháp Cự và
Pháp Lập (209 -- 306) Ðời Tây Tấn.
- Xuất Diệu Kinh Apadàna, gồm 30 quyển của Tăng Già Bạt Trừng Tương Lai
và Phù Tần Trúc Phật (398 -- 399 A.D) Ðời Tống.
- Pháp Tập Yếu Tụng Kinh Dhammapada của Thiên Tức Tai (180 -- 1000 A.D)
Ðời Tống.
A Collection of Verses của ROCKHILL.
The Footsteps of Religion của GOGERLY.
The Path of Virtue của S. HARDY.
Hymns of the Faith của EDMUNDS.
Path of Virtue của MAX MULER.
Về thời đại lập thành bản Kinh Dhammapada cũng chưa có được một xác định nào khả dĩ cả. Tuy nhiên, chúng ta có thể đoán định rằng, thời đại đó tùy thuộc vào thời đại lập thành Kinh tạng -- Tipitaka.
Do đó Kinh Dhammapada -- một bộ phận của Kinh tạng (Sutta -- Pitaka) và Luật tạng (Vinaya -- Pitaka) cũng có thể được coi là thuộc thời kỳ Phật Giáo nguyên thủy nghĩa là hoàn thành vào kỳ kết tập lần một, là thời kỳ mà Kinh Phật đã chỉnh lý.
Theo sự nhận xét của các Học Giả đáng tin cậy, thì những lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú đều liên quan tới những biến cố đã xảy ra trong thời Phật tại thế, và theo ý nghĩa những lời Phật dạy cũng được diễn bày bằng những ẩn dụ mà tục truyền là Pháp môn mà Ðức Phật thường dùng để thuyết pháp chúng sanh.
Kể từ khi Kinh Pháp Cú được hình thành trong thời kỳ kết tập lần một tại Rajaghra vào năn 477 B.C. Ðến nay trải qua nhiều công phu biên khảo, phiên dịch và chú giải của các Bậc Trí Giả trên toàn thế giới đã khẳng định một giá trị siêu việt có tính triết lý cao siêu. Mỗi một ai đi tìm chân lý, dẫu theo tín ngưỡng nào cũng đều có thể thấy hứng thú và bổ ích khi đọc quyển sách trí tuệ này.
Vì muốn độ sanh phải đản sanh
Khơi nguồn Phật Ðạo. Ðạo viên thành
Ta Bà trân trọng truyền Giáo Pháp
Hiện tướng Niết Bàn, có tử sanh.
Thật cần thiết biết bao để có được những tư tưởng chân chính trong tâm hồn -- đưa đến thành công trong cuộc sống và trở nên người lương thiện.
"Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy
Hận thù không thể nguôi." (Pháp Cú 3)
"Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy
Hận thù được tự nguôi." (Pháp Cú 4)
"Như giữa đống rác nhớp
Quăng bỏ trên đường lớn
Chổ ấy hoa sen nở
Thơm sạch đẹp ý người" (Pháp Cú 58)
Chúng ta tu học bằng vọng thức nhưng chứng đắc bằng chân tâm. Bản tâm thanh tịnh không thể diễn đạt, bặt ngôn ngữ, bặt suy lường. Khi vọng thức khởi lên ý niệm để thoát ly sinh tử, lìa ngũ ấm, thì ngay lúc ấy ta gặp chân tâm. Chân tâm hiện ra ở đây cũng như đón sen tinh khiết vươn lên từ vũng bùn tục lụy.
"Dẫu cho hắc ám muôn vàn cảnh
Vẫn giữ thanh cao một tấm lòng"
Tức đã lìa vọng tưởng điên đảo, thấy ngay chân tâm hướng thượng hiền thiện của mình.
"Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân
Ðược gọi người hiền thiện" (Pháp Cú -- 263)
"Không phải nói lưu loát
Không phải sắc mặt đẹp
Thành được người lương thiện
Nếu ganh, tham, dối trá" (Pháp Cú -- 262)
Thật thế, đối với người không bị vật chất chi phối nên tâm hồn luôn trong sáng, bao dung, chan hòa với tất cả mọi chúng sanh. Cửa lòng có mở rộng, có bao dung, từ bi thì mọi người mới có thể đến với mình. Bởi vì từ bi là tình thương chân thật không biên giới, phát ra từ tâm địa cao thượng hiền thiện rộng mở.
"Những ai hành trì pháp
Theo chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia
Vược ma lực khó thoát" (Pháp Cú 86)
"Thân tịnh lời an tịnh
An tịnh, khéo thiền tịnh
Tỳ kheo bỏ thế vật
Xứng danh "Bậc Tịch Tịnh" (Pháp Cú -- 378)
"Ít người giữa nhân loại
Ðến được bờ bên kia
Còn số người sót lại
Xuôi ngược chạy bờ này" (Pháp Cú -- 85)
Trong đời sống hiện nay, con người chạy theo những trào lưu nhân loại, những dục lạc thế gian để tạm tìm quên những khổ đau phát sinh từ cuộc sống. Muốn giáo hóa được chúng sanh trong thời đại này quả là không dễ dàng gì. Nhưng chúng ta -- những người con Phật, những kẻ thế thừa trong lâu đài Pháp Giới của Như Lai phải tự khẳng định vị trí, hoài bão độ sinh và hạnh nguyện tốt đẹp của mình, đừng nên xa rời thực tại cuộc đời mà phải luôn tự đặt mình trong tiến trình thăng hóa siêu việt không ngừng.
"Không lửa nung sắt kia không thành thép
Không bùn nhơ sen nọ chẳng mùi thơm"
Thực tại cuộc sống vốn sinh động mầu nhiệm vượt ngoài tính ước lệ của tư tưởng, để rồi từ đó hiển lộ ra nhân cách cao thượng của Vô Ngã và Hiện Hữu thoát hiện từ cái bi của trần gian đau khổ, thoát ra từ cái thường của cõi đời phiền trược để mà vươn lên vầng sáng cao khiết của cái Ðẹp diệu kỳ, bàng bạc trong đó là cả một lịch trình tư tưởng thẩm mỹ hoàn thiện tinh thần Vô Ngã và Hiện Hữu trong Kinh Pháp Cú.
"Ai mặc áo cà sa
Tâm chưa rời uế trược
Không tự chế, không thực
Không xứng áo cà sa" (Pháp Cú -- 9)
"Như mái nhà vụng lợp
Mưa liền xâm nhập vào
Cũng vậy tâm không tu
Tham dục liền xâm nhập" (Pháp Cú -- 13)
"Ai sống một trăm năm
Ác tuệ, không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Có tuệ, tu thiền định" (Pháp Cú -- 111)
"Ai sống một trăm năm
Khống thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sinh diệt" (Pháp Cú -- 113)
"Người hiền thấy là ác
Khi thiện chưa chín muồi
Khi thiện được chín muồi
Người hiền thấy là thiện" (Pháp Cú -- 120)
Thực tại tuệ giác đó chính là hình ảnh phần của tâm linh. Tâm không có chỗ chỉ, nói đến nguồn cội của tâm linh cũng không có chỗ chỉ, nhưng khi phát ra ý niệm phù hợp với bản tâm thanh tịnh thì ngay lúc ấy hoàn toàn giác ngộ.
"Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời Chư Phật dạy" (Pháp Cú -- 183)
"Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sinh tử các chúng sanh
Không nhiễm, khéo vượt qua
Sáng suốt chân giác ngộ
Ta gọi Bà La Môn" (Pháp Cú -- 419)
"Dẫu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc" (Pháp Cú -- 101)
"Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh" (Pháp Cú -- 279)
"Khó thay được làm con người
Khó thay được sống còn
Khó thay nghe diệu pháp
Khó thay Phật ra đời" (Pháp Cú -- 182)
Muốn diệt trừ khổ đau chúng ta phải xóa sạch bóng tối vô minh trong lòng mình, mà muốn xóa sạch vô minh phải dùng tới năng lực của trí tuệ. Trí tuệ thông đạt thì vi tế vô minh cũng được tẩy trừ, với trạng thái tâm thức bình lặng và sáng suốt như vậy, tức đã thể nhập Như Lai tự tánh, thấy được nguồn cội uyên nguyên của vũ trụ.
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo" (Pháp Cú -- 1)
"Lịch sử đã minh chứng cho tôi thấy rằng Ðức Phật là một đấng cao quý hơn tất cả. Toàn thể nhân loại chỉ có thể tìm thấy một nhân vật độc nhất như Ngài với một tình thương rộng lớn và những lời dạy cao thâm cùng tột. Là một Ðại triết gia Ngài đã lưu truyền một nền đạo lý cao cả, một lòng từ bi bao la bao trùm khắp mọi chúng sanh ngay đến với loài vật bé nhỏ nhất. Lịch sử muôn loại đã tôn Ngài như là hiện thân của một phối hợp tuyệt vời giữa tâm và trí". (Trích Lectures on Karma Yoga)
Như vậy, triết học Phật Giáo được xem như là triết lý của cuộc sống thực tại, nhằm hướng dẫn con người ra khỏi những nô lệ huyễn hoặc, dập tắt mọi ảo tưởng về cái ta, và cái của ta -- Chuyển cuộc sống trần cấu ô nhiễm thành nếp sống thánh thiện, Vô ngã vị tha. Xây dựng hạnh phúc an lạc ngay cuộc đời này là đỉnh cao tối hậu, là sự trở về với bản tâm thanh tịnh thường hằng hiện hữu trong mỗi chúng ta.
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy, lời khéo nói
Có làm, có kết quả." (Pháp Cú -- 52)
Bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe, mái nhà khéo lợp, người thợ làm tên, con ong hút mật...
"Cười gì, hân hoan gì
Khi đời mãi bị thiêu
Bị tối tăm bao trùm
Sao không tìm ngọn đèn" (Pháp Cú -- 146)
"Hãy xem bong bóng đẹp
Chổ chất chứa vết thương
Bệnh hoạn nhiều suy tư
Thật không gì trường cửu" (Pháp Cú -- 147)
Có nhận thức được thực trạng khổ đau mới đủ dũng lực để tự rèn luyện vững vàng đời sống thánh thiện chân tu. Học Ðạo vô thượng, tu Ðạo Bồ Tát là sự thực nghiệm ngay chính bản thân, điều này nằm ngoài ngôn ngữ văn tự.
Có phân biệt được chánh -- tà, thiện -- ác thì tất cả sẽ cương quyết tránh xa điều bất thiện, bước vào nẻo Thánh đường lành.
"Chớ chê khinh điều thiện
Cho rằng: "Chưa đến mình"
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn
Người trí chứa đầy thiện
Do chất chứa dần dần" (Pháp Cú -- 122)
Khi đã tạo các nghiệp hiền thiện, con người sẽ cảm thấy an lạc và có quyền thốt lên nỗi niềm vui sướng.
"Nay vui, đời sau vui
Làm phước, hai đời vui
Nó vui, nó an vui
Thấy nghiệp tịnh mình làm". (Pháp Cú -- 16)"Nay sướng, đời sau sướng
Làm phước, hai đời sướng
Nó sướng "Ta làm thiện"
Sanh cõi lành, sướng hơn". (Pháp Cú -- 18)
"Tâm tư khéo phòng hộ
Thân chớ làm điều ác
Hãy giữa ba nghiệp tịnh
Chứng Ðạo Thánh nhân dạy" (Pháp Cú -- 281)
Người ngước mắt đang ngữa tay chờ đón những phép mầu do một bàn tay từ cõi vô hình ban xuống. Kẻ cúi mặt xuống đất đang ra tay đào xới vật chất để xây lấy một thiên đường cát bụi.
"Trong nhà sẵn ngọc tìm đâu nữa,
Ðối cảnh vô tâm hỏi chi thiền." (Cư Trần Lạc Ðạo -- Trần Nhân Tông)
"Tự mình y chỉ mình
Nào có y chỉ khác
Nhờ khéo điều phục mình
Ðược y chỉ khó được." (Pháp Cú -- 160)
"Biết thân như đồ gốm
Trú tâm như thành trì
Chống ma với gươm trí
Giữ chiến thắng không tham" (Pháp Cú -- 40)
1/ Tính nhân văn
"Pháp kệ trổ nên hoa
Hoa theo ngọn suối mát
Nhuần thắm cõi Ta Bà
Ướp trang Kinh giải thoát"
Chất nhân văn sâu lắng dạt dào trong từng lời kệ ngọc. Có thể nói, Pháp Cú tiêu biểu cho tinh thần nhân văn Phật giáo, cũng như cho triết học Phương Ðông.
"Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng rực đời này
Như trăng thoát mây che" (Pháp Cú -- 173)
"Giữ tâm như đuốc sáng
Trau thân như gìn vàng
Mỗi ý là hạt ngọc
Mỗi lời là hoa thơm" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 230)
"Những người thường giác tỉnh
Ngày đêm siêng tu học
Chuyên Tâm hướng Niết Bàn
Mọi lậu hoặc được tiêu" (Pháp Cú -- 226)
Ở đây ta có thể khẳng định rằng cái tinh thần tự chủ mà Phật đã dạy cho con người quả là một yếu tính, một nền tảng vững chắc để xây dựng nền văn hóa văn minh của loài người.
"Xem trời, ngắm đất rồi trở lại lòng tìm ra nơi hội thông cũng gọi là thiên địa chi tâm. Vượt tầm tai mắt để mà nghĩ ngợi, để mà định đoạt con đường, thực hiện sự tiến hóa của mình -- có nghĩa là một đường lối có ngoại cảnh và có nội tâm. Cho nên có thể gọi con đường thực nghiệm vượt xa hẳn những lối ma thuật, mơ mộng một cách thiên lệch". (Chữ Thời -- trang 166)
"Hư không không dấu chân
Ngoài đây không sa môn
Các hành không thường trú
Chư Phật không dao động" (Pháp Cú -- 255)
"Lìa ái dục mê chấp
Thể nhập cõi Ðạo mầu
Như đóa sen giải thoát
Tự tại giữ đầm sâu" (Pháp Cú -- 352)
"Sát na từng sát na
Gội trừ dần cấu uế
Như thợ lọc vàng ròng
Khơi lửa hồng, kéo bể" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 239)
"Vị tịnh mặc rừng sâu
Quán vô lượng cõi khổ
Thành tựu muôn hạnh lành
Cõi hồng xe pháp độ" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 423)
"Anh có cho tôi làm hoa sen không, tôi trong lý lịch có bùn.
Thân phận người mà ai chẳng có bùn đen.
Giết chết một mùi hương -- dễ thôi, cứ quậy bùn lên để giết.
Nhưng vượt lên bùn, sen cứ ngát hương sen"
(Hương sen -- Di cảo Thơ Chế Lan Viên)
"Thiên thần giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng
Không nhiễm giữa nhiễm trước
Ta gọi Bà La Môn" (Pháp Cú -- 406)
"Chánh tín và giới hạnh
Là gia tài Thánh Nhân
Dù thôn mai phố bụi
Ai ai cũng ân cần" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 303)
"Giở từng trang bối diệp
Ðọc lại lời Phật xưa
Thấy ngàn hoa pháp rụng
Bát ngát hương Ðại thừa"
Theo quan điểm các nhà Triết Học thì "Hệ thống Triết Học nào thì thẩm mỹ như thế".
"Chống thiền trượng kim cương
Dũng mãnh bước giải thoát
An trụ cõi hoa hương
Niết Bàn vô thượng đạt" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 23)
Cái đẹp trong tư tưởng Pháp cú không phải trong tháp ngà triết lý, cũng không ru người trong lý thuyết danh từ -- mà Pháp Cú đã hiện hữu nét thẩm mỹ tuyệt vời Chân Như Diệu Hữu vào đời sống thực tại.
"Như áng hương Vi diệu
Thoảng từ cội lan vàng
Miệng lành là khuôn ngọc
Việc lành là hào quang." (Suối nguồn vi diệu -- kệ 52)
Từ sự nhận thức tiến đến trình độ cao hơn của sự hiểu biết, thấu suốt mọi vấn đề -- thì trí tuệ đứng vai trò chủ đạo để dẫn dắt tâm hồn nhân loại đến Niết Bàn tịch tĩnh, tới cái đẹp hoàn mỹ -- miên viễn. Pháp Cú đề cao trí tuệ cao tột -- đại giác, lấy phương châm "Duy tuệ thị nghiệp" áp dụng vào đường hướng tu tập, vì Ðức Phật nhận thấy rằng tâm hồn con người vốn có tính hướng thượng, biết vươn lên dù trong nghịch cảnh.
"Tu thiền, trí huệ sanh
Bỏ thiền, trí huệ diệt
Biết con đường hai ngả
Ðưa đến hữu, phi hữu
Hãy tự mình nỗ lực
Khiến trí tuệ tăng trưởng" (Pháp Cú -- 282)
Tu tập đạt đến trí siêu việt thấu triệt được vạn pháp "Bổn lai vô nhất vật" chính nơi đó tỏa sáng cái Ðẹp vi diệu vô biên.
Thiền Sư Ngộ Ấn đời Lý đã chỉ ra cho đàn hậu học thấy được cái bất biến tuyệt vời của bản thể một khi đã ngộ nhập Chân Như.
"Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc, hà nan?
Ngọc phần sơn thượng, sắc thường nhuận
Liên phát lô trung, thấp vị càn"
Cây giác ngộ chỉ mọc ở đám đất đau khổ. Tinh thần được triển khai là do trí tuệ, một động lực vốn là kết quả của sự trì giới, thiền định và suy tư của con người mà có. Qua Kinh Pháp Cú, ánh sáng nhân văn Phật Giáo bao giờ cũng khoáng đạt, bao dung, thường hằng mà ảo diệu. Chân lý Pháp Cú là viên ngọc trân châu trong chéo áo kẻ lang thang, chỉ vì không nhận ra chân tướng cuộc đời mà phải chịu nửa đường lầm lạc.
"Những ai hành trì Pháp
Theo chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia
Vượt ma lực khó thoát" (Pháp Cú -- 86)
"Phật thị hiện, lành thay!
Chánh Pháp chuyển lành thay!
Mừng Tăng Ðoàn hòa hợp
Như hạc vàng tung bay
Ôi xuân về mười cõi,
An lạc đến muôn loài." (Suối nguồn vi diệu -- 194)
"Lòng người chớ mê hoặc
Chấp ta hay của ta
Không nệ vì danh sắc
Bực thượng thủ Tăng Già" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 367)
Từ đó tỏa ra cái Ðẹp diệu kỳ trong phẩm chất tốt đẹp của con người cao thượng. Ðẹp là vị tha, là hạnh phúc. Vị tha không phải là ban phát, bố thí, mà đó là thái độ hy sinh, trải rộng cõi lòng, từ hiện thực cuộc sống cá nhân nâng lên thành lý tưởng cao đẹp.
"Sống trong đời sống cần phải có một tấm lòng. Ðể làm gì em có biết không? Ðể gió cuốn đi..." [2]
"Vượt quá, hiện, vị lai
Qua bờ sông ảo diệu
Tâm giải thoát tròn đầy
Như trăng vàng tỏa chiếu." (Suối nguồn vi diệu -- kệ 348)
Giữa đôi bờ hư -- thực. Bờ bên này là uế trược, ô nhiễm -- bờ của cái bi.
"Như sét từ sắt sinh
Sắt sinh lại ăn sắt
Cũng vậy, quá lợi dưỡng
Tự nghiệp dẫn cõi ác." (Pháp Cú -- 240)
"Bậc trí theo tuần tự
Từng sát na trừ dần
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình" (Pháp Cú -- 239)
"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng" (Pháp Cú -- 103)
Ta đừng ngộ nhận lầm tưởng ngôi nhà bát ngát này là của ta vĩnh cửu. Ta chỉ tạm trú trong ngôi nhà thế gian này mà thôi.
"Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Trăm năm ở trọ ngàn năm..." (Trịnh Công Sơn) [2]
"Vạn pháp đều vô ngã
Hư huyễn bóng mây đưa
Dưới mặt trời đại định
Thanh thoát một dòng thơ" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 279)
"Với hận diệt hận thù
Ðời này không có được
Không hận diệt hận thù
Là định luật ngàn thu" (Pháp Cú -- 5)
Ý nghĩa cuộc đời là sự sống cho ra sống, Sống không phải cố che đậy, những bất ổn bằng hình thức cầu kỳ, mà phải tự ý thức rằng mình đang sống từng giây, từng phút và nên hiểu biết rằng đời sống vốn là một mảnh vườn đầy kỳ hoa dị thảo mà bất cứ ai cũng có quyền hưởng thụ.
"Hoa đàm dẫu rụng vẫn còn hương
Ngút tỏa mùi hương ngát diệu thường
Bốn biển trăng soi toàn thể Diệu
Vô vi tịch chiếu tuyệt suy lường"
Pháp Cú đâu phải là một học thuyết hay một kiến thức để đem ra nói đi nói lại -- Pháp Cú của Ðức Phật là vươn lên tất cả kiến thức, kinh nghiệm để không vướng mắc vào đâu cả. Ðức Phật không quan tâm đến những vấn đề nhằm thỏa mãn trí tò mò của con người, Ngài chỉ quan tâm đến nguyên nhân đưa đến khổ đau của con người -- và làm cách nào để chấm dứt sự đau khổ. Giáo Pháp của Ngài không đề cập đến những vấn đề siêu hình, nhưng có tính cách vô cùng thực tiễn, sáng bừng trong đó là tư tưởng thẩm mỹ nhân văn huyền nhiệm bất tuyệt, là đóa sen thơm ngát giữa lòng thế tục.
Giáo Pháp của Phật ban rải khắp nơi với tâm đồng thể đại bi, trí tuệ phóng khoáng siêu nhiên, là sự quảng khai truyền thừa một cách linh động uyển chuyển cho khế hợp với mọi căn cơ, trình độ chúng sanh và hoàn cảnh xã hội.
Kinh Pháp Cú biểu hiện sức sống sinh động, luân lý mẫu mực, hiện thực bất tuyệt trước không gian vô cùng và thời gian vô tận. Những lời vàng mầu nhiệm hàm chứa lòng từ vô lượng, bi vô lượng của Ðức Phật đã vang xa khắp tam thiên đại thiên thế giới, rót vào lòng đời ngũ trược Ta Bà -- đưa vớt những tâm hồn bị dồn nén vào chân tường không lối thoát, là diệu được hồi sinh cứu nguy cho những tâm hồn sa đọa đang hấp hối.
"Hiểu Khổ - Tập - Diệt - Ðạo
Nương giới luật chân thường
Tròn đầy giải thoát hạnh
Là người đáng kính thương" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 217)"Như cỏ hoa đồi suối
Mừng ai về cố hương
Quả phúc bực hiền đức
Chờ ai cõi lạc thường" (Suối nguồn vi diệu -- kệ 219-220)
Không thể sống như đàn kiến chạy quanh quẩn, nô đùa trên chén mật sinh tử -- mà chúng ta phải nhận thức được thực trạng khổ đau -- để bước lên con đường giải thoát, tìm về sự sống thanh thoát, an lành, hòa mình cùng vũ trụ bao la, tự tại vô ngại trong bầu trời tự do thanh khiết của Ánh Ðạo Vàng.
"Cúng dường Kinh tạng thơ hoa
Trải tam thế mộng một tòa sắc hương
Kiếp sau làm trăng làm sương
Hiện chân thường giữa vô thường thế gian" (Phạm Thiên Thư)
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
- Kinh Pháp Cú -- Nàrada -- Bản Dịch Phạm Kim Khánh. Xuất Bản 1971
- Kinh Pháp Cú -- Kinh Tạng Pàli. Thích Minh Châu Dịch -- Thiền Viện Vạn
Hạnh -- Xuất Bản 1996
- Thẩm Mỹ Vô Ngã -- Hiện Hữu Trong Kinh Pháp Cú -- GS Hoàng Thiệu Khang.
Trích Nguyệt San Giác Ngộ Số 2 - 1996
- Ðức Phật Và Giáo Pháp Của Ngài (The Buddha And His Teaching) Ernest K.S.
Hunt. Tịnh Minh Dịch Và Chú Giải -- Xuất Bản 1993
- Tìm Hiểu Nhân Sinh Quan Phật Giáo -- Thích Tâm Thiện -- Thành Hội Phật
Giáo -- Xuất Bản 1995
- Phật Giáo Và Nền Văn Hóa Việt Nam. Thích Mãn Giác -- Ban Tu Thư Ðại Học
Vạn Hạnh -- Xuất Bản 1967
- Liên Hoa Nguyệt San -- Số 12 -- 1962
- Phật Học Tinh Hoa -- Thu Giang Nguyễn Duy Cần
- Suối Nguồn Vi Diệu -- Phạm Thiên Thư -- Cơ Sở Văn Chương -- Xuất Bản
1973
- Ðường Tu Không Hai -- Minh Tâm. Thanh Văn Xuất Bản 1994
06
Nguồn: www.quangduc.com