Sự sinh hoạt và cai
trị theo lối trung ương tập quyền và những chính sách ngoại giao khéo
léo của triều đại Chandragupta Maurya đã được ghi
lại trong cuốn Arthasastra bởi Kautilya (còn được biết dưới tên
Chanakya), là tể tướng của triều ông. Ngoài ra nhiều đoạn của một
báo cáo do sứ thần của vua Seleucus tên là Megathenes ghi lại còn tồn
tại đến nay qua sự trích dẫn của các sử gia Hy-La.
Đến
đời vua Bindusàra
Maurya (trị
vì từ 298 273 TTL) thì đế quốc này còn bành
trướng thêm nữa từ Kashmir ở phía bắc đến
Karntaka ở phía nam, và từ châu thổ sông Hằng ở phía đông sang
đến mạn nam và đông của xứ Afghanistan bây giờ. Đế quốc Maurya
đã nổi tiếng với những thành phố lớn phồn thịnh như Takshasila,
Ujjain, Vidisha, Tosali, và Suvarnagiri.
Đến
đời Hoàng Đế Asoka Maurya (còn được ghi là Ashoka, dịch
là A Dục Vương, hay A-du-Ca: có nghĩa là Vô Ưu), vị vua thứ ba của
triều đại Maurya,
ông kế tiếp chính sách bá quyền, và thâu tóm gần hết tiểu lục
địa Ấn. Đế
quốc của ông hùng mạnh tột đỉnh và ông đã để lại cho hậu thế
một chứng liệu miên viễn bằng đá, dưới dạng những pháp dụ,
bởi nếu không thì những điều nói về vua Asoka chỉ được biết qua
những huyền thoại ghi lại trong những kỷ yếu viết bởi các tăng
sĩ Phật giáo ở Tích-Lan và Ấn như các bộ
Divyavadana, Asokavadana, Mahavamsa vv..
Hoàng
Đế Asoka Maurya sinh năm 304 TTL, lên ngôi năm 269 TTL lúc 35 tuổi, trị
vì được 38 năm và mất năm 232 TTL thọ 73 tuổi. Ông là vị vua vĩ
đại nhất của Ấn, và là vị hoàng đế đầu tiên đã cai trị một
đế quốc Ấn rộng lớn.
Dựa
vào bộ Mahàvamsa (Đại Sử) đã được biên soạn bởi tăng già
ở Tích-Lan thì ngay sau khi vua cha là Bindusàra băng hà vào năm 273 TTL,
đã có sự tranh dành ngôi vua rất gay gắt giữa các hoàng tử trong
4 năm. Giai đoạn này Sử ghi là thời không vua (Interregnum). Rốt cục
Asoka, với sự hổ trợ đắc lực của vài đại thần ở kinh đô
Pâtaliputrâ (Thành Hoa Thị), đã thành công và lên ngôi vào năm 269
TTL.
Tám năm sau khi kế vị vua cha, hoàng
đế Asoka xua quân đánh chiếm nước Kalinga dọc vùng duyên hải mạn
đô?g, nay là bang Orissa vì xứ này giàu có nhờ quặng mo,?sung
túc nhờ vựa lúa, vàvị trí hàng hải thuận lợi dẫn đến vùng
thung lũng Krishna đầy mõ vàng và đá quí. Chiến dịch thành công
nhưng đẩm máu. Theo các pháp dụ do ông sai khắc lên đá thì cuộc
xâm lăng này đã làm cho 150 ngàn nguòi bị bắt làm nô lệ hoặc bị
đầy ải, 100 ngàn quân sĩ bị giết, số thường dân bị sát hại còn
cao hơn nhiều lần.
Trước
trận Kalinga hai năm, có vẽ như là vua Asoka đã trở thành một Phật
tử sau khi nghe vị Sa-di Nigrodha
(Ni-câu-thuật) thuyết pháp,
nhưng không mấy nhiệt tâm (xem Tiểu thạch pháp dụ số 1), mãi đến
sau khi chứng kiến thảm cảnh
đau thương của chiến dịch này ô?g quá xúc động và rất hối
hận, rồi từ đó quyết từ bõ chiến tranh xâm lấn và hồi tâm
để trở nên một Upàsaka (Ưu-bà-tắc: cư-sĩ Phật tử) thuần thành.
Suốt quảng đời còn lại ông đã kiên trì ứng dụng Phật pháp
vào việc trị nước một cách đầy nhân ái mà ông gọi là dhammavijaya
(pháp chinh phục), và đã ủng hộ Phật giáo phát triển sâu rộng
không những trên toàn đế quốc ông cai trị mà còn truyền bá đến
các nước lân bang. Những sự kiện này xảy ra khoảng hai thế kỷ
sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt.
Bộ Mahavamsa - vốn được viết
trong tinh thần tôn giáo với nhiều huyền thoại với dụng ý răn
đời đã muốn đề cao Asoka từ khi trở thành Phật tử đã từ
bõ quá khứ đầy ác nghiệp, từ một Candàsoka (A-Dục Vương bạo
chúa) trở thành Dhammàsoka (A-Dục Vương mộ Pháp) nên bộ này
đã ghi rằng trong cuộc tranh dành ngôi vua, Asoka đã giết 99 người
trong số 100 anh em của mình, chỉ còn để sót lại một người tên là
Tissa. Thực ra không có chứng cớ khả tín về điều này, vã lại
trong Đại thạch Pháp dụ số 5 được ban ra 11 năm sau khi ông lên
ngôi còn cho thấy vua Asoka nhắc đến anh chị em mình. Các học giả tin
rằng trong vụ tranh ngôi này chỉ có
một người anh (hay em) đã bị sát hại mà thôi. Hơn nữa với thời
gian trị vì của ông, ngoài hai sự kiện là tranh dành ngôi vua và
cuộc xâm lăng Kalinga trong 8 năm đầu, suốt quảng 30 năm còn lại
ông đã trở thành một hoàng đế nhân từ đem Chánh Pháp ra ứng
dụng vào đời, chứ không tàn bạo như Nero của La Mã hay Trụ
Kịệt, Tần Thuỷ Hoàng của Trung Quốc, nên vịệc gán cho ông xú danh
Candasoka xem ra thiếu cơ sở. Nhiều
học giả nghiêm túc còn so sánh ông với những vĩ nhân khác như
Hammurabi của Babylon, Charlemagne của đế quốc Tây Âu hậu La Mã hay Akbar
của đế quốc Mogul.
Nhiều
cổ thư ở Tích-Lan đã ghi lại sự kiện là Asoka nhờ đã áp dụng
chính sách chinh phục ôn hoà bằng Chánh Pháp mà ông đã khôn khéo
ổn định đời sống chính trị toàn vùng và nhiều lần dẹp yên các
cuộc nổi loạn mà không đổ máu; trong đó đáng kể là cuộc nổi
loạn của dân ở thành Takshasila thuộc vùng Gandhara chống lại sự
áp bức hà khắc của quan cai trị địa phương. Về sau Gandhara trở
thành thịnh địa của Phật giáo, mà từ đó phái Đại thừa phát
triển qua phương Đông.
Để thần dân thông
hiểu chính được
những sự cải cách trong chính sách cai trị mới và những nguyên
tắc về đạo đức ông đặt ra dựa theo Chánh Pháp cốt tạo dựng
nên một xã hội đầy nhân bản và công chính hơn, Asoka đã ra lệnh
khắc những pháp dụ này lên đá - có khi gọi là Lời ghi chánh
pháp (dharmalipi) , có khi lại gọi là pháp lệnh (dharma-sravana)
- đồng thời cho rao truyền rộng rãi khắp nơi trong nước. Những
pháp dụkhắc trên đá của vua Asoka đã minh họa được hình ảnh
của một vị minh quân luôn nhiệt tâm thực thi Chánh Pháp của Phật
dạy để mang lại cho trăm họ một đời sống hiền hoà, no ấm phúc
lợi, nhưng vẫn không cho biết thêm chi tiết nào về cuộc đời của
ông.
Sự
khai thị về các Pháp dụ của Asoka được xem như chỉ là gần đây
mà thôi. Người nghiên cứu đầu tiên lại là một tu sĩ Thiên
Chúa giáo, khi cha Tieffenthaler khảo sát những mảnh của pháp trụ
Meerut tại Delhi vào năm 1756, nhưng không hiểu được nội dung. Mãi
đến năm 1837 những pháp dụ của Asoka mới được nhà khảo cổ
James Prinsep giải ám mã lần đầu tiên, rồi từ đó những pháp dụ
được dịch thuật và in ấn quảng bá khắp nơi.
Ban
đầu Prinsep
thấy rằng những dụ này đã được ban ra bởi một vị vua tự gọi
mình là Vua Piyadasi, Thiên tử (phỏng từ
Beloved-of-the-Gods, King Piyadasi") hoặc Devanampiya Piyadasi, Thiên
tử, Người Nhìn Xuống với Từ Tâm ("Beloved-of-the-Gods, He Who
Looks On With Affection"). Các học giả phỏng đoán Vua Piyadasi có thể
là Vua Asoka, thường được xưng tụng trong các huyền thoại Phật
giáo. Cho mãi đến năm 1915, khi một pháp dụ khác được tìm thấy
với tên vua Asoka, người ta mới khẳng định được rằng cả hai
chính là một, đó là hoàng đế Asoka, và từ đó, sau hơn hai ngàn
năm bị quên lãng, những pháp dụkhắc trên đá này của vua Asoka
bỗng dưng làm sáng tõ thêm về một con người vĩ đại của lịch
sử Ấn và của cả nhân loại, chứ không còn là một nhân vật
chỉ đuọc biết đến qua huyền thoại. Một câu ghi lại trên đá đã
phản ánh chiều hướng tâm linh của Asoka: Tất cả thần dân là
con của ta. Vì là con của ta, họ phải được chu cấp đầy đủ an sinh
và phúc lợi trong đời này và đời sau, như ta vẫn hằng mong.
Theo
giáo sư Romila Thapar về môn Lịch
sử Ấn cổ tại Đại học Jawaharlal Nehru ở New Delhi
thì hệ văn
tự của các Pháp dụ này được xem là văn hệ sớm nhất của Ấn
có thể nghiên cứu được. Văn hệ cổ hơn mà người ta khám phá
ở Harappa thuộc văn minh thung lũng sông Indus chỉ là những nét vẽ
tượng hình trên dấu mộc, vật trang sức và lọ gốm mà đến nay
vẫn chưa ai hiểu được ý nghĩa.
Những
pháp dụ khắc đá của vua Asoka đánh dấu thời kỳ chuyển biến từ
khẩu truyền sang văn tự của xã hội Ấn vì chúng là những chữ
tượng âm chứ không tượng hình như xưa. Nghiên cứu kỹ những bia
ký, người ta thấy Hoàng Đế Asoka cho ghi lại Pháp dụ bằng bốn văn
hệ cho ba ngôn ngữ khác nhau. Phần quan trọng và chiếm đại đa số
bia ký là ngôn ngữ Prakrit - bấy giờ là ngôn ngữ đàm thoại phổ
thông của xứ Magadhi, tức là ngôn ngữ chính thức trong triều Asoka,
và phần còn lại bằng ngôn ngữ Hy-lạp và Aramaic.
Ngôn
ngữ Prakrit lại được viết dưới hai dạng văn hệ Brahmi và
Kharoshthi (gần với Sanscrit). Đa số
pháp dụ được viết theo văn hệ Brahmi, truyền bá rộng khắp đế
quốc. Nhiều học giả cho rằng văn hệ Brahmi do triều đại Maurya sáng
tạo bởi nhu cầu hành chánh trong việc cai trị một đế quốc rộng
lớn. Nó là dạng chuyển tiếp giữa Sanscrit xuất phát từ vùng tây
bắc Ấn (thường dùng trong giới thần học, triết học, hoặc huyền
học) và ngôn ngữ hiện đại Indo-European của Ấn. Văn hệ Brahmi, dù
vậy cũng bị biến dạng đôi chút theo phát âm ở từng địa phương,
ví dụ văn hệ để viết tiếng Tamil ở vùng phía nam vốn cải biên
từ hệ Brahmi.
Sự
sử dụng ngôn ngữ Prakrit trong các Pháp dụ cũng cho thấy rằng Asoka
muốn đem Chánh pháp ra ứng dụng với đời thường chứ không chỉ
để một số tăng lữ dùng để bàn luận theo ngôn ngữ Sanscrit. Văn
phong dùng thể nói chuyện rất bình dân dễ hiểu và thuòng lập đi
lập lại, cứ như Hoàng Đế muốn trực tiếp nói với quần chúng,
chứ không kiểu cách cầu kỳ như các quốc vương khác đương thời
hay xử dụng. Qua đấy nhiều học giả đã nhìn thấy bản tính bộc
trực chân thật của Asoka.
Rất
ít bản khắc bằng văn hệ Kharoshthi và bằng ngôn ngữ Hy-lạp và
Aramaic. Những bản này chỉ thấy ở vùng tây bắc thuộc Afghanistan
bây giờ, nơi có nhiều dân nói được hai ngôn ngữ ấy. Không rõ
là những Pháp dụ thuộc loại này đã được triều đình ra lệnh
hay là do các quan cai trị địa phương làm ra như là một bản dịch cho
dân trong vùng, vốn đa chủng hỗn tạp. Trên một trong những pháp dụ
ở vùng này, Hoàng Đế Asoka đã kể ra tên của 5 vị vua các nước
phương tây đồng thời có bang giao, nhờ vậy đã giúp nhiều cho
vịệc nghiên cứu sử đối chiếu. Đó là các vua Antiyoka (Anh ngữ:
Antiochos II Theos ở Syria: 261- 246 TTL), Turamaya (Ptolemy II Philadelphos của Ai
cập: 285 247 TTL), Antikini (Antigonos Gonatas của Macedonia: 278 - 239 TTL),
Maka (Magas của Cyrene: 300 258 TTL) và Alikasudara (Alexander của Epirus:
272 258 TTT).
Dựa
vào các bia ký bằng Hy ngữ vàAramaic này mà các nhà nghiên cứu
Tây phương hiễu được những từ tương tự ở bản Prakrit. Nhưng
cũng chính vì vậy đã gây khá nhiều ngộ nhận, ví dụ từ dharma
lại không có lấy một chữ gốc Hy và Aramaic (và cả Anh ngữ ngày
nay) tương đồng để dịch và ngay trong các bản
văn bằng Hy ngữ vàAramaic này cũng không
có nơi nào đề cập đến Đức Phật. Cho nên nhiều dịch giả
phải phỏng dịch ra như là: thương xót (piety), đức hạnh (virtue), bổn
phận thiêng liêng (sacred duty), hoặc dùng nguyên ngữ là dharma
dạy bởi Đức Phật (the dharma taught by the
Buddha). Trong bản khắc bằng Hy ngữ lại được ghi là eusebeia,
với một nghĩa rất tổng quát như vừa kể.
Chính vì dựa vào
những ngộ nhận này mà nhiều học giả Tây phương nghi ngờ rằng
chữ dharma Asoka đã dùng không phải mang một nghĩa như Chánh
pháp của đạo Phật mà là những khuyến dụ về đạo đức xã hội
nói chung. Có kẻ còn bảo rằng vì trên những bia ký chẳng hề thấy Asoka
đề cập đến giáo lý căn bản của Phật giáo như là Luân hồi
(samsàra), Giải thoát (mokkha), Niết-bàn (nibbàna), Vô ngã (anatta), Bát
Chánh Đạo (atthangika-magga), hay Tứ Diệu Đế (cattari ariya-saccani) nên
đã giải thích chữ dharma theo lối suy diễn ngoại đạo chủ quan
của mình. Thật là đáng tiếc, vì họ quên rằng
dù Asoka đã trở thành một cư-sĩ Phật tử nhưng
ông phải cai trị một đế quốc rộng lớn như một minh quân, phải
công bằng với thần dân vốn đa dạng và đa tín ngưỡng, ở một
xã hội có nền văn hoá bao dung chứ không cuồng tín độc tôn,
độc thần. Asoka không thể nào dùng những ngôn từ thuần Phật
pháp để phủ dụ thần dân được.
Nhưng qua một vài pháp dụ riêng
cho tăng già ví dụ tiểu thạch pháp dụ số 3 hay còn gọi là Pháp
dụ Bairàt, thì không còn nghi ngờ gì nữa về đức tin Phật giáo
của Asoka. Trong dụ này sau lời vấn an tăng già, ông xác định đức
tin vĩ đại của ông vào Phật, Pháp và Tăng. Ô?g bảo rằng tất cả pháp do Đức
Phật thuyết giảng đều là chân diệu pháp và ông muốn nó được
trường tồn. Ông còn cho ghi ra
tên của 7 bản kinh để Tăng-già thường xuyên tu học.
Những
pháp dụ khắc đá nói chung nhắm vào nhiều thành phần là các quan
chức dưới triều, giới tăng già, và thần dân. Đối với thành
phần đầu thì ông quan tâm đến sự an sinh phúc lợi của dân
chúng, và kêu gọi các quan chức nên đề cao đạo đức và nhịêm
vụ xã hội để cai trị dân tốt hơn. Ở thành phần giữa thì ông
quan tâm đến việc tu tập của tăng chúng và vịệc điều hành các
tịnh xá. Ở thành phần sau thì ông chỉ khuyến khích việc ăn ở theo
Chánh pháp (Dharma).
Vua Asoka còn thường xuyên tuần
du thiên ha, gọi là những chuyến vi hành Pháp (dhammayàtras) để
giảng dạy Chánh pháp cho mọi người. Ô?g còn ra lệnh cho các quan
đại thần cũng nên làm như thế. Hoàng Đế Asoka tự cho mình có
trách nhiệm phải giải nghĩa, công bố và rao giảng Chánh Pháp
(Dharma). Với sự minh mẫn siêu việt, Asoka đã chỉ ra trong đời
thường, nó là sự tương tác nhiều mặt của đời sống đạo
đức: Nó phản ánh những trách nhiệm và bổn phận của con người
tuỳ vào vị trí của mình trong xã hội; nó phản ánh cái trật tự
trong vũ trụ và chân lý cảm nhận được trong cái trật tự đó;
nó là mối dây ràng buộc con người trong gia đình, xã hội, tôn
giáo và đất nước; nó là cái tri kiến cơ bản làm nền tảng cho
sự thông cảm và an hoà, vốn được biểu lộ khác nhau bởi các
nền văn hoá và tôn giáo dị biệt; nó là sự chỉ đạo cho hành
động và sự tự giác và hạnh phúc; nó chỉ đạt được bằng
hành động, phát triễn thêm bằng thực hành, và bảo vệ bằng luật
lệ, và nhờ vậy nó tạo nên cơ sở cho chính sách, giáo dục và
công lý; nó được khám phá bằng tự quán, thiền định, và
chuyển hoá, và nó đưa dần đến việc từ bõ những điều không
thích nghi với nó. Suốt thời trị vì, ông đã kiên trì thực thi
những tin tưởng của mình cho đến cuối đời khi ông đồng hoá
với quan niệm chakraqvartin,
(Chuyển luân vương); tự cho mình là một minh quân đang vận hành
bánh xe chánh pháp khắp nơi để bảo toàn sự an sinh phúc lợi cho
mọi người.
Ô?g lại đặt ra một
bộ gọi là Bộ thực thi Chánh pháp hay Bộ Pháp Hành, bổ
nhiệm các quan đại thần gọi là dharmamahàmàtras (Pháp đại
thần) vào năm 257 TTL (theo dụ số V, 13 năm sau khi ông lên ngôi)
chuyên trông coi mọi công tác phúc lợi xã hội của người dân,
quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ, của dân sống
ở biên cương, đến các cộng đồng tôn giáo khác nhau và phải vô
tư khi thi hành công lý. Ô?g còn
phủ dụ cho các quan chức các cấp nên thuyết phục dân trong vịệc
ứng dụng Chánh pháp vào đời sống thường ngày hơn là ép buộc
bằng lệnh lạc. Ô?g
cũng uỷ thêm quyền cho những phán quan ở khắp nơi để ngăn ngừa
sự chểnh mảng công tác, cũng như tránh việc đối xử dã man với
súc vật và giải
quyết nhanh chóng những khó khăn gặp phải. Pháp dụ còn liệt kê
những thú rừng được triều đình bảo vệ không được săn bán.
Ông còn ra lệnh là những việc khẩn cấp cần phải được đệ
đạt đến ông ngay.
Những thành
tựu đáng kể còn được ca tụng đến bây giờ là việc xây
cất nhiều bệnh viện cho người và gia súc, cũng như cho
trồng nhiều khu vườn thảo dược, việc xây dựng rộng rải một hệ thống đường
sá với hàng cây đa và xoài phủ bóng bên lề, với giếng đào
và nhà nghỉ dọc đường ở từng
khoảng đều đặn cho khách lữ hành. Hệ thống giao thông này đã
làm cho việc thương mại và hành chánh của đế quốc Maurya phát
triễn thuận lợi nhiều mặt.
Đối
với thần dân ít khai ngộ thì Hoàng Đế Asoka khuyến khích việc ứng
dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày bằng thực hành những
giới đức chân thật (sace), từ bi, ôn hòa (daya), tử tế với mọi
người (samya
pratipati) hơn là thường bày trò cúng tế cầu xin ơn phước; nên
thường bố
thí (dana) cho người nghèo khổ (kapana
valaka), cho các vị tu hành, bạn bè, thân nhân vv..; hạn chế sát sinh, không hành
hạ súc vật (avihisa
bhutanam); không
xa xỉ, không tham cầu, và tránh dữ làm lành (apa
vyayata apa bhadata) [tựa theo lời dạy trong Kinh Tăng nhất A-hàm (Anguttara
Nikaya, II:282)]; biết kính trọng các bậc
trưởng thượng như cha mẹ, ông bà, sư phụ, và cả đối với bạn
bè, tôi tớ và thầy cúng tế bà la môn [tương tự lời dạy của
Đức Phật trong Trường Bộ Kinh (Digha
Nikaya) Đoạn 31]. Ô?g dạy rằng nếu làm
được như thế thì sẽ mang lại công đức vô lường.
Ông
không đề ra và bắt phải theo một nghi lễ tôn giáo độc đoán nào,
nhưng chỉ thuyết về Phật giáo riêng với giới tăng già mà thôi.
Đối với các tôn giáo khác đương thời, gồm có Ấn giáo, Kỳ
na giáo và giáo phái Ajivika chuyên tu khổ hạnh, ông rất công bằng và khuyến
khích sống đời đạo hạnh (bhava
sudhi), nhiệt
tâm (usahena),
tôn trọng
lẫn nhau, đề cao giá trị nội tâm (bahu
sruta), tự
chế (sayame) và
ngăn cấm việc xung đột tôn giáo. Ông
đã không ngừng học hỏi đàm đạo với các vị chân tu của các
tôn giáo.
Về hình thức thì các Pháp dụ
đã được phân loại theo dạng bề mặt đã được chạm khắc: mặt
núi đá tảng, trụ đá và hang động. Ngay cả bề mặt của vật liệu
và nơi chốn cũng hàm cái dụng công của nó, cho nên nội dung của
Pháp dụ cũng đổi thay tương ứng. Dựa vào các pháp dụ này mà
người ta có thể đoán được niên kỷ của các sự kiện trong
thời Asoka trị vì.
Có thể phân biệt được hai giai
đoạn các bia ký được tạo ra. Giai đoạn đầu, 11 năm sau khi Asoka
lên ngôi, các pháp dụ đước khắc trên vách đá một cách thô
thiển, và tuỳ vào nội dung dài ngắn mà còn chia ra là Đại Thạch
Pháp dụ (Major Rock Edicts) và Tiểu Thạch Pháp dụ (Minor Rock Edicts). Những
Thạch Pháp
dụ này thường được khắc trên những tảng núi đá lớn đến
nay đã bị hư hỏng khá nhiều. Lấy
trường hợp bia ký ở Sopara, chỉ vài mảnh của dụ VIII và IX còn
sót lại. Nhờ vào những văn bản khác còn được bảo quản tốt
mà người ta đọc được những đoạn bị mất ở những pháp dụ
bị hư hỏng.
Cho
đến nay người ta phát hiện có 14 đại thạch pháp dụ mang nội dung
rất rộng rãi từ việc hạn chế sát sinh đến cung cấp các dịch vụ
phúc lợi và y tế, rồi đến cuộc chiến ở Kalinga và những tác
dụng của nó. Lại thêm hai pháp dụ Kalinga đựơc ban ra vào năm măm
259 TTL, có học giả còn gọi là pháp dụ số 15 và 16. (mà nội dung
tương tự như 3 pháp dụ đã bị hư hõng, là các pháp dụ số XI:
nói về việc cứu tế và sự tương thân của nhân loại, số XII:
nói về sự khoan dung tôn giáo và XIII: nói về cuộc chíến tranh
ở Kalinga, sự hồi tâm của Asoka).
Hai pháp dụ này cũng có lời
dành cho các quan cai trị vùng mới chiếm, nói về những vấn đề
đạo đức, thi hành công lý, vấn đề làm giảm căng thẳng với
lân bang và cải thiện hoà bình liên quốc.
Mười bốn đại thạch pháp dụ kể trên được tìm thấy ở 6
nơi khác nhau gồm: hai nơi gần biên giới phía tây của đế quốc
Maurya bên biển Ả Rập là Sopara thuộc bang Bombay và Girnar thuộc bang
Saurahtra; hai nơi gần biên giới tây bắc là Mansehra và Shahbazgarhi ở
vùng tây Pakistan; một nơi ở phía bắc là Kalsi thuộc Uttar Pradesh và
một ở phía nam Erragudi thuộc Andhra Pradesh.
Mười một đại thạch pháp dụ cùng với 2 pháp dụ
Kalinga còn được tìm thấy ở Dhauli và Jaugada thuộc Orissa, gần bờ
biển phía đông bên vịnh Bengal.
Những Tiểu Thạch Pháp dụ
có lẽ đã được ban ra vào năm 260 TTL và là những Pháp dụ đầu
tiên, cùng lúc với những chuyến vi hành Pháp bắt đầu. Chúng tập
trung hầu hết ở phía giữa và nam của đế quốc gồm Tiểu Thạch
Pháp dụ I, được tìm thấy tại 7 nơi ở bắc A? và Hyderabad: là
Bairat, Gavimath, Maski, Palkigundu, Gujarra, Rupnath và Sahasram. Tiểu Thạch Pháp
dụ II được tìm thấy tại 5 nơi ở phía nam là Brahmagiri,
Jatinga-Ramesvara và Siddaoura thuộc bang Mysore, Erragudi và Rajula-Mandagiri
thuộc bang Andhra. Tiểu Thạch Pháp dụ III (pháp dụ dành cho tăng già
ban ra vào năm thứ 12 sau khi lên ngôi) được tìm thấy ở Bairat.
Ở giai đoạn sau, vào năm thứ
27 đến 28 dưới triều của hoàng đế Asoka, những pháp dụ mới
đươc khắc lên trên những cột đá đánh chà bóng loáng, được
dựng lên ở nhiều thành phố quan trọng trong thung lũng sông Hằng
và các đường lớn trong đế quốc, thường được gọi là Thạch
trụ Pháp dụ (Pillar Edicts). Lúc ban đầu có lẽ có rất nhiều pháp
trụ được dựng lên, nhưng đến nay chỉ còn lại có 10 trụ mà
thôi. Mồi trụ trung
bình cao khoảng từ 12 đến 15 thước, nặng đến 50 tấn. Trên đầu
mỗi trụ đều được điêu khắc những hình tượng thật tinh xảo
như sư tử gầm, con bò thần hay con ngựa thánh vv.. Tất cả thạch
trụ đều được lấy từ các mõ ở Chunar, phía nam Varanasi và
được kéo đến nơi được dựng lên, nhiều khi xa cả hàng trăm
dặm. Dù sau bao nhiêu thế kỷ phơi giữa mưa nắng gió sương vậy mà
nước bóng láng vẫn còn sáng như gương, đủ nói lên chất lượng
cao tuyệt của nghệ thuật tạc đá của A? thời bấy giờ.
Hai
đại sư Trung quốc hành hương Tây trúc (A?) là Pháp Hiển (Fa Hien:
401 410 TL.) ghi là đã nhìn thấy 6 pháp trụ, và Huyền Trang (Hiuen
Tsang hay Yuan Chwang: 629 645 TL) thì đã thấy 15, trong số ấy ngày nay
chỉ 2 còn tồn tại đúng theo lời Huyền Trang mô tả trong ký sự.
Những pháp thạch trụ dựng ở Meerut và Topra đã được vua Sultan
Driuz Shah dời về Delhi ở thế kỷ 14. Trụ tại Kausambi (thuộc bang Kosam ngày
nay) cũng
đã được vua Akbar dời về Allahabad ở thế kỷ 16. Một số lớn
khác có lẽ đã bị chôn vùi, che phủ bởi rừng rậm theo thời gian thăng trầm, vật đổi sao
dời.
Các
Thạch trụ Pháp dụ này gồm 7 dụ mà nội dung tương đối đơn giản:
bắt đầu bằng hai trụ nói về tự tánh của Chánh pháp, đến 3 trụ
nói về sự ứng dụng Chánh pháp vào việc chế ngự ác nghiệp và
tham ái, việc truyền bá đạo đức và công lý, và những qui định
về việc sát hại súc vật và tiệc tùng công cộng, và kết thúc
với một pháp dụ (hoặc 2 như trong trường hợp của trụ Topra) nói
về phương thức truyền bá đạo đức. Những
thạch trụ Pháp dụ này đã được tìm thấy ở rãi
rác trên 30 nới kháp toàn cõi đế quốc Maurya bao gồm A? độ,
Nepal, Pakistan và Afghanistan ngày nay, như Meerut và Kausambi thuộc Utter Pradesh,
Lauriya-Araraj, Lauriya-Nandangarh và Rampurva thuộc Bihar. Một trụ khác với
dụ thứ 7 lại được tìm thấy tại Topra thuộc vùng đông Punjab. Văn
bản của bia ký trên các Thạch trụ Pháp dụ này giống hệt nhau.
Trụ
Allahabad lại có khắc thêm 2 dụ khác. Dụ thứ nhất, có khi được
gọi là tiểu thạch trụ pháp du I, cũng còn thấy xuất hiện ở Sanchi
thuộc bang Bhopal và tại Sarnath thuộc bang Uttar Pradesh. Bia ký không
được bảo quản tốt nên văn bản của bia ký trên trụ ở ba nơi
có nhiều thay đổi.
Trụ
tại Sarnath (nơi có vườn nai: Lộc Uyển) lại còn khắc thêm phần
tiếp theo của dụ trên trụ Allahabad, còn gọi là tiểu thạch trụ
pháp dụ II. Ngày nay chính phủ Ấn dùng hình tạc bốn con sư tử đâu
lưng với nhau trên thạch trụ Sarnath làm biểu tượng quốc gia. Dụ
còn lại thứ hai trên trụ Allahabad có khi được gọi là tiểu thạch
trụ pháp dụ III, là quà tặng của một bà hoàng hậu của vua Asoka,
nên còn được gọi là Pháp dụ của Hoàng hậu.
Hai
trụ tìm thấy ở Nepal là trụ ghi dấu thánh địa, một ở Rummindei hay
Lumbini, nơi đức Phật đản sanh, một gần hồ lớn Nigali Sagar, gần
tháp giữ xá lợi của cổ Phật Kanakamuni.
Những
hang động pháp dụ (The Cave Edicts) được tìm thấy ở 3 trong số 4 hang
trong dãy núi Barabar thuộc bang Bihar. Trong 2 hang trước có bia ký của
Hoàng đế Asoka ghi vào năm thứ 12, hang thứ ba ghi năm thứ 19 sau khi
ông lên ngôi, tặng các hang động như là nơi cư trú cho các nhà tu
khổ hạnh thuộc giáo phái Ajivika, mà giáo chủ là Gosala cùng thời
với Đức Thích Ca. Trong hang thứ 4 thì bia ký được ghi lại thuộc
thế kỷ thứ 5 TL sau này. Ở một nơi khác là đồi Nagarjuni có 3 hang
động nữa chứa bia ký đề tặng cho tu sĩ phái Ajivika của một vị vua
dùng tước vị Thiên tử , nhưng lại do vua Dasaratha, cháu
của hoàng đế Asoka cho dựng lên.
Vị trí của Hoàng đế Asoka trong
Phật giáo thật là vinh hiễn, có thể nói là được tôn sùng lên
hàng Hộ Pháp Vương. Những công đức của ông thường được
giới Phật tử ca tụng là lòng sùng bái và hổ trợ?Phật giáo
của ông. Asoka cho xây cất nhiều tháp thờ xá lợi Phật (stùpa),
nhiều tịnh xá (vihàra). Kinh sách còn ghi là 84 ngàn vihàras ở 84
ngàn thị trấn, và ngôi lớn nhất Asokàràma ở ngay kinh đô để vua
thường đến cúng bái. Ông đã chu cấp thực phẩm cho hàng trăm
ngàn tăng ni, vì thế thời bấy giờ đã có nhiều kẽ xấu lợi
dụng khoác áo nhà tu gia nhập tăng chúng để được sống an nhàn.
Điều này đã đưa đến tình trạng suy đồi trong việc tu tập Phật
pháp. Khi biết ra tệ nạn, Asoka liền ra lệnh cho thanh lọc hàng ngũ
tăng già và đã loại bõ đến 60 ngàn kẽ ngụy danh và ăn bám
trước kỳ Đại hội kiết tập kinh điển (sangìti) lần thứ 3 tại kinh
đô Pâtaliputrâ do ông bảo trợ.
Ông thường đi hành hương chiêm
bái những Phật tích và cho dựng những cột trụ đá tán thán, mà
gần đây nhiều cuộc khảo cổ đã phát hiện được ở Lumbini nơi
Đức Thích Ca đản sanh, hay ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh
Gaya) mà
thời ấy được gọi là Sambodhi
hay Vajirasana. Riêng thạch trụ ở Bồ đề Đạo tràng lại có khắc
Pháp dụ số VIII ban ra vào năm thứ 10 sau khi ông đăng quang. Ông còn đề ra một chương trình tu
h?c Phật pháp cho tín đồ. Ông cũng cho dựng những trụ đá ghi
sự liễu ngộ Phật pháp của ông (như trên Tiểu thạch pháp dụ).
Ông thường trực tiếp phân xử những cuộc tranh luận giữa các
tông phái và cương quyết ngăn chặn những sự phân hoá trong tăng
già.
Cũng nhờ sự hộ pháp của ông
mà Phật
giáo đã được lan rộng khắp đế quốc Maurya, và đến các nước
lân cận. Cũng
theo bộ Mahavamsa ở Tích Lan thi khi Hội đồng tăng già trong nước
quyết định muốn truyền bá Phật pháp ra nước ngoài, vua Asoka liền
giúp đở tích cực, còn phái ngay cả hoàng tử Mahinda
và công
chúa Sanghamitta,
(và về sau cả đứa cháu Sumana) vào đoàn truyền giáo xuống Tích
Lan vào năm thứ sáu dưới triều của ông, cũng như gởi những
đoàn khác đến vùng Đông Nam Á và Trung Á. Ông còn gởi những
đoàn sứ giả (duta) đến 5 nước phía tây thuộc đế quốc Hy lạp
mãi đến vùng biển Địa Trung Hải (Mediteranean) từ Syria đến Macedonia,
như đã ghi trong pháp dụ số XIII.
Trong khi những đoàn
truyền giáo qua hướng tây không mấy thành công thì những tăng
đoàn hoằng hoá do hoàng tử Mahinda và công chúa Sanghamitta hướng
dẫn xuống phía nam lại thành công rực rỡ. Ngay từ buổi đầu cho
đến nay Phật giáo đã trở thành quốc giáo ở Tích Lan. Có truyền
thuyết cho rằng phái Thượng toạ bộ còn được truyền đến Miến
Điện từ Tích Lan dưới triều Asoka, nhưng ai cũng bíết rằng Phật
giáo chỉ du nhập Miến vào khoảng từ thế kỷ thứ 5 TL.
Đáng tiếc là sau khi ông mất vào năm
232 TTL thì đế quốc Maurya rộng lớn cũng tan rã theo khoảng 50 năm sau,
và rồi bị giòng họ Shungas thay thế; và những công tác phúc lợi
xã hội do ông đề xướng cũng không kéo dài được lâu trừ
những pháp dụ khắc vào đá và ảnh hưởng truyền bá đạo Phật
qua Đông Phương.
Trần Trúc-Lâm
Seattle, Chớm thu 2001
Xem tiếp: PHẦN II: NỘI DUNG CỦA CÁC PHÁP DỤ CỦA VUA ASOKA.
| Xem bài thứ 2 |
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới | Tủ sách
Phật Học |
---o0o---
Cập
nhật: 01-04-02