TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
BÁT NHÃ VÔ TẬN
TẠNG CHÂN NGÔN
Nạp mô bạc già phạt đế bát nị
nhã ba la mật đa dậy. Đát điệt tha. A? lột rị địa rị thất rị
tuất rô tri tam mật lật tri Phật xả dậy. Sa ha .
Phật rằng Vô tận tạng chân ngôn
thật là mẹ chư Như lai. Dầu hay trì tụng thần chú ấy, hết thảy
tội nghiệp đều cũng tiêu diệt. Lại được chính trí, biết quá
khứ kiếp túc mạng nhân duyên, chỗ nghe chính pháp hằng nhớ chẳng
quên. Bèn kíp chứng được vô thượng bồ đề .
KIM CƯƠNG TÂM CHÂN NGÔN
Án ô luân ni. Sa bà ha
Trước hết lại dạy trì Kim cương
tâm chú là bản tâm vậy. Quá khứ chư Phật cũng lấy Kim cương
tâm làm nhân, mà tu, bèn mới chứng nên Phật quả. Dẫu nhẫn ra
đời giáo hoá chúng sinh, dạy chư Bồ tát cũng lấy Kim cương tâm
mà tu, mới được vào đại thừa pháp. Trước hiển, sau mật, dầu
tụng Kim cương kinh, hằng niệm chân ngôn, ấy ắt chẳng thối chuyển
vậy .
TÁN
Tán là lời khen ngợi pháp bát
nhã này, lấy làm mẹ hết thảy chư kinh. Quá khứ chư Phật cũng
nương pháp này mà được thành tựu. Hiện tại chư bồ tát cũng
lấy pháp này mà độ chúng sinh. Vị lai hành nhân cũng nhờ pháp
này, mà được kiến tính vậy .
Đoạn nghi sinh tín
Tuyệt tướng siêu tôn
Tồn vong nhân pháp giải chân không
Bát nhã vị trùng trùng
Tứ cú dung thông
Phước đức thán vô cùng
Đoạn nghi sinh tín là Tu Bồ Đề nhân
Phật phá nghi, bèn minh tự kỷ chân tâm, dứt rồi chúng sinh phiền
não vọng tưởng. Kinh này một vị, chỉn thật đoạn nghi sinh tín, lấy
làm chủ vậy. Như lai chỗ truyền niết bàn diệu tâm chính pháp nhãn
tạng, lấy Kim cương bảo kiếm đoạn trừ tình hoặc vi tế tứ
tướng, biết được chân như, lý nhân pháp đều không, mới
chứng chân không vậy. Bát nhã nguyên tùng chân như tâm lưu ra.
Hết thảy muôn pháp chư kinh lấy kinh Kim cương làm cốt tủy. Kinh Kim
cương lại lấy tứ cú kệ làm cốt tủy. Dầu hay liễu đạt dung
thông sự lý, vì người diễn thuyết tự lợi, lợi tha, ắt thật
thành tựu pháp thân, chứng nên hà sa phước đức. tán thán vô
cùng vô tận vậy .
Nam mô Kỳ viên hội thượng Phật
bồ tát
Diễn thuyết đại bộ Bát nhã kinh khi
Phật trụ vương xá thành non Thứu Phong. Hội thứ nhất diễn thuyết
400 quyển. Hội thứ hai diễn thuyết 78 quyển. Hội thứ ba diễn thuyết
59 quyển. Hội thứ tư diễn thuyết 18 quyển. Hội thứ năm diễn
thuyết 10 quyển. Hội thứ sáu diễn thuyết 8 quyển .
Khi Phật trú Thất la phiệt thành,
viện Cấp cô viên, hội thứ bảy diễn thuyết 2 quyển, hội thứ tám
diễn thuyết 1 quyển, hội thứ chín diễn thuyết 1 quyển .
Khi Phật lên tha hoá tự tại thiên
cung, trên điện Mạt ni bảo tạng, hội thứ mười diễn thuyết 2
quyển .
Khi Phật lại về trú Thất la phiệt
thành, viện Cấp cô viên, hồi thứ mười một diễn thuyết bố thí
ba la mật 5 quyển, hội thứ mười hai diễn thuyết giới ba la mật năm
quyển, hội thứ mười ba diễn thuyết nhẫn nhục ba la mật 1 quyển,
hội thứ mười bốn diễn thuyết tinh tấn ba la mật 2 quyển .
Khi Phật lại trú Vương xá thành non
Linh Thứu phong, hội thứ mười lăm diễn thuyết thiền định ba la mật
3 quyển. Hội thứ mười sáu Phật lại trụ Vương xá thành viện
Trúc lâm viên diễn thuyết trí tuệ la la mật tám quyển .
Trước sau hết thảy vừa mười sáu
hội, kể được sáu trăm hai quyển. Khi thì Phật dạy thanh diễn
thuyết. Khi thì Phật dạy bồ tát diễn thuyết. Một quyển Kim cương
bát nhã này, lời Phật kim khẩu thân truyền, diễn thuyết vừa khi
hội thứ chín ở nơi Thất la phiệt thành, viện Kỳ thọ Cấp cô
độc viên, kể từng quyển, năm trăm thứ bảy mươi bảy.
Kinh này là đại thừa giáo. Như lai
vì người phát đại thừa tối thượng thừa, mà diễn thuyết. Vì
vậy khi tụng kinh rồi, bèn niệm rằng :
Nam mô Kỳ viên hội thượng Phật
bồ tát .
KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH
Hoàn
GIỚI THIỆU
GIẢI DI ĐÀ KINH
Kinh A Di Đà, kể từ ngày Cưu Ma La
Thập (Kumarajìva) dịch vào năm 402 từ bản tiếng Phạn Sukhavatìyùhà,
hiện còn được bảo tồn, chắc chắn đã được các Phật tử
Việt Nam biết tới và đọc tụng. Nhưng các tư liệu hiện thấy, ta
không có bất cứ một thông tin nào ghi nhận về sự xuất hiện của
nó, cho đến khi Minh Châu Hương Hải viết Giải Di Đà kinh. Cho nên
để hiểu cụ thể lịch sử phát triển của tư tưởng tịnh độ ở
nước ta, Giải Di Đà kinh có vị thế xung yếu .
I.TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Văn bản chúng tôi hiện sở hữu
là bản in năm Minh Mạng thứ 14 (1833), khổ 13*27, gồm 43 tờ, trong đó
2 tờ đầu in bài tựa cho việc khắc lại các kinh (Trùng san chư kinh
tự), 39 tờ đánh số liên tục từ 1 đến 39 in Giải Di Đà kinh, và
2 tờ cuối cùng đề trên gáy là Di Đà kinh mạt ghi tên những
người ủng hộ tinh thần và vật chất cho việc in lại bản giải kinh
này. Mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 8 dòng chữ cỡ lớn và 16 dòng cho
cỡ chữ in nhỏ. Chữ cỡ lớn in chính văn chữ Hán, còn chữ
cỡ nhỏ để in lời giải bằng tiếng Việt quốc âm. Mỗi dòng chữ
lớn có 17 chữ, còn chữ nhỏ có 16 chữ. Đây là một bản in
đẹp, chữ khắc rõ ràng dễ đọc, tương đối không có sai sót gì
nhiều, tuy nhiên đôi khi cũng có khắc lộn chữ này qua chữ kia mà
dễ thấy nhất là chữ cùng hay cũng ( ) thường hay bị khắc thành
chữ kỳ ( ).
Người đứng bản in này căn cứ
bài tựa Trùng san chư kinh tự là Thiền sư Từ Tường, thuộc chùa
Linh Sóc, xã Hà Hồi. Theo bản in của bài tựa đây thì tên xã là
Hà Huýnh, nhưng căn cứ vào danh sách những người cúng bản gỗ
để in kinh thì ta có tên Hà Hồi xã. Hơn nữa theo Các tổng trấn
xã danh bị lãm, trong các làng xã Việt Nam ở miền Bắc vào đầu
thế kỷ 19, không có xã nào tên Hà Huýnh cả, mà chỉ có tên xã
Hà Hồi, thuộc tổng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín,
trấn Sơn Nam thượng (tức thuộc huyện Thường Tín, Hà Tây ngày
nay). Vì chưa có điều kiện điều tra thực địa về ngôi làng Hà
Hồi này, cho nên chúng tôi không biết làng này có ngôi chùa nào
tên Linh sóc không. Do thế, về vị thiền sư Từ Tường, ta hiện chưa
biết rõ lai lịch .
Trong 2 tờ cuối ghi tên những
người ủng hộ tinh thần và vật chất cho việc in lại Di Đà kinh
(Trùng san Di Đà kinh) ta thấy liệt kê một loạt tên những vị
"chứng san" như đại đức Thanh Hoà chùa Hoa Lâm, đại đức
Trí Thủy chùa Sùng Phúc, tỷ kheo Từ Tạng, tỷ kheo Từ Dung, tỷ kheo
Chiếu Huyên, tỷ kheo Thanh Nhã, tỷ kheo Bảo Đỉnh, tỷ kheo Thanh Khê,
v.v
Nhưng những người này hiện tại cũng chưa rõ lai lịch, nên
cũng không giúp gì được việc truy tìm lại tiểu sử của thiền sư
Từ Tường .
Người viết tựa cho lần in này có
tên là Đặng Hy Hiến. Hy Hiến rõ ràng là tên chữ, tên thật là
gì ta hiện chưa biết. Ông viết lời tựa ở tại thư xá của ông
gọi là Tiên thị. Và tự nhận mình là một nhà Nho. Ông chỉ giữ
chức trách viết tựa, mà không có tham gia vào việc chỉnh cú hay
sửa lại sai sót của những bản in trước. Việc chỉnh cú này theo
ông là do thiền sư Từ Tường thực hiện. Về nhân vật Đặng Hy
Hiến này, cũng trong bảng danh sách những người ủng hộ in kinh, có
ghi tên một cử nhân khoa Tân mão tên là Đăng Văn Kham, thuộc
thôn Cự Đình, xã Lộc Đình, huyện Văn Giang, phủ Thuận An (nay thuộc
tỉnh Hưng Yên). Theo Quốc triều hương khoa lục 1 tờ 49a7, thì đúng là
năm Minh Mạng thứ 12 Tân mão (1831) trong những người đậu cử
nhân tại trường thi Thăng Long có tên Đặng văn Kham. Và cũng theo
sách này thì Đặng Văn Kham làm quan đến chức A? sát ở Quảng
Nam, sau đó bị tội, nhưng không cho biết ông có tên hiệu là gì,
nên cũng không thể đồng nhất Đặng Hy Hiến với Đặng văn Kham.
Về sự việc này cũng cần điều tra thêm mới làm rõ được .
Ngoài Đặng văn Kham, bản danh sách
này cũng có ghi thêm tên đường huynh của Kham là tú tài Đặng
văn Chính. Song một lần nữa, về Đặng văn Chính ta cũng không biết
gì hơn, nên không thể bình luận gì về quan hệ với Đặng Hy Hiến .
Dẫu vậy, lời tựa của Đặng Hy
Hiến đã cho ta biết ít nhiều về bản đáy, mà thiền sư Từ Tường
đã dùng để in lại Giải Di Đà kinh. Theo Đặng Hy Hiến, do việc khi
đem in thì các bản gỗ xưa bị thiếu, nứt và sứt nát, vị thiền sư
đã bổ xuyết vào những chỗ thiếu và mất, để đem khắc bản (cổ
bản khuyết liệt, hoán mạn chi dư, bổ xuyết lậu đật, phục phó kỷ
quyết). Tuy nhiên, bản in chúng ta có hiện nay không có dấu hiệu gì
để giả thiết có 2 loại bản gỗ khác nhau, tức bản khắc cũ và
bản khắc mới do Từ Tường bổ sung vào. Nói khác đi, đây là
một bản khắc hoàn toàn mới. Vậy khi khắc bản gỗ cho lần in này,
Từ Tường chắc đã có trong tay một văn bản của lần in trước,
và lần in trước này có khả năng cách Từ Tường khá lâu, bởi
vì lối chữ quốc âm thường có những chữ giả tá của thế kỷ
18. Ví dụ như chữ đến, viết là điển, không có chữ chí cạnh
bên; chữ suốt viết là
v.v. Hiện ta không biết trước lần in
này còn bao nhiêu lần in nữa, nhưng chắc chắn ta biết bản in
củaTừ Tường là dựa vào 1 bản in trước đó, vì nó có nói
đến bản gỗ khắc cũ .
Văn bản này có mấy tên gọi khác
nhau. Từ tờ 1 trở đi, tên gọi chính là Phật thuyết A Di Đà kinh
sớ sao tự. Rồi tờ 7 có tên là Phật thuyết A Di Đà kinh. Nhưng
trên gáy tất cả từ tờ 1 đến tờ 39, trừ tờ 4 đến tờ 6
đều gọi là Di Đà kinh thích giải hoa ngôn. Còn tờ 4 đến tờ 6,
trên gáy chỉ có Di Đà kinh. Hai tờ ghi danh sách những người cúng
kinh cũng ghi là Di Đà kinh. Như thế, ở đây ta có những tên gọi
khác nhau của bản văn giải thích này. Tuy nhiên, cứ vào Hương hải
thiền sư ngữ lục, ta có tên Giải Di Đà kinh. Tên này được ghi
vào trong số các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải và được lưu
hành để những người khác chép lại, thì rõ ràng nó tương đối
phổ thông. Hơn nữa, vì nó được ghi vào trong Hương hải thiền sư
ngữ lục, mà cuốn ngữ lục này lại in vào năm 1847. Vì thế, nó
phần nào có tính cổ sơ khi so với tên của bản in chúng ta hiện
có. Chúng tôi do thế đề nghị gọi văn bản mà chúng ta hiện sở
hữu trong tay bằng tên gọi Giải Di Đà kinh .
II.NĂM BIÊN SOẠN VÀ NGUỔN TÀI LIỆU
Theo Hương hải thiền sư ngữ lục thì
các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đều viết tại chùa Nguyệt
Đường, nghĩa là từ những năm 1685 trở về sau cho đến khi ông
mất vào năm 1715. Thế thì trong gần 30 năm này, ông đã viết Giải
Di Đà kinh vào thời điểm nào. Theo chúng tôi nghĩ vì Minh Châu
Hương Hải đánh giá rất cao phương pháp niệm Phật tịnh độ, đặc
biệt là khi ông ra ở tại viện Thiền tịnh của núi Quy Thái, tỉnh
Thừa Thiên bây giờ, tức vào khoảng năm 1665, chắc chắn ông đã
quan tâm đến các văn hiến liên hệ với phương pháp tu hành này,
trong đó có bộ A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng (1535-1615). Thực
tế như sẽ thấy dưới đây, Giải Di Đà kinh là một bộ thích giải
chủ yếu dựa vào A Di Đà kinh sớ sao vừa nói. Điểm lôi cuốn là
sau khi Châu Hoằng mất không lâu, tác phẩm của ông đã được
truyền qua nước ta và được Minh Châu Hương Hải biết tới. Có
khả năng ông đã biết đến tác phẩm này từ những ngày ông
còn ở miền Nam, tức vùng Thuận hoá và Quảng nam. Dẫu sao đi nữa,
dù biết trước khi ra Bắc hay sau đó, điều chắc chắn là trong thế
kỷ thứ 17, tác phẩm của Châu Hoằng đã phổ biến rộng rãi bên
ngoài Trung quốc. Sự kiện này cho chúng ta một nhận định khá hấp
dẫn về tình trạng giao lưu văn hoá giữa các dân tộc vào thế kỷ
ấy. Đó là đã có sự giao lưu thường xuyên và đồng thời
giữa các nền văn hoá của các dân tộc khác nhau thời đó, đặc
biệt trong đó có cả văn hoá Phật giáo .
Theo phân tích hiện nay về Giải Di
Đà kinh, thì tuy Minh Châu Hương Hải đã dựa vào A Di Đà kinh sớ
sao, nhưng ông đã không hoàn toàn bám sát tác phẩm của Châu
Hoằng. Tác phẩm của Châu Hoằng gồm 4 quyển, giải thích rất dông
dài từng đoạn văn 1. Bây giờ nếu ta so sánh giữa 2 tác phẩm
của Châu Hoằng và Minh Châu Hương Hải thì không thấy có sự bám
sát sít sao. Chẳng hạn, ngay câu đầu của bài tựa :"Linh minh
động triệt, trạm tịch thường hành, phi trọc phi thanh, vô bối vô
hướng. Đại tai chân thể, bất khả đắc như tư nghị giả, kỳ duy
tự tánh du", Châu Hoằng đã dùng đến 1026 chữ để giải thích,
tức "sớ sao". Trong khi đó, Minh Châu Hương Hải chỉ dùng hơn
100 chữ Việt để vừa dịch vừa giải thích câu đó. Nói thế có
nghĩa là Minh Châu Hương Hải đã tóm tắt A Di Đà kinh sớ sao và
giải thích lại bằng tiếng Việt .
Tuy nhiên, không phải bao giờ Minh
Châu Hương Hải cũng tóm tắt một cách trung thành những lời giải
thích của Châu Hoằng. Lấy thí dụ, khi giải thích về tên Cấp Cô
Độc, thì ai cũng biết đây là tên dịch tiếng Hán của Anathapindika,
một cư sĩ đệ tử nổi tiếng của Đức Phật và nổi tiếng vì ông
thường hay bố thí cho những người cô và độc tức những trẻ em
không cha mẹ và người già không vợ con. Thế mà trong Giải Di Đà
kinh, Minh Châu Hương Hải đã giải thích Cô Độc như sau :"Cô
Độc là thầy tu, trên từ lục thân gọi là Cô, dưới xả thê
tử gọi là Độc". Đây là lời giải thích mà ta không tìm
thấy trong A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng. Thực tế về vị cư sĩ
nổi tiếng này, Châu Hoằng viết :"Cấp Cô Độc, trẻ mà không
cha gọi là Cô, già mà không con gọi là Độc, nay chỉ nơi không
nương tựa, không nuôi dưỡng, thì gọi là Cô Độc", như A Di
Đà kinh sớ sao 2 tờ 376a8-9 (188c8-9) đã ghi. Nói khác đi, ta không
tìm đâu ra cách giải thích Cấp Cô Độc liên hệ với thầy tu như
Minh Châu Hương Hải đã có .
Nói tóm lại, khi viết Giải Di Đà
kinh, Minh Châu Hương Hải đã dựa vào A Di Đà kinh sớ sao, lấy đây
làm nguồn tư liệu chủ yếu, nhưng rút gọn bớt tới gần 90 % và
thêm vào những kiến giải riêng của mình. Chính những kiến giải
thêm này đã làm nên bộ mặt riêng của Giải Di Đà kinh .
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Giải Di Đà kinh được tổ chức
trong bản in lần này thành 3 phần. Trong 39 tờ đánh số liên tục, ta
thấy 6 tờ đầu dành cho phần giải thích lời tựa của A Di Đà kinh
sớ sao. Tờ thứ 6 ghi lại nghi thức đọc kinh, 33 tờ còn lại hoàn
toàn dành cho việc giải thích A Di Đà kinh, bản dịch của La Thập và
dựa vào A Di Đà kinh sớ sao. Vì dựa vào A Di Đà kinh sớ sao, cho
nên cách giải thích của Minh Châu Hương Hải bị ảnh hưởng của
Châu Hoằng. Thứ nhất, khi viết A Di Đà kinh sớ sao, Châu Hoằng đã
nói rõ ông dựa vào Hoa Nghiêm kinh sớ diễn nghĩa sao của Trừng
Quán (738-840) để có tên là "sớ sao". Sớ là để giải
thích kinh và sao để tóm tắt ý nghĩa của những giải thích đó. Vì
chịu ảnh hưởng của Trừng Quán, tức tư tưởng Hoa Nghiêm nên
Châu Hoằng mới đề ra lối giải thích đặc thù của riêng mình gọi
là xứng lý, mà Minh Châu Hương Hải đã tiếp thu và cải biên.
Một trong những nét cải biên dễ thấy nhất là Minh Châu Hương Hải
đã gộp sớ và sao vào một, bằng chính việc ông ghi lời sớ sao
rằng. Trong khi đó, Châu Hoằng phân chia ra rành rẽ giữa sớ và sao.
Thông thường, sao còn được viết dài hơn sớ nữa.
Mặt khác, thời kỳ A Di Đà kinh sớ
sao ra đời là thời kỳ phong trào tâm học của Vương Dương Minh
(1472-1529) phát triển rầm rộ, vì thế khi viết A Di Đà kinh sớ sao,
Châu Hoằng đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ lý luận tâm học của phong
trào ấy. Điều này ta có thể thấy rõ ngay câu đầu của lời
tựa, khi Châu Hoằng viết :"Linh minh động triệt, trạng tịch
thường hằng". Linh minh là một phạm trù đặc biệt của tư
tưởng tâm học Vương Dương Minh. Trong Truyền tập lục quyển hạ,
Vương Dương Minh đã xác định :"Linh minh của ta là chúa tể của
trời đất quỷ thần
Trời đất quỷ thần vạn vật, mà rời linh
minh của ta, thì không có trời đất quỷ thần vạn vật và linh minh
của ta, mà rời trời đất quỷ thần vạn vật, thì không có linh minh
của ta nữa". Cho nên, khi viết Giải Di Đà kinh, Minh Châu Hương
Hải cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng tâm học Vương
Dương Minh .
Bố cục của A Di Đà kinh sớ sao gồm
3 phần . Phần thứ nhất trình bày tổng quát, thể hiện qua bài tựa
nói lý do tại sao viết bản giải thích này. Đó là vì các bản sớ
xưa quá giản lược và ít lưu hành ở đời, cho nên phải viết
lại. Phần thứ hai là giải thích văn nghĩa, gồm 10 vấn đề. Một là
lý do xuất hiện của Phật giáo nói chung và Kinh A Di Đà nói riêng.
Hai là vấn đề phán giáo, tức xếp loại kinh này thuộc loại gì. Ba
là vấn đề đốn tiệm, tức xếp phương pháp tu hành của kinh này
thuộc dạng tông phái nào. Bốn là nói về đối tượng nhắm tới
của kinh này, tức những ai có thể thực hành được. Năm là bản
chất giáo lý của kinh. Sáu là chủ trương của kinh. Bảy là bộ
loại của kinh. Tám là vấn đề dịch giải và trì tụng. Chín là giải
thích tên kinh. Và mười là giải thích văn bản của kinh. Trong 10 vấn
đề này, Châu Hoằng còn chia làm nhiều đoạn nhỏ. Riêng 2 vấn đề
cuối cùng tức giải thích tên kinh và giải thích văn bản kinh, thì
Châu Hoằng còn chia thành nhiều tiểu đoạn nữa. Đặc biệt về vấn
đề giải thích văn bản kinh, Châu Hoằng đã sử dụng lại lối phân
đoạn của các nhà chú giải xưa nay, tức là chia nó làm 3 đoạn
nhỏ, gồm đoạn tựa, đoạn chính tông và đoạn lưu thông. Riêng
trong đoạn lưu thông, một nét khác của Châu Hoằng là gồm vào trong
kinh bài A Di Đà chú .
Nội dung và quan điểm của A Di Đà
kinh sớ sao là thế. Minh Châu Hương Hải khi viết Giải Di Đà kinh
cũng đã bám sát tuy sơ lược như đã nói. Điểm cần chú ý là
tại sao Minh Châu Hương Hải lại chọn A Di Đà kinh sớ sao, trong số
các bản giải thích về kinh A Di Đà được biết ở thời ông. Ví
dụ A Di Đà kinh sớ của Trí Viên (1177-1022) và xưa hơn nữa là của
Khuy Cơ (632-682), của Nguyên Hiểu (618-686) v.v
Nói khác đi, trước
khi Châu Hoằng viết A Di Đà kinh sớ sao, ta có nhiều bản giải thích
khác nhau về kinh A Di Đà của những nhà chú giải nổi tiếng như Khuy
Cơ , Nguyên Hiểu v.v
Trả lời câu hỏi trên, ta cần chú ý đến
tình hình học thuật và tư tưởng thời Minh Châu Hương Hải tại Trung
quốc cũng như nước ta. Ở Trung quốc như đã thấy, phong trào tâm
học của Vương Dương Minh đang phát triển mạnh mẽ. Còn ở nước ta,
tại vùng đất Minh Châu Hương Hải sống trước khi ra Bắc, tức
khoảng từ năm 1647 trở đi, 1 trong những người theo thuyết Vương
Dương Minh nổi tiếng là Chu Thuấn Thủy đã đến nước ta. Chu Thuấn
Thủy đã sống ở nước ta 10 năm nhưng không được các chúa
Nguyễn trọng dụng, nên sau đó qua Nhật và nhập tịch vào nước này
năm 1657. Chính Chu Thuấn Thủy đã truyền tư tưởng tâm học của
Vương Dương Minh cho học giới Nhật bản, đặt nền móng cho sự phát
triển nền tâm học, mà sau này đã tác động mạnh mẽ đến phong
trào duy tân thế kỷ 19 do Minh Trị lãnh đạo. Thời gian 10 năm sống
tại Quảng Nam và Thuận hoá, Chu Thuấn Thủy dù không thuyết phục
các chúa Nguyễn theo tư tưởng của mình, chắc hẳn có một số tác
động lên học giới Việt Nam, trong đó nhất định có cả Minh Châu
Hương Hải. Có lẽ do những tác động ấy, mà sau này ông đã chọn
A Di Đà kinh sớ sao làm nguồn tư liệu tham khảo để viết nên Giải
Di Đà kinh .
Như vậy, nội dung Giải Di Đà kinh tuy
lấy nguồn tư liệu từ A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng, nhưng
thực chất về mặt tư tưởng, khi phân tích ta thấy nó nằm trong quỹ
đạo chung của tư tưởng thiền Tịnh độ của Phật giáo Việt Nam. Quả
thực quan niệm tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ mà Châu Hoằng chủ
trương và Minh Châu Hương Hải nêu lại bằng câu tiếng Việt
"tự tính Di Đà, một lòng tịnh độ", ta không cần tìm đâu
xa, chỉ cần đọc lại Hội thứ 2 Cư trần lạc đạo phú của Trần
Nhân Tông :
Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Ta thấy ngay trước Châu Hoằng và
Minh Châu Hương Hải mấy thế kỷ, nó đã được nêu lên và xác
định một cách rõ ràng. Điểm lôi cuốn hơn nữa là Minh Châu Hương
Hải còn nhắc tới kinh Pháp đàn, mà khi tra lại A Di Đà kinh sớ sao
2 tờ 389b16 (195b16) thì đúng là Pháp bảo đàn, để phê phán việc
Pháp bảo đàn ghi lộn thế giới Cực lạc chỉ cách ta mười vạn 8
ngàn dặm. Trong Sự lý dung thông, Minh Châu Hương Hải đã nói tới
việc mình"vui về bề diệu dược liên bang". Do thế, trước sau
như một, nội dung thiền của tư tưởng Minh Châu Hương Hải là tư
tưởng thiền tịnh, coi việc niệm Phật như một phương tiện hành
thiền mà vào thời ông đã trở nên rất phổ biến. Viên Văn
Chuyết Chuyết (1590-1644) viết Bồ đề yếu nghĩa để xiển dương tư
tưởng thiền tịnh. Rồi một đồng đại trẻ tuổi của ông là Chân
Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) đã viết Tịnh độ yếu nghĩa [Lê Mạnh
Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập, tập 1, Tp.Hồ Chí Minh, 1979,
tr.159-190] cũng nhắm cùng một mục đích .
Và qua Giải Di Đà kinh ta ít nhiều
nhận ra quan điểm của Minh Châu Hương Hải, dù có ảnh hưởng của
Châu Hoằng, về giá trị của việc trì chú. Ông viết :"Chuyện trì
danh hiệu thắng hơn trì chú, thắng hơn hết thảy chư dư công
đức". Rõ ràng khi viết thế, ông đã không che giấu thái độ
cũng như cách đánh giá không cao vị thế và vai trò của việc trì
chú. Nếu đọc Hương hải thiền sư ngữ lục, với nhiều mô tả dài
dòng mà kỹ càng về việc ông đối phó với những hiện tượng ma
quái, về việc trị bệnh nổi tiếng của ông, ta tưởng Minh Châu
Hương Hải quí trọng việc trì chú. Thế mà khi đọc Giải Di Đà kinh,
với câu vừa dẫn trên, ta mới thấy quan điểm của ông thế nào
đối với việc trì chú. Điều này giải thích cho chúng ta rất nhiều
vai trò của mật giáo trong đời sống thực tiễn của Phật giáo
Việt Nam .
Người Phật giáo Việt Nam có thể
niệm Phật, tụng kinh, trì chú, nhưng họ vẫn nhận mình là những môn
đồ của thiền một cách tự nhiên mà không gượng ép. Đôi khi
những sinh hoạt niệm Phật tụng kinh, trì chú ấy có vẻ nổi bật,
dễ dẫn người ta đến ấn tượng rằng sinh hoạt Phật giáo Việt Nam
chủ yếu bao gồm những hình thức như thế. Thực tế qua lịch sử, ta
thấy những vị thiền sư danh tiếng nhất một thời đều ít nhiều
liên hệ đến những sinh hoạt kiểu đó, như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh
v.v
Và những vết tích khảo cổ còn lại như hàng loạt cột kinh
tìm thấy tại cố đô Hoa Lư, đều thể hiện sâu đậm nếu không nói
là toàn bộ ảnh hưởng của mật giáo. Điều này gây thắc mắc cho
một số người, rằng tại sao thiền tông của Việt Nam chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ mật giáo như thế. Sự thật căn cứ vào những
mô tả về cuộc đời những con người ấy cùng những vết tích
còn lại, người ta nêu lên câu hỏi trên thực tế ở Việt Nam có
tồn tại một hình thức Phật giáo gọi là thiền tông hay không? Hay
thiền tông chỉ là"một tiếng đồn từ tu viện"v.v
Những
vị như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh v.v
ngày nay ta không còn những tác
phẩm liên hệ để có thể biết thái độ của họ. Nhưng với Minh
Châu Hương Hải, qua Giải Di Đà kinh, ta thấy thái độ, quan điểm của
ông như thế nào. Sự việc này giải thích dứt khoát vì sao ông
vẫn tự nhận mình là một thiền sư, và các thế hệ tiếp theo vẫn
xác định ông trong tư cách ấy, mà cụ thể là quyển Hương Hải
thiền sư ngữ lục .
Việc ông nhấn mạnh trì danh niệm
Phật này như một phương pháp thiền, như đã thấy, là nằm trong quỹ
đạo thiền của tư tưởng thiền Phật giáo Việt Nam. Ta đã nhắc
tới Trần Nhân Tông, nhưng trước Minh Châu Hương Hải không bao lâu,
ngay một người Phật tử như Đào Duy Từ (1572-1634) đã mô tả lại
phần nào nhận định vừa nêu trong Tư dung vãn của ông :
Một bầu chi cũng thú yên hà,
Nghi ngút hương bay cửa Đại la
Ngày vắng đỉnh đang chuông bát nhã
Đêm khuya dắng dõi kệ Di Đà
Nhặt khoan đàn suối ban mưa tịnh
Eo óc cầm ve thuở ác tà
Mựa rảng đạo xa hoà nhọc kiếm
Bồ đề kết quả ở lòng ta
Ngôi chùa Việt Nam vào thời Đào
Duy Từ ở miền Nam vẫn luôn luôn "dắng dõi kệ Di Đà".
Nói khác đi, tư tưởng tự tính Di Đà là một tư tưởng Tịnh độ
đã bị thiền hoá, mà Trần Nhân tông trước đó đã diễn tả
bằng câu :"Di Đà là tính sáng soi", đã lưu hành rộng rãi
trong giới Phật giáo Việt Nam, nghĩa là Thiền tông Việt Nam. Cho nên
ta có giả thuyết mà không sợ sai lầm, việc Minh Châu Hương Hải
giải thích kinh A Di Đà theo hướng A Di Đà kinh sớ sao của Châu
Hoằng không phải là một cái gì hoàn toàn xa lạ với truyền thống
Phật giáo Việt Nam, nằm ngoài quỹ đạo phát triển của dòng Phật
giáo này. Nó chỉ làm rõ hơn nữa những mặt đặc biệt mà nền
Phật giáo này thể hiện .
IV.PHÂN TÍCH VĂN HỌC
Giải Di Đà kinh, như nhan đề nêu
lên là một bản giải thích về kinh A Di Đà, lấy nguồn cảm hứng
từ tác phẩm A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng. Có thể nói nó
là một trong số ít tác phẩm xưa nhất hiện biết về lối văn giải
thích này. Trước nó ta chỉ có những bản văn xuôi dịch đuổi theo
bản chữ Hán của Viên Thái và Nguyễn Thế Nghi. Loại văn xuôi này
thường bị nguyên bản chữ Hán khống chế, nên không cho ta biết bộ
mặt đích thực của tiếng nói dân tộc hàng ngày của đồng bào ta.
Chính qua lối văn giải thích của Minh Châu Hương Hải, ta bước đầu
có những bản văn xuôi đích thực do người Việt Nam viết. Cần
chú ý là vào thế kỷ này cũng đã có một số bản văn xuôi
tiếng Việt được ghi lại, như của Majorica và Alaxandre de Rhodes. Nhưng
đây là những tác phẩm do người ngoại quốc ghi lại, và chắc
chắn không thể phản ánh đầy đủ và trung thực tiếng nói hàng
ngày của nhân dân ta. Vì thế, những bản văn xuôi như Giải Di Đà
kinh xuất phát từ một ngòi bút Việt Nam, dứt khoát phản ánh trung
thực, trọn vẹn tiếng nói của chính dân tộc mình. Ngoài ra như đã
nói trên, Minh Châu Hương Hải có được những lợi điểm mà ít
người Việt Nam vào thời ông sở hữu. Đó là ông thuộc tầng
lớp trên, tầng lớp trí thức của xã hội Việt Nam thời đó, có
dịp tiếp xúc với những nhà lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của
đất nước, và đặc biệt hơn hết, Minh Châu Hương Hải đã sống
và làm việc lâu dài ở hai miền khác nhau của đất nước. Nền
văn xuôi do ông ghi lại, từ đó có thể coi như một đại biểu trung
thành cho tiếng nói của 1 dân tộc thống nhất. Chỉ chừng ấy đặc
điểm thôi cũng đã làm cho ta trân trọng những tác phẩm của Minh
Châu Hương Hải, và dành cho chúng vị trí xứng đáng trong lịch sử
phát triển văn học dân tộc .
Không những thế, bản thân các tác
phẩm văn xuôi của Minh Châu Hương Hải, trong đó có Giải Di Đà
kinh, đã đạt được một số thành tựu, vươn lên xây dựng
được vẻ đẹp mang tính văn học. Thử đọc lại một đoạn văn
sau:"Nghe chim kêu hoa nở thì gọi là ngày, chim đỗ hoa hiệp thì
gọi là đêm. Hoa có hai giống, một là thiên hoa, hai là thọ hoa. Bốn
phương tự nhiên gió thổi, đều ra chủng chủng âm thanh thuyết pháp.
Hoa thơm tùy phong, tán cúng chư bồ tát. Hết thảy thanh văn cùng chư
đại chúng tán hoa, rắc xuống kim địa, đầy hơn 4 tấc, hoa quang sáng
rỡ, hơi thơm lạ lùng
". Ta có thể cảm thụ một cách dễ
dàng những hình tượng được miêu tả một cách trong sáng và rõ
ràng. Tiếng nói của dân tộc ta gần 400 năm trước đây là vậy .
Tất nhiên, ta không thể đòi hỏi
Minh Châu Hương Hải mở rộng lĩnh vực chuyên môn của mình để đi
qua những địa hạt khác của văn học như viết tiểu thuyết bằng văn
xuôi chẳng hạn. Những gì ông để lại cho chúng ta hôm nay qua Giải
Di Đà kinh, tối thiểu cũng đã giúp cho ta phác họa lại diện mạo
tiếng nói thường ngày của cha ông ta cách ta mấy trăm năm. Và
đó là những đóng góp to lớn đối với dân tộc ta. Nền văn
xuôi do Minh Châu Hương Hải gầy dựng vì thế cần được trân trọng
và nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, để ta có thể nhận diện chân dung
và khuôn mặt nó rõ ràng và đúng đắn .
BÀI TỰA IN LẠI CÁC KINH
Hễ sắp dựng gác xây nhà với vẻ
đẹp khác thường hơn người, thì trước tất phải lo cột kèo cây
gỗ. Và để cho cột kèo cây gỗ có được chạm trổ thì phải dùng
đến búa, rìu, cưa, đục, dây thước
Há chỉ xem sơ sơ thôi sao?
Phải chuyên mắt xem xét, phải thẳng tay ngắm nghía mới được thế.
Kẻ sĩ học đạo thánh nhân tất cũng phải bàn kinh sửa truyện,
khảo xem trăm nhà, tìm những điều sâu xa, rõ những mối manh tổng
quát, sau đó mới đạt được chỗ hiểu. Nhưng điều này há chỉ
đặc biệt với nhà nho ta sao?
Cái học họ Thích cũng vậy, nay có
thiền sư Từ Tường chùa Linh Sóc, xã Hà Hồi, gọi ta
nói:"Người xưa của tông phái tôi vì chúng sanh có căn cơ
chậm lụt, đã mở bày sự thật nhiệm màu về ý nghĩa chân thật
của pháp môn để giải thoát cho họ, đã viết đủ trong các kinh
luật. Nhưng lo về sau bị buông bỏ, nên các bậc hiền đức cổ xưa
lại phải bắt đầu nối thêm mà làm ra có luận giải. Từ khi chánh
pháp bị suy phế, ý chỉ nhĩ căn của Lăng nghiêm bị che khuất, phương
tiện văn chương chảy tới các nước lân cận, thì tệ nạn này
càng nổi bùng lên. Ngu tôi từ khi xuất gia đến nay, lòng luôn luôn
nghĩ tới chuyện xiển dương chánh giáo, thỉnh thoảng lấy các kinh
Lương hoàng, Thủy sám và Dược sư cùng với các bộ chú giải Di
Đà, Phổ Môn, Kim cương ở những bản gỗ xưa bị thiếu hư tản mạn
còn lại, bổ sung vào những chỗ sót mất, lại giao cho khắc in, để
công bố cho những hàng xuất gia, nhằm mở rộng sự nghiệp trí tuệ,
rồi luôn luôn thắp hương lễ sám chắp tay đảnh lễ nam mô, để
cùng với Phật xưa thánh trước, theo sát không bỏ một phút giây,
những mong những pháp môn quảng đại từ bi, không thể nói, không
thể bàn, bao dung mà không trở ngại tôi. Than ôi, chúng ta thật có
sức để làm Phật ư !
Người ta thường hay khó chịu về
cái học không chuyên nhất, nên ngơ ngác không có chỗ thâu hoạch
được. Ta nghe đạo Phù Độ nhiều kệ thuyết, lắm giới luật. Việc
học nó cũng rất cực khổ, còn việc hiểu được nó thì ta không
thể biết. Nhưng việc chấp hành cái học đó để có tiến bộ nhằm
nối tổ truyền đèn, tiếp tục tuệ mạng của chư Phật, thì chí
hướng của chúng ta cũng gần thế ư. Nếu không vậy, chỉ luống giao
vào tay đốt Phật của Đan Hà (?) thì lòng chúng ta càng quặn đau,
lại càng nhân thế mà càng cảm thấy thêm nữa. Cái học của nhà
nho ta gọi là cái chứa nhóm nhân nghĩa lễ nhạc, là cái học làm
sáng tỏ văn chương đạo đức, thì so với cái học của nhà Phật,
rất là dễ biết dễ làm. Thế mà đám tụ nho vờ vĩnh, không chịu
quan tâm đến thơ truyện, đem văn chương mà khắc in, lại tự xén
cắt câu kéo, tước bỏ ý nghĩa, làm cho con đường chính đại
đàng hoàng ngày càng nhỏ hẹp lại. Ta há không ra sức có chí như
những vị kia mươi chục người để cùng bàn luận về đạo của
thánh nhân ta sao. Nên viết bài tựa này .
Hạ tuần tháng mùa thu năm Minh Mạng
thứ 14 (1833) của Hoàng Triều
Tường Nguyên Hy Hiến họ Đặng viết
ở Thư xá Tiên Thị
Nguyễn Đắc Trung xã Hồng lục khắc
chữ.
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH SỚ SAO TỰ
Huyền Cơ Thiện Giác pháp
Tự Minh Châu thích giải
Pháp tử Chân Lý khâm thuật
Chân Quý phụng san
Sơ thông tự đại ý
Linh minh động triệt, trạm tịch
thường hằng, phi trược phi thanh, vô bối vô hướng. Đại tai chân
thể, bất khả đắc nhi tư nghì giả, kỳ duy tự tính dư?
Linh là linh giác, minh là minh hiển,
trạm là bất nhiễm, tịch là bất giao, thiêng biết sáng suốt, thông
thâu trong sạch, phẳng lặng hằng bền. Phi trược là chẳng từng thọ
nhất trần. (1b) Phi thanh là chẳng từng xả nhất pháp. Vô bối là
dầu buông đi, ắt chẳng có thửa mà tùng khứ. Vô hướng là dầu
rước tới, ắt chẳng có thửa mà tùng lai. Lớn thay chân thật
thể, rộng rãi mãn khắp mười phương, cao thẳm khỏi hết tam tế,
lại chẳng có pháp nào mà ví cùng. Há phải đối tiêu rằng đại
chân thể là tượng có nhiều danh, ắt gọi là bản tâm bản giác,
ắt gọi là chân thức chân tru, chủng chủng dị danh, đương nơi tự
giác linh quang, vốn thật nhất tâm cụ túc, chỉn bằng chẳng khá tư
nghì được. Thửa một tự tánh vậy vây .
Thường trược nhi thanh, phản bối nhi
hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh u phiến ngôn. Chí tai
diệu dụng, diệt bất đắc nhị nhi tư nghì giả, kỳ duy Phật thuyết A Di
Đà kinh dư?
Trừng là trừng tịnh, chuyển ngũ
trược bèn nên thanh thái. Phản là qui hoàn bỏ sa bà bèn tới
cực lạc. (2a) Việt tam kỳ là tự Cổ Thích Ca đến Thi Khí Phật,
trải qua bảy muôn năm ngàn Phật xuất thế. Từ Thi Khí đến Nhiên
Đăng Phật, trải qua bảy muôn sáu ngàn Phật xuất thế. Từ Thiên
Đăng đến Bà Thi Phật, trải qua bảy muôn bảy ngàn Phật xuất thế.
Ấy là vượt tam kỳ. Chưng nơi nhất niệm tề chư thánh là Phật
cùng chư Bồ tát, nhân chưng phiến ngôn hằng niệm A Di Đà Phật,
chực quyết vãng sinh, nhất tâm bất loạn, chẳng còn thối chuyển,
bèn nên Vô thượng Bồ đề. Ấy là nhất niệm đến siêu, phiến
ngôn tức chứng. Rốt ráo thay, diệu dụng ắt khôn tư nghì được,
nhân bởi Thích Ca diễn thuyết A Di Đà kinh vậy vây .
Cố ngã Thế Tôn, sạ thuyết tam
thừa, chung quy nhất bảo, đẳng ban trân tứ, tiện tích thù ân .
Vì vậy đức Phật Thế Tôn, trước
bèn khai quyền, tạm thuyết tiểu thừa dạy chư Thanh văn, trung thừa
dạy chư Duyên giác, đại thừa dạy chư Bồ tát, tùy thuận chúng
sinh, nhân có lợi độn, phải diễn tam thừa vậy. Sau chúng sinh liễu
ngộ, bèn lập nhất phá tam, hội quyền về thật, đều cho tối (2b)
thượng đại xa. Vì vậy rằng ban cho đẳng chư trân bảo, lại thêm ơn
lạ. Một cửa niệm Phật này, chẳng luận đại căn tiểu căn, dầu
tin niệm Phật, nhất tâm bất loạn, ắt được vãng sinh. Hai là trì
danh trong nơi ơn lạ, lại thêm lạ mầu vậy .
Chỉ tứ thập bát chi nguyện môn, khai
nhất thập lục chi quán pháp, nguyện nguyện quy hồ phổ độ, quán
quán tôn hồ diệu tâm .
Dẫn bốn mươi tám lời phát nguyện,
chưng cửa nguyện môn; mở 16 đường mật tưởng, chưng pháp quán
tưởng. Chu hoằng nguyện đều về phổ độ, đẳng quán tôn chẳng
khỏi diệu tâm .
Hựu dĩ nguyện môn quảng đại, quí
tại tri tiên, quán pháp thâm huyền, vưu ưng thủ ước. Tri tiên tắc
vụ sinh bỉ quốc. Thủ ước tắc duy sự trì danh. Cử kỳ danh hê,
kiêm chúng đức nhi câu bị, chuyên hồ trì dã, thống bách hạnh dĩ
vô di .
(3a) Lại bèn cửa nguyện môn rộng
lớn, ắt rất tôn quý chưng nơi tri tiên. Phép quán tưởng sâu
nhiệm, càng lắm trọng, hợp đương thủ ước. Tri tiên ắt vụ bề
vãng sinh bỉ quốc. Thủ ước ắt vui hay cần sự trì danh. Cử thửa
Phật hiệu, gồm no chúng đức, mà đều đủ. Chuyên thọ trì vậy,
thống hết muôn hạnh, bèn chẳng khuy .
Tùng tư nhi vạn lự hàm hưu, cứu
cực hồ nhất tâm bất loạn .
Nếu từ đây mà muôn lọ đều
rỗi, xét rốt ráo bởi nhất tâm bất loạn .
Nãi tri phỉ ly khuể bộ, bảo trì dũng
tứ sắc chi hoa. Bất xuất hộ đình, xin địa nhiễu thất trùng chi thọ.
Xứ xứ di đà thuyết pháp, thời thời liên nhụy hoá sinh. Trân
câm dự già điểu giai âm. Quỳnh viện cộng mão đường tịnh thái .
Bèn hay (3b) chẳng dời khỏi nước
bước, trong bảo trì trổ chen bổn sắc liên hoa, chưa ra ngoài cửa
sân, dưới kim địa nhiễu quanh bầy trùng hàng thọ. Mỗi chốn Di Đà
đều thuyết pháp, đòi khi liên nhụy cùng hoá sanh, trân cầm già
điểu hằng diễn thuyết đồng thanh, ngọc viên hoa đường đều trang
nghiêm mọi vẻ .
Cái do niệm không chân niệm, sinh
nhập vô sinh, niệm Phật tức thị niệm tâm, sinh bỉ bất ly sinh thử,
tâm Phật chúng sinh, nhất thể, trung lưu lưỡng ngạn bất cư, cố vị
tự tính di đà duy tâm tịnh độ .
Tượng bởi niệm không, chân niệm
sinh, bèn ngộ nhập vô sinh. Niệm Phật ấy thật niệm tâm. Sinh bỉ nào
khác sinh thử. Tâm, Phật cùng chúng sinh một thể , chẳng trụ
lưỡng ngạn, trung lưu. Vì vậy, rằng tự tính Di Đà, một lòng tịnh
độ .
Thử tác lý chi nhất tâm toàn qui
thượng trí, diệc phục thông hồ sự tướng, khúc (4a) vị độn căn
.
A? pháp chưng lý nhất tâm đều về
những người thượng trí. A? lại dung thông sự tướng, chiều vì
những kẻ độn căn .
Nại hà thủ ngu chi bối, trước sự
nhi lý vô văn, tiểu huệ chi lưu, chấp lý nhi sự toại phế. Trước
sự nhi mê lý, loại mông đồng đọc cổ thánh chi thư, chấp lý nhi
di sự, tỉ bần sỹ hoạch hào gia chi khoản .
Nài bao những bậc thủ ngu, chấp lấy
sự mà chẳng nghe lý. Những đông tiểu huệ, chấp lấy lý mà phê
rẫy sự. Chấp sự mà mê lý, chẳng khác chi chúng trẻ thơ đọc
lấy chưng sách tiên thánh. Chấp lấy lý mà bỏ rẫy sự, dường
bằng học trò khó bèn được sổ nhà trưởng giả .
Nhiên trước sự nhi niệm năng
tương kế, bất hư nhập phẩm chi công, chấp lý nhi tâm thật vị minh,
phản thọ lạc không chi họa .
Vậy bèn chấp sự mà hay niệm Phật
tương kế, chẳng luống chưng công (4b) vào phẩm vị, chấp lý mà lòng
thật chưa minh, lại phải chịu chưng họa lạc không .
Toại sử thùy thủ đồ cần, ỷ môn
không vọng, thượng cô phật hoá, hạ phụ kỹ linh, kim sinh dĩ cập đa
sinh, nhất ngộ nhi thành bách ngộ, cam tâm khổ thú, thúc thủ tử
môn, vô cứu vô quý, khả bi khả thống .
Bèn khiến uổng vội rũ tay, luống
trông dựa cửa, trên quả đức chẳng vâng Phật dạy, dưới phụ
mình bỏ rẫy kỷ linh, kiếp này đến nhẫn đa sinh, một phen lầm nên
trăm phen lỡ. Lòng cam chịu chưng nơi khổ thú, bó tay vào trong cửa
tử môn, chẳng ai cứu trợ, chẳng về nương đâu, cực khá thương,
cực khá thiết .
Châu hoàng mạt pháp hạ phàm, cùng
tưu vãn học, võng thông huyền lý, tố bỉ không đàm, họa bỉnh hà
ích cơ trường, yên thạch nam vu cổ mục .
Lời thề nguyền quảng đại, đời
mạt pháp (5a) dưới trần phàm, cùng ngung xem chưa khắp, văn học trí
chưa sâu, chưa hiểu thông lẽ màu nhiệm, vốn thiển liệt luống đàm
không, dường bằng bánh vẽ, nào hay ích chi dạ đói, khác chi yến
thạch, khôn dối được mặt chủ thương .
Kỳ thừa tiên sắc, đốc phụng tư
kinh, vọng lạc quốc vi gia hương, ngưỡng từ tôn như hổ thị .
Kính vâng lời Phật dạy, đốc phụng
sự kinh này, mong về cực lạc quốc, lấy làm chốn gia hương.
Ngưỡng vọng đức Từ Tôn, bằng trông cậy mẹ cha .
Nhưng dĩ tâm hoài khiêm lợi, đạo
quí hoằng thông, khái cổ sớ tiễn kiến kỳ toàn, duy sổ giải cẩn
hành ư thế, từ tuy thiết nhi thái giản, lý vi lộ nhi bất chương,
bất cực luận kỳ hoằng công, trù phát khởi hồ chân tín, đốn
vong phu (5b) kiến, ký kiệt tâm tư, tổng thu bộ loại ngũ kinh, trực
cứ Văn Thù nhất hạnh, nhi phục hội quy huyền chỉ, tắc phân nhập
tạp hoa, quán xuyến chủ môn tắc bác tổng quần điển, vô nhất bất
tiểu quy tự kỷ, hữu nguyện giai hồi hướng bồ đề, triển thử
tinh thành, khất cầu gia bị .
Nhân dùng lòng tư duy lưỡng lợi,
đạo tôn quý vì bởi rộng thông. Tin lời xưa, lời bày thấy ít.
Vui kể biết chưng thế liệt hành. Lời tuy chí thiết, mà rất ít hiển
ra, chưa sáng lẽ nhiệm màu, chẳng cùng luận chưng thửa đại công,
chúng phát hành vi nhân chính tín. Bỏ rẫy bì phu ngoại kiến, lòng
rỗi hết sự lo toan. Tổng thâu nơi bộ loại năm kinh, chực quyết
nương Văn Thù một hạnh, bèn lại hội về huyền chỉ, đại ý ắt
thông vào tính hải Hoa Nghiêm. Thấu suốt khắp hết chư môn, ắt máy
rộng chưng nơi quần điển. Nào một đâu chẳng tiêu về nơi tự kỷ,
hễ có nguyện chưa khuây hồi hướng bồ đề, ấy mở nơi nhất niệm
tinh thành, xin cầu gia bị cho thấu khắp .
(6a1) PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH
Cử tán
Lô hương sạ nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tùy xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Hương Vân Cái bồ tát ma ha
tát
(tam biến)
Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn
A? tu rị tu rị ma ha tu rị tu tu rị tát
bà ha
Tịnh tam nghiệp chân ngôn
A? sa phạ bà phạ truật đà sa phạ
đạt ma sa
Phạ bà phạ (6b) truật độ hám
An thổ địa chân ngôn
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm,
A? độ rô độ rô địa vỹ tát bà
ha
Phổ cúng dường chân ngôn
A? nga nga nẳng tam bà phạ phiệt
nhật ra hộc
(tam biến)
Khai kinh kệ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa
Nam mô Khai Bảo Tạng bồ tát ma ha
tát
(7a) PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH
Phật là Thích Ca, diễn thuyết A Di
Đà kinh
Lời sớ sao rằng :
Phật là Ta bà giáo chủ bổn sư
Thích Ca, thập hiệu cụ túc, tam giác tề viên. Tự giác ắt khác
phàm phu, giác tha ắt khác nhị thừa, giác mãn ắt khác bồ tát.
Lại rằng không vọng tâm, danh là tự giác, khỏi huyễn sắc, danh là
giác tha. Rồi vọng tâm, rồi huyễn sắc, lòng hằng thanh tịnh, danh là
giác mãn .
Kinh có thông biệt dị nghĩa. Một
chữ kinh này, thật danh là thông. Phật thuyết A Di Đà năm chữ,
thật gọi là biệt. Chư kinh đều đủ giáo, hành, lý vậy. Vốn lý
lập giáo, nương giáo tu hành, tùng hành hiển lý, chuyên chỉ kinh
này, Phật thuyết ắt thật là giáo. Chấp trì danh hiệu, thật là
hành. A Di Đà ắt thật là lý. Lại rằng dung thông tam đức, lý ắt
pháp thân đức, giáo ắt bát nhã đức, hạnh ắt giải thoát
đức. A Di Đà công đức vô lượng, lại sánh cùng tam đại, ắt
Phật thật là thể đại, vô lượng thọ, thật là tướng đại, vô
lượng quang, thật là dụng đại .
Xứng lý ắt tự tánh giác là
Phật nghĩa, tự tánh giác vô lượng là A Di Đà nghĩa, tự tánh
bổn thỉ nhị giác là lưỡng độ quả chứng nghĩa, tự (7b) tánh
giác thể biến chiếu thật là thuyết kinh nghĩa .
Như thị ngã văn, nhất thời Phật
tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên .
Bằng chân thật ta nghe, một khi Phật
trụ ở Xá Vệ quốc, viện Kỳ Thọ, cấp Cô Độc viên .
Lời sớ sao rằng :
Như thị là tín thành tựu vậy. Nhất
tâm bất loạn gọi là như. Một lòng chẳng khác gọi là thị. Thật
tướng chi lý, thỉ chung chẳng khác, gọi là như. Thuyết thật như lý
gọi là thị. Ngã văn là chân văn thành tựu vậy. Ngã là tự
ngã thân văn pháp thân chân ngã vậy. Nhất thời là thành tựu
chi thời, đương khi thuyết thính sự rồi ắt gọi là nhất thời
vậy. Phật là viên giác thành tựu, làm tôn chủ tam thánh lục
phàm hết thảy chúng sinh vậy. Tại là thường trụ ứng vô sở
trụ. Xá Vệ quốc là Phong đức thành. Kỳ là Kỳ Đà thái tử.
Thọ là cây Kỳ Đà thái tử cúng. Cấp là Tu Đạt Noa trưởng giả
dựng làm tự vũ tinh xá, hằng thường cung cấp. Cô Độc là thầy
tu, trên từ lục thân gọi là cô, dưới xả thê tử gọi là
độc, cùng trụ một nơi viện ấy (8a) .
Xứng lý ắt tự tánh đổng triệt
thập phương, thật ấy A Nan văn Phật nghĩa. Tự tánh bất ly đương
xứ, thật ấy Phật tại Kỳ Viên nghĩa .
Dữ đại Tỳ kheo Tăng, thiên nhị
bách ngũ thập nhân câu, giai thị đại A la hán, chứng sở tri thức
.
Cùng những đại Tỳ kheo Tăng nhân,
một ngàn hai trăm năm mươi người hằng đủ, đều thật những bậc
đại A la hán, chúng thửa hay danh biết lòng thấy tánh, cùng làm tri
thức .
Lời sớ sao rằng:
Đại tỳ kheo là nội quyền bồ tát,
ngoại thinh văn hạnh. Tỳ kheo có 3 nghĩa. Một là khất sĩ, khất pháp,
khất thực, cần cầu thành tựu thánh quả vậy. Hai là bố ma, phát
tâm xuất gia, lòng hằng ly dục. Thú hướng vô sinh, chư ma đều bố
uý vậy. Ba là phá ác, diệt trừ phiền não nghiệp cấu, lòng hằng
thanh tịnh vậy. A la hán bèn có 3 nghĩa, một là ứng cúng, hai là
sát tặc, ba là vô sinh. A la hán là tứ quả thinh văn. Đại A la hán
là tu vô lậu nghiệp, đức cao danh mãn, làm nhân thiên nhãn mục,
đạo dẫn chúng vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô lậu, thật
ấy là la hán nghĩa, tự tính vô mê (8b), thật ấy tri thức nghĩa .
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma ha Mục
Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Thy La, Ly Bà Đa,
Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba
Đề, Tân Đầu Lô, Phả La Đọa, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu
Lâu Đà .
O?g Xá Lợi Phất cửu tu đức
trưởng, trí huệ đệ nhất. Ông Mục Kiền Liên quảng đại, thần
thông đệ nhất. Ông Ca Diếp lòng quảng đại, đầu đà thượng
hạnh đệ nhất. Ông Ca Chiên Diên, lòng quảng đại, luận nghị đệ
nhất. Ông Câu Thy La, lòng quảng đại, ứng đáp đệ nhất. Ông
Châu Lợi Bàn Đà Dà, tịnh trừ cấu hoặc đệ nhất. Ông Nan Đà,
lòng hoan hỷ đệ nhất. Ông A Nan Đà, đa văn đệ nhất. Ông La Hầu
La, mật hạnh đệ nhất. Ông Kiều Phạm Ba Đề, hay thọ chư (9a) thiên
cúng dường đệ nhất. Ông Tân Đầu Lô Phả La Đọa, hay ứng nhân
giai cúng làm đại phúc điền đệ nhất. Ông Ca Lưu Đà Di, dạ hành
quang diệu đệ nhất. Ông Kiếp Tân Na, lòng quảng đại, thông hay tinh
tú đệ nhất. Ông Bạc Câu La, diện mạo đoan chính, tuổi thọ
trường đệ nhất.Ông A Nậu Lâu Đà, gọi là Như ý thiên nhãn
đệ nhất .
Như thị đẳng chư đại đệ tử, tịnh
chư bồ tát ma ha tát .
Bằng thật bấy nhiêu người chư
đại đệ tử, lại có chư bồ tát cùng đại bồ tát
Lời sớ sao rằng:
A? đại đệ tử, ắt trước đại
tỳ kheo, đại A la hán. Đệ tử là học ở sau thầy, gọi là đệ,
hiểu biết ở nơi thầy sinh, gọi là tử. Lại rằng tiên giác hậu
giác, như huynh tiên đệ hậu, hiểu biết bởi thầy sinh vậy. Mở mang
dưỡng dục bèn nên pháp khí, thửa rằng tùng Phật khẩu sinh, hợp
nối Phật chủng. Bồ tát là giác hữu tình, đồng Phật sở chứng,
bèn gọi là giác. Vô minh vị tận, bèn gọi là tình. Bồ tát bèn
dùng bi trí nhị nghiêm. Trí là trên cần cầu Phật đạo. (Bi là)
dưới thì quyền độ (9b) chúng sinh. Chân thật nhất tâm, thành tựu
đại đạo gọi là ma ha tát .
Xứng lý ắt tự tánh, tâm vương
tâm số dung thông thật là Phật cùng đệ tử câu nghĩa, tự tính
chân vọng tương dung, thật là bố tát nghĩa .
Văn thù sư lợi pháp vương tử, a
dật đa bồ tát, càn đà ha đề bồ tát, thường tinh tấn bồ tát .
Văn thù là pháp vương tử, làm
thượng thủ chư bồ tát. A dật đa bồ tát đương lai hạ sinh là di
lặc Phật. Càn đa ha đề là bất hưu tức bồ tát, ý hằng làm
phạm hạnh. lịch hằng sa kiếp chẳng từng hưu tức, thường tinh tấn
bồ tát đã vô lượng kiếp hằng tùy hoá độ chúng sinh, chưa
từng nhất niệm khí xả, lòng hằng tinh tấn .
Dữ như thị chư đại bồ tát .
Bằng thật các đấng đạo sư cùng
chư đại bồ tát .
Lời sớ sao rằng:
Chư đại bồ tát đều cục túc tín
hạnh nguyện, kinh Di Đà lấy tín hạnh nguyện làm tịnh độ nhân .
(10a) Xứng lý ắt tự tính vô bất
chiếu, thật là Văn thù trí nghĩa, tự tính vô bất dung, thật là Di
Lặc từ nghĩa, tự tính vô cùng vô tận, thật là bất Hưu Tức
Thường Tinh Tấn nghĩa .
Cập thích đề hoàn nhân đẳng vô
lượng chư thiên đại chúng câu .
Đến nhẫn nhục giới thiệu chủ các
đấng, vô lượng chư thiên, hết thảy đại chúng.
Lời sớ sao rằng:
Thích Đề Hoàn Nhân là Đao Lợi
Đế Thích Thiên chúa cùng 32 Đề Hoàn Thiên tử vậy. Vô lượng
chư thiên là dục giới, sắc giới, vô sắc giới đẳng chư thiên
vậy. Đại chúng câu là Bồ tát, thinh văn, thiên, nhân, tu la, hết
thảy đại chúng vậy .
Xứng lý ắt tự tính triệt thượng
triệt hạ, thật ấy bồ tát la hán chư thiên đại chúng câu nghĩa .
Dĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá
Lợi Phất .
Khi ấy Phật bảo Trưởng lão Xá
Lợi Phất, trí cao đức trưởng (10b)
Lời sớ sao rằng:
Nhĩ thời là khi thành tựu vậy.
Phật cáo là kinh nhân chẳng ai thỉnh vấn, Phật bèn tự thuyết vậy.
Xá Lợi Phất trí tuệ thâm thâm, dầu chư Phật đều dùng nhất
thiết trí vậy. Di Đà trí xảo phương tiện thành tựu tịnh độ công
đức, dùng trí sanh tín ắt nên chánh tín, dùng trí phát nguyện ắt
nên hoằng nguyện, dùng trí khởi hạnh ắt nên diệu hạnh, thật
được thành Phật vậy .
Xứng lý ắt tự tính tự nhiên
trí, thật ấy Phật tự cáo Xá Lợi Phất nghĩa .
Tùng thị tây phương quá thập vạn
ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc .
Thật bởi ta bà sang đến tây
phương, khỏi mười muôn ức chư Phật quốc độ, có thế giới danh
rằng Cực Lạc .
Lời sớ sao rằng:
Quốc độ, danh là sở y, gọi y báo.
Phật là năng y, gọi rằng chánh báo. Ở Ta bà sang đến Tây phương,
khỏi mười muôn ức chư Phật quốc độ, xa bèn cực xa, chẳng phải
như Pháp đàn kinh thuyết có mười muôn tám ngàn dặm vậy. Phạn
ngữ tu ma đề, Hoa ngôn gọi là (11a1) Cực lạc, lại gọi là an
dưỡng, an lạc, lại gọi là liên bang, tịnh độ, bỉ quốc, bỉ ngạn
vậy .
Xứng lý ắt thật tự tính kiên cố
thanh tịnh, thật ấy Tây phương nghĩa, tự tính ly chướng tuyệt phi,
thật ấy quá thập vạn ức nghĩa, tự tính hoành cai thụ triệt, thật
ấy thế giới nghĩa .
Kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim
hiện tại thuyết pháp .
Thửa quốc độ ấy có phật hiệu
là A Di Đà, nay hằng hiện tại thuyết pháp .
Lời sớ sao rằng:
Ta bà Thích Ca hiện tại thuyết pháp
tứ thập cửu niên, rày đã niết bàn, gọi là quá khứ. Tây
phương Di Đà hiện tại thuyết pháp, vô lượng kiếp hằng thường
diễn thuyết, gọi là hiện tại. Suốt đời chầu bên Phật, chẳng
thấy kim dung, trọn ngày ngồi pháp diên, chẳng nghe diệu đạo, bèn
khiến ma vương hỗn nơi Phật điện, suy pháp, quấy loạn chân tôn,
dầu hay phản chiếu tâm nguyên, Phật pháp một thời lưỡng túc .
Xứng lý ắt tự tính thể tự linh
tri, thật ấy kỳ độ hữu Phật nghĩa (11b). Tự tính tức kim hiển
hiện, thật ấy hiện tại thuyết pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi
Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư
lạc, cố danh Cực Lạc .
Phật bảo Xá Lợi Phất, bỉ phương
quốc độ sao vậy gọi làm Cực Lạc? Rằng thửa chưng quốc độ ấy,
chẳng có những sự khổ, bèn chịu những sự vui, vì vậy gọi là
Cực Lạc .
Lời sớ sao rằng:
Khổ là Sa bà cực khổ, chẳng
được gặp Phật, chẳng được văn pháp, ác hữu khiên triền,
quần ma não loạn, luân hồi lục đạo, chưa khỏi tam đồ, nghiệp
tượng chướng trọng, mệnh căn xúc đoản, hằng chịu chủng chủng
chư khổ, gọi là thử phương cực khổ. Lạc là Tây phương cực
lạc, hoa khai kiến Phật, thân cận thánh hiền, hội thượng thiện
nhân, chư Phật đều cùng hộ niệm, chẳng có tam đồ ác đạo, thọ
mệnh vô lượng vô cùng, thân tâm thanh tịnh, thế giới trang nghiêm.
Vì vậy gọi là bỉ phương cực lạc .
Xứng lý ắt tự tính vô nhiễm,
thật ấy vô hữu chúng khổ nghĩa. Tự tính (12a) thường tịnh, thật
ấy đản thọ chư lạc nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc
độ, thất trùng lan thuần, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ,
giai thị tứ bảo châu tráp vi nhiễu .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất
:"Nơi cực lạc quốc độ, xứ xứ đều có thất trùng câu lan
ngọc, đòi nơi đều có thất trùng bảo võng che muôn cây, đều có
thất trùng hàng bảo thọ, ắt thật những tứ bảo khắp đòi lần
vây nhiễu thật. Vì vậy bỉ phương quốc độ gọi là Cực Lạc".
Lời sớ sao rằng:
Kim ngân, lưu ly, pha lê, tứ bảo lan
thuần, vô lượng thất trùng làm câu lan ngoài bảo thọ, tứ bảo
là võng vô lượng thất trùng che trên bảo thọ, trùng trùng thất
hàng bảo thọ, cây cao tám ngàn do tuần. Cội ngọn cành lá hoa quả
dưới trên cối chen chư bảo, ngũ sắc phóng quang ngàn dặm, mùi
hương thơm khắp mười phương thế giới. Vì vậy gọi là Cực Lạc .
Xứng lý ắt tự tính, vạn đức
tung hoành, thật ấy lan thuẫn nghĩa, tự tính (12b) bao la pháp giới,
thật ấy bảo võng nghĩa, tự tính trưởng dưỡng chúng thiện, thật
ấy hàng thọ nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc
độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì
để thuần dĩ, kim sa bố địa .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất rằng
:"Cực Lạc quốc độ có thất bảo trì, bát công đức thủy,
thửa trong đìa, nước hằng đầy, dưới đáy đìa, toàn những kim sa
bố địa"
Lời sớ sao rằng:
Cực lạc quốc độ, tả hữu trong
ngoài, khắp thế giới vô lượng dục trì, hoặc tiểu hoặc đại,
bèn đến nhẫn trăm nghìn do tuần, dường bằng biển lớn, toàn
những kim ngân, lưu ly, pha lê, chân châu, xà cừ, mã não, thất
bảo, thửa cùng hợp nên. Nước trong đìa, bát công đức thủy.
Một là trừng tịnh trong sạch. Hai là thanh lương mát mẻ. Ba là cam
mỹ ngon ngọt. Bốn là khinh nhuyễn dịu dàng. Năm là nhuận trạch
nhuần nhã. Sáu là an ổn điều hoà. Bảy là trừ hết cơ khát. Tám
là trưởng dưỡng chư căn. Bát công đức thủy đều cùng lợi
ích chúng sanh .
(13a) Xứng lý ắt tự tính, uông danh
xung dung, thật ấy bảo trì nghĩa. Tự tính tất bị nhất thiết công
đức, thật ấy đức thi nghĩa .
Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu ly,
pha lê hiệp thành, thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim ngân, lưu ly,
pha lê, xà cừ, xích châu, mã não, nhi nghiêm sức chi .
Tư bề thềm bậc đường đi lại,
toàn những kim ngân, lưu ly, pha lê, đều cùng hợp nên. Trên lại
có lầu gác, ắt dùng những kim ngân, lưu ly, pha lê, xa xừ, xích
châu, mã não trau chuốt, bèn nghiêm trang vậy .
Lời sớ sao rằng:
Trên hoàng kim địa, hết thảy trong
chư báu, đều có 500 sắc, phóng hoa quang, hoá nên quang minh đài. A Di
Đà Phật, giảng đường tinh xá, cung điện lầu gác, trăm nghìn
muôn, đều dùng vô lượng thất bảo, thắng bội hơn nghìn muôn,
trên đệ lục thiên, thiên đế sở cư. Nơi chư bồ tát trú cũng
trang nghiêm như vậy. Chư thiên nhân dân, cung vũ lầu gác xứng
thửa hình sắc, cao hạ đại tiểu hoặc dùng nhất bảo nhị bảo đến
nhẫn vô lượng châu báu. Đôi bên lầu gác, đều có hoa phướn
bảo chàng, vô lượng nhạc khí (13b) dùng làm trang nghiêm. Tám giống
thanh phong đều ứng nhạc khí, diễn thuyết ra tiếng khổ không vô
thường, vô ngã, hằng giải thoát vậy .
Xứng lý ắt tự tính bình trực,
thật ấy giai đạo nghĩa, tự tính cao siêu, thật ấy lâu các nghĩa,
tự tính cụ túc công đức pháp tài, thật ấy thất bảo nghĩa .
Trì trung liên hoa, đại như xa luân,
thanh sắc thanh quang, huỳng sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch
sắc bạch quang, vi diệu hương khiết .
Trong đĩa liên hoa, bằng đại xa luân,
thanh sắc có hào quang xanh, huỳnh sắc có hào quang vàng, xích sắc có
hào quang thắm, bạch sắc có hào quang sáng, thơm sạch lạ lùng .
Lời sớ sao rằng:
Trì trung liên hoa, hình như xa luân,
tùy kỳ đại tiểu, hoặc là lớn một do tuần, đến nhẫn trăm nghìn
do tuần, chẳng phải như bánh xe nhân gian, lớn bằng một trượng.
Trong đìa liên hoa quang minh, bội hơn nhật nguyệt, mỗi nhất nhất hoa
trung, phóng xuất ba mươi sáu trăm muôn ức quang minh, (14a) mỗi nhất
nhất quang trung, phóng xuất ba mươi sáu muôn ức Phật. Mỗi nhất
nhất Phật, phóng xuất trăm nghìn quang minh, khắp hết mười phương
chúng sinh, hằng diễn thuyết diệu pháp. Hễ người tu tịnh độ vậy,
dù khi lễ Phật, hiệp tưởng tự thân ở trong liên hoa làm lễ,
Phật hiện trong nơi liên hoa, chịu ta lễ kính. Dầu khi niệm Phật, hiệp
tưởng thân ta ở trong liên hoa, kiết già phu tọa, Phật trong liên hoa
bèn tiếp dẫn ta, mới hiệp nhất tâm, trì danh niệm Phật .
Xứng lý ắt tự tính thanh tịnh quang
minh, thật ấy liên hoa nghĩa .
Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ
thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Cực
Lạc quốc độ, đã nên thành tựu, chân thật công đức trang
nghiêm".
Lời sớ sao rằng : Di Đà thuở làm
Pháp tạng tỳ kheo, phát tứ thập bát nguyện rồi, trụ chân thật
tuệ, dũng mãnh tinh tấn, đã vô trong số kiếp tu bồ tát hạnh, hằng
hộ thân khẩu ý, thường hành lục độ liễu không vô tướng, vô
tác, dùng làm giáo hoá, độ hết vô lượng chúng sinh, đều phát
bồ đề tâm. Thật gọi rằng đại hạnh công đức. Công đức tại
pháp tính trung, hằng tu (14b) vô lậu tính. Công đức đã vô lượng,
nghìn muôn ức kiếp viên mãn thành tựu công đức, bèn mới nhập
Phật vị .
Xứng lý ắt tự tính năng sinh vạn
pháp, thật ấy trang nghiêm nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc
độ, thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :"Di
Đà quốc độ tự nhiên hằng thường nghe tiếng thiên nhạc, dưới
thì toàn những hoàng kim làm đất".
Lời sớ sao rằng :
Trên thì thanh quang hằng mát, hoa nhạc
giao huy, bội hơn đệ thất phạm thiên, tam thiền diệu lạc, muôn giống
kỹ lạc, bất cổ tự minh, tự nhiên ra tiếng thanh xướng lưu
lượng, hoà nhã âm thanh. Dưới thì hoàng kim làm địa, thể tánh
ôn nhu, lại có kim chàng bảo cái, dùng trăm thức báu hợp nên,
đôi khi hằng phóng nghìn giống quang minh, mỗi nhất quang minh lại có
tám muôn bốn nghìn sắc ánh, mười phương bằng phẳng, rộng rãi
chẳng có Tu di chư sơn, chẳng có hà hải khanh khảm, chẳng có chốn
nào u ám, hằng phóng quang minh vô tận .
(15a) Xứng lý ắt tự tính vạn
đức hoàdung, thật ấy thiên nhạc nghĩa, tự tính chân như bình
đẳng, thật ấy kim địa nghĩa .
Trú dạ lục thời, ngũ thiên mạn
đà la hoa .
Hoa khai hợp trong 12 giờ, trời mưa
rắc xuống những thiên danh hoa .
Lời sớ sao rằng :
Tịnh độ trú dạ hằng minh, chẳng
dùng nhật nguyệt, nghe xem chim kêu hoa nở, thì gọi là ngày, chim đỗ
hoa hiệp, thì gọi là đêm. Hoa có hai giống. Một là thiên hoa, hai là
thọ hoa. Bốn phương tự nhiên gió thổi, đều ra chủng chủng âm thanh
thuyết pháp. Hoa thơm tùy phong, tán cúng chư bồ tát, hết thảy thanh
văn cùng chư đại chúng. tán hoa rắc xuống kim địa dày hơn bốn
tấc, hào quang sáng rỡ, mùi thơm lạ lùng. Hoa dầu khí héo, tự
nhiên gió thổi không sạch, thọ hoa tán cúng lại nhiếp thiên hoa .
Xứng lý ắt tự tính khai giác,
thật ấy danh hoa nghĩa .
Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh
đán, các dĩ y khích, thịnh chúng diệu hoa, cúng (15b1) dường tha
phương, thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn
quốc, phạm thực kinh hành .
Thửa nơi bỉ độ, chúng sunh thanh
đản, sớm mai đều dùng khăn gối, bèn đựng các giống thượng
diệu danh hoa, cúng dường đòi phương, mười vạn ức Phật, ắt bèn
đến khi thời thực, lại về tới bổn quốc, thời trai rồi, lại đi
kinh hành .
Lời sớ sao rằng :
Thanh đán là đầu sáu giờ, tịnh
tâm chí kỉnh. Y kích là khăn gói thanh tịnh, đựng hoa cúng khắp
mười phương ức Phật. Một Phật là một đại thiên quốc độ, tuy
rằng rộng xa, đã có thần túc phi hành, nhật trung thời lại về
đến bổn quốc, dầu đã vãng sanh, ắt được lục thần thông, chẳng
những phi hành tự tại, dầu khi phạn thực toàn những chủng chủng
bảo bát, trăm mùi ẩm thực, đều cùng sung mãn. A? rồi bèn lại
tiêu hoá, chẳng phải đại tiểu tiện lợi, hoặc là pháp hỷ, thiền
duyệt đều cùng bảo mãn, kinh hành là hằng giải thoát tiêu diêu
tự tại .
Xứng lý ắt tự tính tự nghiêm,
thật ấy thịnh hoa cúng dường nghĩa, tự tánh tự biến, thật ấy
thập vạn ức Phật nghĩa. Tự tính tự không, thật ấy (16a) thực
thời hoàn nghĩa. Tự tính tự trú, thật ấy bản quốc nghĩa. Tự
tính thường định, thật ấy phạn thực nghĩa. Tự tính thường tuệ,
thật ấy kinh hành nghĩa .
Xá Lợi Phất Cực Lạc quốc độ
thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Cực
Lạc quốc độ đã thành tựu chân thật công đức trang nghiêm".
Lời sớ sao rằng :
Pháp Tạng tỳ kheo tu bồ tát hạnh,
xưa phát nguyện rằng : Ta khi thành Phật, từ dưới nhẫn trên, đều
có vô lượng trăm nghìn giống hương bèn cúng hợp nên. Lại
nguyện rằng :"Khi ta thành Phật, mười phương vô ương số thế
giới chư thiên nhân dân, bèn dùng đựng hoa tán cúng". Lại
nguyện rằng :"Khi ta thành Phật, trong nơi quốc độ, chư bồ tát
đều dùng chủng chủng hương hoa cúng cụ, dầu muốn đến tha phương
thế giới cúng dường chư Phật, bằng giây phút khá đến khắp
mười phương". Lại nguyện rằng :"Khi ta thành Phật, mọi
người trong quốc độ ta, dầu khi muốn ăn chưng trong bảo bát, đủ
hết trăm mùi ẩm thực hoá nên hiện tiền, ăn rồi lại biến hoá
đi". Nay đã thành Phật, nhất nhất sở nguyện đều cùng thành
tựu .
(16b1) Phục thứ Xá Lợi Phất, bỉ
quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu, bạch
hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng chi
điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hoà nhã âm,
kỳ âm diễn xướng, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề phần, bát
thánh đạo phần, như thị đẳng pháp .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :"Bỉ
phương quốc độ, hằng có chủng chủng dị kỳ những chim nhiều thức
bạch hạc cùng chim khổng tước, anh võ cùng chim xá lợi, ca lăng
cùng chim tần già, bèn lại có chim cộng mệnh. Thật chư chúng điểu,
trú dạ trong 12 giờ đều cùng ra tiếng hoà nhã âm thanh, diễn
thuyết thông đạt, ngũ căn ngũ lực, cùng thất bồ đề phần, bát
thánh đạo phần, bằng thật đẳng pháp, ba muơi bảy phẩm trợ đạo .
Lời sớ sao rằng :
Cực lạc quốc độ, Di Đà ứng
hiển, hằng có chủng chủng dị kỳ, những chim nhiều sắc vẻ tốt. Chim
bạch hạc, khổng tước thuần thiệt hay (17a) nói chân ngôn, chim anh
võ, xá lợi biện tài nhiều lời diệu ngữ. Chim ca lăng tần già
trổi tiếng oai âm, siêu chư quần điểu. Lại có chim cộng mạng hai
đầu một thân, diễn thuyết phạn ngữ. Thật những chúng điểu trú
dạ trong 12 giờ, ra tiếng âm thanh hoà nhã, diễn thuyết thông đạt
ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Bằng
thật đẳng pháp, 37 phẩm trợ đạo đều minh .
Xứng lý ắt tự tính biến hoá,
thật ấy chúng điểu nghĩa, tự tính xuất sinh nhất thiết pháp môn,
thật ấy căn lực giác đạo nghĩa .
Kỳ độ chúng sanh văn thị âm dĩ,
giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng .
Thửa chúng sinh trong quốc độ ấy,
thật nghe diệu âm diễn thuyết rồi, ắt đều niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng .
Lời sớ sao rằng :
Hằng nghe ca xướng kỹ nhạc, ấy quả
thế gian phàm hý vô ích. Hằng niệm tam bảo là nhân hiền thánh,
phước huệ lưỡng toàn, thật là lợi ích vậy. Tam bảo có ba thứ.
Một là thế gian trụ trì tam bảo. Tạc hình, đúc tượng, xây tháp,
tranh vẽ, sơn thếp trang nghiêm, gọi là Phật bảo (17b). Quyển vàng,
quyển thắm, bìa bao ngũ sắc, gọi là pháp bảo. Tỳ kheo ngũ chúng,
hoà hợp vô tranh, gọi là tăng bảo. Hai là xuất thế gian tam bảo.
Tổng quát đại ý, pháp tướng tôn nghiêm, ứng hoá thị hiện, gọi
là Phật bảo. Giáo hạnh lý quả, quyền dụng đa môn, gọi là pháp
bảo. Tam hiền thập thánh, tứ quả tứ hướng, duyên giác bích chi,
phẩm vị tuỳ thứ, gọi là tăng bảo. Ba là tối thượng tam bảo.
Viên dung đại ý, tánh thể linh giác, chiếu liễu chư pháp, gọi là
Phật bảo. Hằng sa đức dụng, giai khả quỉ trì, gọi là pháp bảo.
Tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, gọi là tăng bảo. Thật ấy
tối thượng tam bảo .
Xứng lý ắt tự tính chân tâm
nhất thể, thật ấy Phật pháp tăng nghĩa .
Xá Lợi Phất, nhữ vật vị thử
điểu, thật thị tội báo sở sanh, sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ
vô tam ác đạo. Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác
đạo chi danh, hà huống hữu thiệt thị chư chúng điểu, giai thị A Di
(18a1) Đà Phật, dục linh pháp âm, tuyên lưu biến hoá sở tác .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất
:"Mày chớ rằng chim ấy ắt thật tội báo sở sanh. Thửa bèn sao
vậy? Di Đà quốc độ chẳng có tam ác đạo". Phật bảo Xá Lợi
Phất :"thửa nơi cực lạc quốc độ, còn chẳng có chưng danh ác
đạo, hà huống ắt thật có chư chúng điểu, đều những A Di Đà
Phật, muốn cho pháp âm tuyên diễn lưu bố, thửa bèn biến hoá,
dùng làm phương tiện".
Lời sớ sao rằng :
Cực lạc quốc độ chẳng có địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng có nữ nhân cùng người khuyết căn
tật bệnh, muôn kiếp chẳng từng nghe danh dữ, hà huống có chư
chúng điểu? Dầu tiếng nhạc, tiếng chim, tiếng gió, tiếng nước,
toàn những Di Đà biến hoá phương tiện. Khắp hết thế giới, đẳng
chư nhĩ căn, hằng nghe những tiếng diệu âm diễn thuyết .
Xứng lý ắt tự tính vô tham sân si
đẳng, thật ấy vô tam ác đạo nghĩa, tự tính vốn cùng như huyễn
pháp môn, thật ấy biến hoá sở tác nghĩa .
Xá Lợi Phất bỉ Phật quốc độ, vi
phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo (18b) la võng, xuất vi diệu
âm, thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác, văn thị
âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng chi tâm
.
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Di Đà
quốc độ, gió vi phong thổi động các hàng cây báu, đến nhẫn chư
bảo la võng đều cùng ra tiếng diệu âm, ví bằng trăm nghìn giống
nhạc, khi ấy đều cùng động dụng, thật nghe những tiếng diệu âm
ấy, tự nhiên đều sanh chưng lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng".
Lời sớ sao rằng :
Vi phong là bát chủng thanh phong, gió
thổi dịu dàng, chẳng hàn chẳng nhiệt, đượm mát thanh lương. Chư
bảo hàng thọ là vô số dị chủng thành hàng vô lượng bảo thọ.
La võng là dùng những thất bảo thượng diệu, thẳm cao muôn
trượng trùng trùng điệp, che khắp hoà thế giới Phật đạo tràng.
Thọ chủng thật trang nghiêm, vi phong hàng động, bèn ra vô lượng âm
thanh, đều cùng diễn thuyết diệu pháp, chúng sinh đều hiểu biết vô
sinh pháp nhẫn, hằng trụ bất thối chuyển, đều được thành tựu
vô thượng bồ đề .
Xứng lý ắt tự tính lý trí giao
dung, thật ấy phong thọ nghĩa .
(19a) Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc
độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá lợi Phất :"thửa
nơi Di Đà quốc độ, đã thành tựu chân thật công đức trang
nghiêm".
Lời sớ sao rằng :
Hóa cầm phong thọ, chủng chủng trang
nghiêm, đều bởi Phật nhân địa, nguyện hành chư công đức, bèn
thành tựu vậy .
Xứng lý ắt tự tính bát nhã châu
biến pháp giới, thật ấy điểu thọ thuyết pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, ư nhữ ý vân hà,
bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà?
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Chưng
ý mày rằng sao bỉ phương Phật ấy, nhân nào vậy, hiệu là A Di
Đà?"
Lời sớ sao rằng :
Một quyển kinh này, Di Đà Phật,
thật làm chánh chủ. Vì vậy tua phải thẩm vấn A Di Đà Phật là tứ
tự hồng danh, thành tựu vạn đức, thửa nghĩa sâu rộng, hợp vì
mở bảo, khiến người người đều minh sự lý trì danh niệm Phật,
cầu vãng sanh vậy .
(19b1) Xứng lý ắt tự tính chánh tư
duy, ắt thật ở ý vân hà nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ Phật quang minh vô
lượng chiếu thập phương ức vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi
A Di Đà .
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Di Đà
Phật quang minh vô lượng, soi khắp mười phương quốc độ, nào đâu
thửa chướng ngại, thật vì vậy hiệu là A Di Đà".
Lời sớ sao rằng :
Thật quang minh thọ mạng đều vô
lượng vậy. Một là trí quang. Hai là thân quang. Một là nhân tín
hạnh công đức thành tựu. Hai là nhân bản nguyện quả mãn thành
tựu. Lại rằng, Di Đà Phật đại phóng quang minh, bội hơn trăm ức
ba ngàn đại thiên thế giới. Lại có tám muôn bốn ngàn diệu
tướng. Nhất nhất tướng trung, lại có tám muôn bốn ngàn tùy hình
hảo. Nhất nhất hảo trung, lại có tám muôn bốn ngàn quang minh soi
khắp mười phương thế giới. Hết thảy chúng sinh niệm Phật, Phật
đều tiếp dẫn chẳng bỏ. Lại rằng : Một Phật Di Đà quang minh, soi
khắp 10 phương thế giới vô cùng vô tận, vì vậy hiệu là vô
lượng quang .
(20a1) Hựu Xá lợi Phất, bỉ Phật
thọ mạng, cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp,
cố danh A Di Đà .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :"Bỉ
Phật thọ mạng cùng thửa nhân dân vô lượng vô biên vô ương
số kiếp, vì vậy gọi là A Di Đà"
Lời sớ sao rằng :
Phật thọ, một là pháp thọ, phi thọ
phi bất thọ, phi thỉ phi chung là pháp thân thọ vậy. Hai là báo thọ,
nhất đắc vĩnh đắc, hữu thỉ vô chung , ấy là báo thân thọ. Ba là
ứng thọ, thị đồng sinh diệt, hữu thỉ hữu chung, ấy là ứng thân
thọ vậy. Lại rằng pháp thân lấy như lý làm mạng, báo thân dùng
trí tuệ làm mạng, ứng thân tùy nhân duyên làm mạng. Lại rằng,
nhân dân nhờ Phật, nhân bổn nguyện lực, đều được thọ mạng,
vô lượng vô biên, vô ương số kiếp vậy .
Xứng lý ắt tự tính thường
chiếu, thật ấy quang minh nghĩa. Tự tánh thường tịch, thật ấy thọ
mạng nghĩa. Tự tính tịch chiếu bất nhị, thật ấy A Di Đà nghĩa .
Xá Lợi Phất, A Di Đà Phật thành
Phật dĩ lai ư kim thập kiếp .
Phật bảo Xá (20b) Lợi Phất :"A
Di Đà Phật tự thành Phật đến nhẫn nay kể đã được 10 đại
kiếp".
Lời sớ sao rằng :
Thành kiếp 20 lần tăng giảm. Trụ
kiếp 20 lần tăng giảm. Hoại kiếp 20 lần tăng giảm. Không kiếp 20
lần tăng giảm. Tám mươi lần tăng giảm là một đại kiếp. 10 lần
đại kiếp là 800 tiểu kiếp vậy .
Xứng lý ắt bản lai thành Phật,
thật là thập kiếp nghĩa .
Hưụ Xá Lợi Phất, bỉ Phật hữu
vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử, giai A la hán, phi thị toán số,
chi sở năng tri. Chư Bồ tát chúng, diệc phục như thị .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :"Di
Đà có vô lượng vô biên Thinh văn đệ tử, đều những bậc A la
hán, thật khôn toán kế, bèn thửa hay biết. Chư Bồ tát chúng, ắt
thật lại nhiều như vậy".
Lời sớ sao rằng :
Trước cử thinh văn, sau cử bồ
tát, đều minh thửa hiền (21a) thánh vậy. Thinh văn nghe tứ thánh
đế , nguyện hữu thâm thiển, bèn có tam quả A la hán toàn những
tứ quả. Giả sử thinh văn tỳ kheo, mãn trăm ngàn muôn ức vô
ương số, khôn hay kể xiết vậy. A la hán đã rồi hết chư lậu.
Những bậc lòng bền kiên cố chẳng động, như Tu di sơn, lòng trí
sáng biết, như nhật nguyệt minh, lòng quảng đại dường bằng biển
lớn, sinh ra chủng chủng công đức vô lượng vô biên, ắt chư bồ
tát đương lai đều được thành Phật. Vì vậy rằng nhất sinh bổ
xứ .
Xứng lý ắt tự tính tức không
tức giả, thật ấy Phật hữu thinh văn bồ tát nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ
thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá Lợi Phất, cực
lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị a bệ bạt trí .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :" Di
Đà quốc độ, hạnh nguyện đã thành tựu, thật như dường ấy,
công đức trang nghiêm". Phật lại bảo Xá Lợi Phất :"Chúng
sinh vãng sinh tịnh (21b) độ, ắt thật đều nên chẳng còn thối
chuyển".
Lời sớ sao rằng :
Từ Chiếu tông chủ, lập đồ diễn
thuyết tứ độ, những thứ chưa rồi phiền não, vãng sinh đồng cư
độ, gọi là nguyện bất thối. Phá hết tà kiến tà tư, vãng sinh
phương tiện độ, gọi là hạnh bất thối. Phá trần sa vô minh, vãng
sinh Thật báo độ gọi là trí bất thối. Phá tam hoặc tịnh tận, vãng
sinh Tịch quang độ, gọi là vị bất thối. Tuy bất thối, danh đồng, bèn
thâm thiển có khác .
Xứng lý ắt tự tính thường trụ,
thật ấy bất thối nghĩa .
Kỳ trung đa hữu, nhất sanh bổ xứ,
kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô
lượng vô biên a tăng kỳ kiếp .
Thửa trong quốc độ ấy, có nhiều
bồ tát quyết vãng sinh. Lại tua bổ xứ, thửa kể cực nhiều, ắt
thật khôn toán kế, thửa hay xiết vậy, bèn dầu khả thuyết, vô
lượng vô biên vô ương số .
Lời sớ sao rằng :
Vãng sinh bỉ quốc, há những dự
bất thối, lại có bổ (22a) xứ bồ tát khôn khá kể xiết, hằng
khuyên cầu vãng sinh vậy. Bổ xứ ấy, những quyết vãng sinh, lại tua
bổ Phật vị ắt thật những đẳng giác bồ tát vậy. Nhất sinh bổ
xứ, là chư bồ tát chí nguyện vãng sinh, đều được tam thập nhị
tướng, thâm nhập diệu pháp, tua bổ Phật vị. Như Phật là Hộ Minh
thuở trước, Di Lặc thuở sau, tua bổ Phật vị. Dường bằng Thái
tử đông cung, thật ấy thiệu truyền đế vị .
Xứng lý ắt tự tính quyết định
thành Phật, thật ấy nhất sinh bổ xứ nghĩa .
Xá Lợi Phất, chúng sinh văn giả,
ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
Phật bảo Xá lợi Phất :"Chúng
sinh nghe tin vậy, chỉnh hợp phát nguyện, nguyện cầu vãng sinh tịnh
độ".
Lời sớ sao rằng :
Khuyên tín khuyên nguyện có 4 thứ .
Một là nghe diễn thuyết vãng sinh, được thân tâm thế giới thanh
tịnh, bèn phát tín nguyện vậy. Hai là nghe diễn thuyết dùng nhất tâm
trì danh, quyết định ắt được vãng sinh, bèn phát tín nguyện vậy. Ba
là nghe kinh diễn thuyết, rằng trì danh niệm Phật, Phật ắt hộ niệm,
đều được bất thối bồ đề, bèn phát tín nguyện vậy. Bốn là
nghe (22b) kinh thuyết, có tín có nguyện, muôn người niệm, muôn
người vãng sinh, bèn phát nguyện vậy .
Xứng lý ắt tự tính hoàn quy bản
thể, thật ấy nguyện sanh bỉ quốc nghĩa .
Sở dĩ giả hà đắc, dữ như thị,
chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ
Thửa bèn sao vậy? Cũng được thật
như dường ấy. Những dự chư thượng thiện nhân cùng hợp một
chốn .
Lời sớ sao rằng :
Chẳng những nhân trung chi thiện ,
lại có thinh văn bồ tát cùng dự tua bổ xứ, quyết định vãng sinh,
đều cùng hội họp nhất xứ. Thửa rằng Quán Âm Thế Chí, dang tay
cùng đi, Văn Thù Phổ Hiển đều làm thân thắng thiện hữu.
Xứng lý ắt vạn thiện đồng qui,
thật ấy đồng hội nhất xứ nghĩa.
Xá Lợi Phất, bất khả dĩ thiểu
thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.
(23a) Phật lại bảo Xá Lợi Phất :
"chẳng khá rằng lấy thiểu thiện căn phước đức nhân duyên,
mà được vãng sinh bỉ quốc."
Lời sớ sao rằng:
A Di Đà Phật là vô thượng bồ
đề. Kinh này dạy trì danh là ắt thật hồi hướng vô thượng bồ
đề. Di Đà đã thành tựu vạn đức, dầu cử một danh, muôn đức
đều viên, sức dùng trì niệm, tự nhiên chư ác chẳng sinh, chư
thiện phụng hành ắt thật phúc trung chi phúc, ấy là đa phúc vậy.
Xứng lý ắt tự tính xuất sinh nhất
thiết phát, thật ấy thiện căn nghĩa, tự tính phú hữu nhất thiết
pháp, thật ấy phúc đức nghĩa.
Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam
tử thiện nữ nhân,văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu,
nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ
nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất
tâm bất loạn.
Phật bảo Xá Lợi Phất: "dầu
có người thiện nam (23b) tử, người thiện nữ nhân, nghe thuyết A Di
Đà Phật, chuyên trì niệm danh hiệu, dầu một ngày, dầu hai ngày,
dầu ba ngày, dầu bốn ngày, dầu năm ngày, dầu sáu ngày, đến nhẫn
bảy ngày, nhất tâm niệm Phật, lòng chẳng tán loạn".
Lời sớ sao rằng:
Di Đà danh hiệu, thật là tiêu niệm
cảnh, chấp trì nhất tâm, thật là minh niệm pháp. Nhất nhật chí
thất nhật, thật là khắc niệm kỳ. Chấp trì danh hiệu, quyết trí
vãng sanh, ấy là sự nhất tâm. Niệm niệm hằng minh thật tướng,
ấy là lý nhất tâm. Một lòng tín nguyện niệm Phật, chẳng có tạp
tưởng nghi hối, ấy là bất loạn .
Xứng lý ắt tự tính phi ức phi
vọng, thật ấy chấp trì nghĩa. Phi kim phi tạp thật ấy thất nhật
nghĩa. Phi nhất phi đa thật ấy nhất tâm nghĩa. Phi định phi loạn thật
ấy bất loạn nghĩa .
Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di
Đà Phật vị chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền .
Thửa người ấy chưng khi lâm mạng
chung thời, A Di Đà Phật cùng chư thánh chúng, ứng thân hiện tiền,
thửa nơi trước mặt .
(24a) Lời sớ sao rằng:
Nước thanh trong sạch, ắt nguyệt bèn
đến. Lòng thanh tịnh, ắt Phật bèn hiện. Thửa rằng cảm ứng đạo
giao, khôn tư nghì vậy .
Xứng lý ắt tự tính vọng cùng,
chân lộ, thật là nghĩa lâm chung Phật hiện .
Thị nhân chung thời, tâm bất điên
đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật, cực lạc quốc độ .
Thật người ấy khi lâm mạng chung
thời, lòng chẳng điên đảo, ắt được vãng sinh A Di Đà Phật
cực lạc quốc độ.
Lời sớ sao rằng:
Bởi thuở bình nhật, tùy thuận
vọng tưởng, chẳng tu chính niệm, lòng nhiều tán loạn, gọi là
điên đảo. Rày đã nhất tâm bất loạn, trong ắt kiên trì chính
niệm, ngoài bèn Phật cảm lai nghênh như lời Phật thuyết, tùy thửa
tâm tịnh, ắt Phật độ tịnh, nhất niệm chính tưởng thành tựu, ắt
được vãng sinh, chẳng còn nghi vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô hình, thật
ấy bất điên đảo nghĩa, tự tính vô cấu, thật âý sinh cực lạc
nghĩa .
Xá Lợi Phất, ngã kiến thị lợi,
cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả,
ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ .
Phật bảo Xá Lợi Phất :"Ta thấy
thật lợi ích, vì vậy diễn thuyết lời ấy. Dầu có chúng sinh nghe
thuyết thật như vậy, chỉnh hợp phát nguyện, cầu vãng sinh bỉ quốc
tịnh độ".
Lời sớ sao rằng:
Nhất tâm trì niệm Phật danh, Phật
đến tiếp dẫn, bèn được vãng sinh thật là tự lợi. Sinh tịnh
độ rồi, liền được văn pháp ngộ đạo, hoàn lai tam giới, rộng
độ vô lượng chúng sinh, thật là lợi tha. Tự tha câu lợi thật
là thị lợi .
Xứng lý ắt tự tính cụ túc, thật
ấy thị lợi nghĩa .
Xá Lợi Phất, như ngã kim giả tán
thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức chi lợi .
Phật bảo Xá Lợi Phất :"bằng ta
nay vậy, tán thán A Di Đà Phật, khôn khả tư nghì, chưng công đức
âý, thật đại lợi (25a) ích".
Lời sớ sao rằng:
Tán là lời tán thán xưng dương. Di
Đà thậm mỹ quảng đại công đức, người người đều quy tín
vậy. Thán là cảm kích thâm thiết, pháp ấy trong nhân thiên, họa
có lịch kiếp nhân duyên, bèn mới được gặp, khôn khá tư nghì
vậy .
Xứng lý ắt tự tính ly tâm ngôn
tướng, thật ấy bất khả tư nghì công đức nghĩa .
Đông phương diệc hữu A Súc Bệ
Phật. Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm
Phật, như thị đẳng hằng ha sa số chư Phật .
Đông phương ắt có A Số Bệ Phật,
Tu Di Tướng Phật cùng Đại Tu Di Phật với Tu Di Quang Phật cùng Diệu
Âm Phật, thật bằng các đấng chư Phật hằng hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Chư Phật đều tán thán vậy, thấy
tịnh độ pháp môn ngàn muôn vô lượng chư Phật dị khẩu đồng âm,
cùng thửa tán thán, bèn hợp tín (25b) chớ nghi vậy .
Hễ cữ 10 phương, lấy đông phương
làm đầu. Bốn mùa lấy xuân làm trước, muôn vật sinh trưởng là
trí tuệ nghĩa. muôn pháp dùng trí tuệ làm đạo sư, vì vậy cử
đông phương trước. A? như Văn Thù, Xá Lợi làm thầy đại
chúng. Đông phương A Súc Phật là pháp thân bất động vậy. Tu Di
Tướng Phật là tướng hảo cao diệu, bách phước thành tựu, chúng
bảo đều cụ túc vậy. Đại Tu Di là Phật đức cao rộng khỏi hết
quần phẩm chư danh sơn vậy. Tu Di Quang Phật là Phật thân hằng phóng
quang, chiếu sáng soi khắp hết quần phương vậy. Diệu Âm Phật là
pháp âm viên diệu đệ nhất, tùy cơ diễn thuyết, chúng sinh đều
thì liễu ngộ vậy .
Hằng hà là ở Tây vức trên
đảnh Hương sơn, có Vô nhiệt não trì, lưu xuất tứ hà. Mỗi hà
rộng 40 dặm lấy làm tỉ dụ .
Xứng lý ắt tự tính trí tuệ bất
khả tận, thật ấy đông phương hằng sa Phật nghĩa .
(26a1) Các ư kỳ quốc, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Chưng thửa nơi chư Phật quốc độ
đều phóng thiệt tướng ra, dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên
thế giới .
Lời sớ sao rằng:
Nhân bởi khẩu nghiệp thanh tịnh, chưa
từng vọng ngôn ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác mạ, hằng chân thật
ngữ, hằng chánh trực ngữ, hằng nhu nhuyễn hoà hợp ngữ. Phật
đã vô lượng kiếp nhẫn nay chưa từng vọng ngữ, tích nhiều công
đức, bèn được cảm quả trường thiệt tướng, che khắp ba ngàn
đại thiên thế giới. Một tứ đại bộ châu là một nhật nguyệt.
Một non Tu Di gọi là tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới gọi
là tiểu thiên. Một ngàn tiểu thiên gọi là trung thiên. Một ngàn
trung thiên gọi là đại thiên. Ba ngàn đại thiên thế giới, làm
một Phật quốc độ vậy .
Xứng lý ắt tự tính chân biến
pháp giới, thật ấy quãng trường thiệt nghĩa .
Thuyết thành thật ngôn, nhữ đẳng
chúng sinh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì (26b1) công đức,
nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật pho ngươi
đẳng chư chúng sinh, hợp tín thật xưng dương tán thán, khôn khả tư
nghì công đức, hết thảy chư Phật đều hộ niệm kinh .
Lời sớ sao rằng:
Hộ niệm là những người niệm
Phật, sức Phật phò trì bảo hộ, khiến được an ổn, khỏi hết
chướng nạn vậy. Lòng Phật hằng hộ niệm, khiến thửa tinh tấn,
chẳng còn thối chuyển vậy. Những người niệm Phật, Phật hằng
thường trụ, ứng hiển trên đầu, lại được nhiều sự ích lợi.
Những người niệm Phật, Di Đà hằng phóng quang minh, nhiếp thọ
người ấy. Bổn Sư Thích Ca cùng 10 phương chư Phật, cùng hộ niệm
người ấy. Hợp hay người niệm Phật, Phật hằng hộ niệm, cảm
ứng tự nhiên, thật chẳng phải cuống hoặc vậy .
Xứng lý ắt tự tính bất biến, ấy
là thành thật nghĩa, tự tính bất ly, thật ắt hộ niệm nghĩa .
Xá Lợi Phất, Nam phương thế giới
hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại (27a1) Diệm
Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, như thị đẳng
hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Nam
phương thế giới có nhật nguyệt Đăng Phật cùng Danh Văn Quang Phật,
có Đại Diệm Kiên Phật cùng Tu Di Đăng Phật, lại có Vô Lượng
Tinh Tấn Phật. Thật bằng các đấng chư Phật, hằng hà sa số".
Lời sớ sao rằng:
Nhật Nguyệt Đăng Phật là đại trí
vô tận. Nhật thời sáng soi ban ngày. Nguyệt thời sáng soi ban đêm.
Đăng thời quang chiếu những nơi nhật nguyệt chẵng soi đến, là bát
nhã viên quang nhất thiết chủng trí vậy. Danh Văn Quang Phật là danh
xưng phổ văn, như sáng soi xa, danh nghe khắp hết mười phương vô
lượng thế giới, dường bằng huệ nhật quang minh, nào đâu chẳng
khắp vậy. Đại Diệm Kiên Phật là quyền thật nhị trí quang minh,
dường bằng hai vai chiếu diệu, quyền trí hằng thường chiếu sự,
thật trí hằng thường chiếu lý. Sự lý phân minh, song chiếu bất
muội, hà đảm hết thảy Phật pháp vậy .
Tu Di Đăng Phật là thân trường
tám muôn bốn ngàn do tuần, Phật dùng trong (27b1) đạo đại trí sáng
soi khắp hết hằng sa thế giới, quảng độ chúng sinh, trí quang cao
viễn như Tu Di sơn vậy .
Vô Lượng Tinh Tấn Phật là tinh tấn
kiến giải vậy. Một là mọi thời tinh tấn vô lượng. Hai là đẳng
sự tinh tấn vô lượng, tự lợi lợi tha, trí hạnh vô biên vậy .
Xứng lý ắt tự tính quang minh vô
tận, thật ấy nam phương, hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Điều chưng thửa nơi chư Phật quốc
độ, phóng thiệt tướng dài rộng, che khắp ba nghìn đại thiên thế
giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng
chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Lời diễn thuyết chân thật:"pho
ngươi các đấng chúng sinh hiệp tín thật (28a) xưng dương tán thán
khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật thửa đều hộ niệm
kinh .
Xá Lợi Phất, Tây phương thế giới
hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng
Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh
Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Tây
phương thế giới có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật,
lại có Vô Lượng Tràng Phật cùng Đại Quang Phật, Đại Minh Phật,
Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, bằng thật các đấng chư Phật hằng
hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Vô Lượng Thọ Phật là Cực Lạc
thế giới có tam thập lục vạn ức, lại có nhất thập nhất vạn
chín ngàn năm trăm đồng danh đồng hiện A Di Đà là Vô Lượng Thọ
vậy. Vô Lượng Tướng Phật là tướng hảo vô tận, hoặc ứng 32
tướng hảo, hoặc hiện tám muôn bốn ngàn tướng hảo, hoặc ứng
hoá vi trần tướng hảo, phước đức vô lượng, tướng hảo vô
lượng vậy .
(28b) Vô Lượng Tràng Phật là công
đức chí tôn, dụ như tràng phan, trật phẩm cao hiển siêu việt, là
vô lượng quảng đa vậy .
Đại Quang Phật là quang huy quảng
chiếu vậy. Phật thân hằng hiển hiện quang minh, chẳng phải mượn
nhật nguyệt, hằng soi sáng khắp hết 10 phương. Vì vậy danh là Đại
Quang. Đại Minh Phật là đại trí thường minh, phá rối hết chư hoặc
vậy, dùng nhất thiết trí phá hết kiến tư hoặc, dùng đạo chủng
trí phá hết trần sa hoặc, dùng nhất thiết chủng trí phá hết vô
minh hoặc, dường bằng cảo nhật đương không, nào đâu chẳng quán
chiếu, vì vậy danh là Đại Minh Phật .
Bảo Tướng Phật là tướng hảo
thù diệu, như vô thượng bảo tôn quý vậy. Dùng nhất mắt có tám
muôn bốn ngàn thanh tịnh bảo mục. Mục hào tướng như lưu ly, hằng
phóng quang. Nương long dường bằng tử kim sắc. Nhục kế tướng như
ngọc Chân Thúc ca. Vì vậy danh là Bảo Tướng. Tịnh Quang Phật là
Phật đức thanh tịnh, hằng phát quang minh vậy, dường bằng kính thanh
tịnh soi khắp muôn hình, hằng sáng thanh tịnh. Vì vậy danh là Tịnh Quang
.
Xứng lý ắt tự tính thanh tịnh bất
khả tận, thật ấy Tây phương hằng sa (29a) Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa chưng nơi chư quốc độ,
phóng thiệt tướng ra dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên thế
giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng
chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Lời diễn thuyết chân thật :"pho
ngươi các đấng chúng sinh hợp tin thật xưng dương tán thán khôn
khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh".
Xá Lợi Phất, Bắc phương thế giới
Hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Am Phật, Nan Thư Phật, Nhật Sanh Phật,
Võng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật.
Phật bảo (29b1) Xá Lợi
Phất:"Bắc phương thế giới có Diệm Kiên Phật, tối thắng âm
Phật, lại có Nan Trở Phật, Nhật Sinh Phật cùng Võng Minh Phật, bằng
thật các đấng chư Phật hằng hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Diệm Kiên Phật là lời trước đã
giải, tuy Phật trước có đại tự, song le nghĩa chẳng khác vậy .
Tối Thắng Âm Phật là cực diệu
hảo âm thanh, dầu nhân thiên nhị thừa bồ tát, hết thảy âm thanh
đều chẳng kịp vậy. Bát âm gồm no. Vì vậy danh là Tối Thắng .
Nan Thư Phật là Phật đức kiên mật
khôn hoại được vậy, đã chứng pháp thân, được kim cang bất
hoại thể, trần sa não hoặc khôn hay ác chỉ ngăn trở được, vì
vậy danh là Nan Thư .
Nhật sinh Phật là Phật quang xuất
hiện, sướng bằng Nhật xuất cao thăng vậy. Như chư Phật thành tựu
chánh giác, thuyết pháp lợi sinh, tuệ quang phổ chiếu, chẳng khác
nhật sinh đông phương vậy .
Võng Minh Phật là đại trí như bão
võng, ngàn thức ngọc giao ánh quang minh thấu suốt, Phật trí che khắp
chúng sinh, nào đâu chẳng soi vậy, hết thảy chủng (30a1) chủng pháp
môn, đều cùng dung thông, giác hết quần mê gọi là Võng Minh .
Xứng lý ắt tự tính hàm nhiếp vô
tận, thật ấy bắc phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa nơi chư Phật quốc độ,
phóng thiệt ra tướng dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên thế
giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng
chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật
ngữ:"pho ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật xưng dương tán
thán, khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm
kinh".
Xá Lợi Phất, Hạ phương thế giới
hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật (30b1), Đạt Ma Phật,
Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư
Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Hạ
phương thế giới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật cùng Danh Quang Phật,
Đạt Ma Phật lại có Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, bằng thật các
đấng chư Phật hằng hà sa số".
Sư tử có nhị nghĩa. Một là làm
vương chư thú, du hành tự tại. Như Phật, hết thảy phàm thánh tôn
kính, vào ra tam giới, tự tại vô ngại. Hai là oai âm, chúng thú
kinh sợ. Như Phật thuyết pháp, thiên ma ngoại đạo, đều cùng tín
phục. Vì vậy danh là Sư Tử .
Danh Văn Phật là vô lượng pháp
môn, hà sa diệu đức, thế giới đều cùng hay danh, gọi là Danh Văn
Phật .
Danh Quang Phật là danh sáng như nhật
quang, nào đâu chẳng sáng khắp, chúng sinh đều cùng ngưỡng vọng,
tiêu danh hiển quang, gọi là Danh Quang Phật .
Đạt Ma thử phương là đặt pháp
vậy, ắt kiêm lưỡng lợi. Một là dùng pháp quỷ trì, kỷ đức
thành tựu pháp thân, hai là dụng pháp quý trì, giáo tha khiến hết
chúng sinh, đều chứng pháp thân gọi là Đạt Ma Phật .
(13a1) Pháp Tràng Phật là Phật pháp
cao hiển vậy, nhân thiên kính ngưỡng, lấy làm tôn chủ, tà ngoại
khâm vọng, đều cùng hàng phục như vô lượng tràng, danh gọi làm
Pháp Chàng Phật .
Trì Pháp Phật kiêm hữu nhị nghĩa.
Một là chấp trung danh trì, hai là chấp thủ danh trì, chẳng trụy lững
biên, hằng giữ trung đạo, gọi là Trì Pháp Phật .
Xứng lý ắt lượng chi di thâm, bất
khả cùng tận, thật là hạ phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa chưng chư Phật quốc độ
phóng thiệt tướng ra dài rộng, che khắp ba ngàn đại thiên thế
giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng
chúng sinh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhiết
chư phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật:"pho
ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật (31b) xưng dương tán thán
khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm
kinh".
Xá Lợi Phất, Thượng phương thế
giới hữu Phạm Am Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương
Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật,
Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật,
Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất
:"Thượng phương thế giới có Phạm Am Phật, Tú Vương Phật cùng
Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, lại có Đại Diệm Kiên Phật,
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật cùng Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa
Đức Phật, lại có Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật.
Bằng thật các đấng chư Phật hằng hà sa số".
Phạm Âm là Phật âm thanh tịnh,
chẳng có tạp nhiễm vậy. Phật hằng dụng nhất thừa pháp, hoá đạo
chúng sinh, gọi là thuần nhất bất tạp, (32a) cụ túc thanh bạch phạm
hạnh, vì vậy danh là Phạm Âm .
Tú Vương, ấy là chân nguyệt, vạn
điểm tinh quang bất như nhất nguyệt, chân nguyệt dụ làm đại giác,
siêu xuất quần mê, chúng sinh đều cùng quy ngưỡng, vì vậy gọi
làm Tú Vương .
Hương Thượng là thánh trong thánh,
như hương trong hương, tối thượng vô tỉ, Phật chứng ngũ nhận pháp
thân, hương xông vô lượng thế giới, ngũ phận siêu xuất nhân
thiên nhị thừa chi hương vậy, gọi làm Hương Thượng Phật .
Hương Quang là hương trung phát quang,
gồm no đoạn trí nhị đức vậy. Hương hay trừ ác khử uế, đều
cùng tịnh tận trí đức. Quang là trí huệ quang chiếu tuyệt chư si ám.
Vì vậy danh là Hương Quang .
Đại Diệm Kiên, nghĩa như Phật
trước đồng danh hiệu, vô lượng vô biên vậy .
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân là vạn
hạnh trang nghiêm pháp thân vậy. Phật là nhất thiết chủng trí, gồm
no lục độ vạn hạnh, dường bằng muôn giống bảo hoa trang nghiêm
pháp thân vậy. Sa La Thọ Vương là kiên cố tối thắng, tam giới
độc tôn, như thọ vương vậy. Phật là chúng thánh trung vương gọi
là Thọ Vương .
(32b) Bảo Hoa Đức, lấy hoa dụ đức
Phật thì phú hữu vạn đức, quý trọng thiên hoa, tôn vinh quý
trọng danh Bảo Hoa Đức Phật .
Kiến Nhất Thiết Nghĩa là hết thảy
thế gian, dầu xuất thế gian vô lượng chư pháp diệu nghĩa, đều
cùng thông vậy, danh là Nhất Thiết Nghĩa Phật .
Như Tu Di Sơn là chúng sơn chi vương,
Phật đức siêu việt dường bằng tu Di vậy. Vạn đức giao la chúng
bảo hợp thành, Tu Di là vương chúng sơn, Như lai làm vương tam giới.
Vì vậy danh xưng Tu Di Sơn Vương Phật .
Xứng lý ắt tự tính ngưỡng chi di
cao bất khả tận, thật ấy thượng phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Điều chưng thửa chư Phật quốc độ
phóng thiệt tướng ra dài rộng, che khắp ba ngàn đại thiên thế
giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng
chúng sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị (33a) công đức,
nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật:"Pho
ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật xưng dương tán thán khôn
khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh".
Lời sớ sao rằng:
Tự trước lục phương chư Phật tán
thán, ắt thật Di Đà sức bản nguyện vậy. Kinh Đại bản rằng:
Thửa Di Đà còn làm Pháp Tạng tỳ kheo, lời phát nguyện rằng
:"Ngã tác Phật thời, danh nghe khắp 10 phương, vô ương số thế
giới, xưng tán Di Đà, khắp chưng các chư quốc độ". Nay Di Đà
thành Phật, lại như thửa lời nguyện .
Xứng lý ắt tự tính biến chiếu,
thật ấy lục phương Phật tán nghĩa .
Xá Lợi Phất, ư nhữ ý vân hà?
Hà cố danh vi nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Chưng ý
mày rằng sao? nhân nào vậy gọi là hết thảy chư Phật sở hộ niệm
kinh?".
Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh thọ trì giả (33b1) cập văn chư
Phật danh giả .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Dầu có
người thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe Di Đà kinh thọ trì vậy,
bèn đến nhẫn nghe chư Phật danh vậy".
Lời sớ sao rằng:
Văn ắt là văn tuệ, tư ắt là tư
tuệ, tu ắt là tu tuệ. Văn là tín nghĩa, thọ là nguyện nghĩa, trì
là hành nghĩa .
Xứng lý ắt tự tính tự quỹ ắt
thật ấy văn thử nghĩa, tự tính tự giác, thật ấy văn chư Phật
danh nghĩa .
Thị chư thiện nam tử, thiện nữ
nhân, giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối
chuyển ư A nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Dầu
thật những người thiện nam tử, thiện nữ nhân, hết thảy chư
Phật, bèn thửa đều cùng hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển,
chưng vô thượng bồ đề thành đẳng chánh giác".
Lời sớ sao rằng:
Thập căng già sa là vô ương số,
chư Phật bèn thửa (34a) nhiếp thọ chẳng những sáu phương một hằng
hà sa vậy. Lời Phạm ngữ : A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hoa ngôn
là vô thượng chánh đẳng chánh giác vậy. Linh linh độc chiếu liễu
liễu thường tri, chưa từng tăng giảm, chẳng có đắc thất, bồ đề
ắt thật ta, ta ắt thật bồ đề, còn chẳng có tiến, hà huống có
thối .
Xứng lý ắt tự tính thường giác,
thật ấy bất thối nghĩa .
Thị cố Xá Lợi Phất, nhữ đẳng
giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Chúng
ngươi đều hợp tin vâng lời ta cùng chư Phật thửa diễn
thuyết".
Lời sớ sao rằng:
Giai đương tín thọ, thật là đệ tam
trùng khuyến. Tín hành nguyện, ba sự chẳng khá khuyết một. Tín là
tin Di Đà bản nguyện, Thích Ca diễn thuyết, lục phương tán thán.
Hạnh là tinh tấn chuyên cần, trì niệm danh hiệu, một lòng hằng
nhớ, chẳng khi tán loạn. Nguyện là nguyện vãng sinh tịnh độ, chẳng
còn thối chuyển, kíp nên vô thượng bồ đề. Tín, hạnh, nguyện ba
sự chẳng khá khuyết nhất. Ngàn người tin niệm, ngàn người vãng
sinh, muôn người tin niệm, muôn người (34b) đều được vãng sinh.
Hằng tin niệm danh hiệu Phật, lòng hằng ức tưởng Phật, miệng hằng
niệm Phật, thân hằng kính Phật, mới gọi là thâm tín tâm, lấy
làm thiết yếu vậy.
Xứng lý ắt tự tính bản lai thị
Phật, thật ấy tín thọ nghĩa .
Xá Lợi Phất, nhược hữu nhân dĩ
phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà
Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai bất đắc thối chuyển ư A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim
sanh, nhược đương sanh .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"dầu có
người quá khứ thế đã phát nguyện, hoặc hiện tại thế này phát
nguyện, hoặc vị lai thế hợp phát nguyện, muốn vãng sinh A Di Đà
Phật quốc độ vậy, thật các đấng chư nhân đều được bất thối
chuyển chưng vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác, chưng nơi bỉ
phương quốc độ, dầu quá khứ đã vãng sinh, hoặc hiện tại nay
vãng sinh, hoặc vị lai hợp vãng sinh".
(35a) Lời sớ sao rằng :
Dĩ nguyện dĩ sinh là rằng những
người thửa trước nguyện cầu đã được vãng sinh vậy. Kim nguyện
kim sinh, những người thửa khi Phật trú thế, một lòng nguyện cầu
được vãng sanh vậy. Đương nguyện đương sinh, là những người nghe
thuyết kinh rồi, một lòng tin nguyện cầu, đều được vãng sinh vậy .
Xứng lý ắt tự tính phi khứ lai
kim, thật ấy dĩ sinh, kim sinh, đương sinh nghĩa .
Thị cố Xá Lợi Phất, chư thiện nam
tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện,
sanh bỉ quốc độ .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"Thật vì
vậy, những người thiện nam tử, thiện nữ nhân, dầu có tin vậy,
chỉn hợp phát nguyện, nguyện sinh bỉ phương cực lạc quốc độ".
Lời sớ sao rằng :
Dầu có nguyện ắt được vãng sinh,
tùy nhân cảm quả vậy. Dại thay chẳng tin, dầu tin ắt lại nguyện
vậy, nào ai chẳng được vãng sinh. Văn Thù làm thầy chúng tín, cụ
túc nhất tâm. Phổ Hiền làm vương chư nguyện, bất ly đương niệm .
Xứng lý ắt tự tính như trí minh
khế, thật ấy tín nguyện song thành nghĩa .
(35b) Xá Lợi Phất, như ngã kim giả
xưng tán chư phật bất khả tư nghị công đức.
Phật bảo Xá Lợi Phất:"bằng ta
nay vậy, xưng dương tán thán chư Phật khôn khả tư nghị công
đức".
Lời sớ sao rằng :
Dầu xưng dương tán thán vô lượng
thọ Phật, ấy là lời tán thán chư Phật. Di Đà với chư Phật
cùng đồng một pháp thân vậy. Thích Ca cùng chư Phật tán thán Di
Đà khôn khá tư nghị công đức, ắt đã thuận thửa lời kinh văn,
đồng nhất pháp thân chi nghĩa .
Bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán
ngã bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị ngôn :Thích Ca Mâu Ni
Phật năng vi thậm nan y hữu chi sự, năng ư Ta bà quốc độ, ngũ
trược ác thế, kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng
sanh trược, mạng trược trung, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Các phương chư Phật đẳng, ắt đều
xưng dương tán thán (36a) ta khôn khả tư nghị công đức, bèn làm
phương tiện lời chân thật diễn thuyết : Thích Ca Mâu Ni Phật hay
diệu dụng những sự thậm nan hy hữu, chưng nơi Ta bà quốc độ,
thời ngũ trược ác thế, một là mạt vận trần cấu chẳng thanh, hai
là suy kiến điên đảo chẳng thanh, ba là phiền não xí thạnh chẳng
thanh, bốn là chúng sinh nghiệp chướng chẳng thanh, năm là suy mệnh
xúc đoản trần khổ nhiễu loạn chẳng thanh. Trong nơi ngũ trọc,
được chứng nên vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác .
Lời sớ sao rằng :
Kiếp trược là mạt vận trần cấu
chẳng thanh vậy. Kiến trược là suy kiến điên đảo chẳng thanh vậy.
Phiền não trược là tham sân si phiền não chẳng thanh vậy. Chúng sinh
trược là luân hồi lục đạo nghiệp chướng chẳng thanh vậy. Mạng
trược là suy mạng súc đoản, chư khổ triền phược chẳng thanh vậy
.
Xứng lý ắt tự tính thỉ giác minh
hộ bản giác, thật ấy tán chư Phật nghĩa. Bản giác minh hồ thỉ
giác, thật ấy tán ngã nghĩa. Tự tính tịch nhi thường chiếu, chiếu
nhi thường tịch, thật ấy Thích Ca Mâu Ni nghĩa. Tự tính nhiễm nhi bất
nhiễm, bất nhiễm nhi nhiễm, thật ấy ngũ trược bồ đề nghĩa .
(36b) Vị chư chúng sanh, thuyết nhị
nhất thiết thế gian nan tín chi pháp .
Vì chư chúng sinh, thật diễn thuyết
hết thảy thế gian bèn chưng pháp khôn tin .
Lời sớ sao rằng :
Nguồn cơn cửa pháp tịnh độ, hết
thảy thế gian bèn thửa không tin. Một là ở phương uế độ, nhiều
kiếp tập khí đã quen, mới nghe bỉ độ thanh tịnh trang nghiêm, nghi
rằng chẳng có sự ấy, là một sự khôn tin. Dầu đã tin Tây
phương tịnh độ, lại nghi rằng 10 phương Phật quốc đều khá vãng
sinh, sau quyết định một phương Cực lạc, là hai sự nghi vậy. Dầu
đã tin vãng sinh, lại nghi rằng ta bà đi đến Cực Lạc, khỏi muôn
ức quốc độ, rằng sao cực xa, mà được vãng sinh bỉ quốc, là ba
sự khôn tin vậy. Dầu tin chẳng ngại xa, lại nghi rằng nơi đất rộng
phàm phu, tội chướng thâm trầm, rằng sao kíp được vãng sinh bỉ
quốc, là bốn sự khôn tin vậy. Dầu tin được vãng sanh, lại nghi
rằng nơi tịnh độ nhiều cửa kỳ diệu công hạnh, rằng sao những trì
danh hiệu, mà được vãng sinh, ấy là 5 sự khôn tin vậy. Dầu đã
tin trì danh, lại nghi rằng dầu trì danh hiệu, tua phải lâu năm nhiều
kiếp, mới được thành tựu, rằng sao một ngày đến nhẫn bảy (37a)
ngày, bèn được vãng sinh bỉ quốc, ấy là sáu sự khôn tin vậy.
Dầu tin nhất nhật thất nhật vãng sinh, lại nghi rằng trong nơi lục
đạo tứ sinh, chẳng khỏi noãn thai thấp hoá, rằng sao vãng sinh bỉ
quốc, ắt được liên hoa hoá sinh, ấy là bảy sự khôn tin vậy.
Dầu đã tin liên hoa hoá sinh, lại nghi rằng những thứ sơ tâm nhập
đạo, lòng còn tập khí phan nghiêm, rằng sao mới được vãng sinh bỉ
quốc, mà được thành tựu pháp bất thối chuyển, ấy là tám sự
khôn tin vậy. Dầu tin được bất thối chuyển, lại nghi rằng ấy thật
tiếp diễn những người độn căn chúng sinh, dầu người thượng
trí lợi căn, ắt chẳng vãng sinh bỉ quốc, ấy là chín sự khôn tin
vậy. Dầu đã tin người thượng căn ắt cũng vãng sinh, lại nghi
rằng nơi kinh khác, hoặc thuyết có Phật, hoặc thuyết chẳng có Phật,
hoặc rằng có tịnh độ, hoặc rằng chẳng có tịnh độ, hồ nghi chẳng
quyết, ấy là mười sự khôn tin vậy .
Xứng lý ắt tự tính bất khả sầu
bạc, thất ấy nan tín pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, đương tri ngã ư
trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A (37b1) nậu đa la tam miệu tam
bồ đề, vị nhất thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi
thậm nan .
Phật bảo Xá Lợi Phất:"hợp hay
ta chưng đời ngũ trược ác thế, ấy công hạnh những sự khó
được, nên vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác, vì hết
thảy thế gian, diễn thuyết chưng pháp khôn tin, thực là cực
khó".
Lời sớ sao rằng :
Phật là thật ngữ thật hành, hai
sự đều hợp kiêm toàn, muôn đời chúng sinh, ắt thật tin, bèn
chẳng nghi vậy. Trong ngũ trược ác thế, dầu đắc đạo là sự nan,
trong nan sự lại có hai thứ : Đời thiện thế đắc đạo chưa lấy
làm khó. Đời ác thế đắc đạo, dầu được nhân thiên tiểu
quả, cũng chưa lấy làm khó. Trong nơi ngũ trược ác thế lại
được vô thượng bồ đề, thật là thậm nan .
Xứng lý ắt tự tính tâm cảnh song
dung, thật ấy hành thử nhị nan nghĩa .
Phật thuyết thử kinh dĩ, Trưởng
lão Xá Lợi Phất cập chư tỷ kheo, nhất thiết thế (38a1) gian, thiên
nhân a tu la đẳng .
(38a) Phật diễn thuyết kinh A Di Đà
rồi, trưởng lão Xá Lợi Phất, cùng chư Tỳ kheo, hết thảy thế gian
chư thiên chư nhân cùng a tu la đẳng .
Lời sớ sao rằng :
Phật bèn thuyết pháp, pháp ắt lưu
thông. Lưu là trường lưu bất tuyệt, thông là thông chẳng ủng
tắc, truyền khắp 10 phương quá khứ hiện tại vị lai, phổ độ hết
thảy chúng sinh chẳng phải nhất xứ nhất thời vậy. Cửa tịnh độ
là nan tín chi pháp, duy trí giả năng tin. Vì vậy Phật hằng gọi Xá
Lợi Phất. Trong Tỳ kheo cùng đại chúng, Xá Lợi quyền trí đệ nhị
hợp đương cơ vậy. Đẳng là nhân thiên tu la, đẳng chư lục đạo .
Xứng lý ắt tự tính cứu cánh
viên mãn, thật ấy Phật thuyết kinh dĩ nghĩa. Tự tính chu biến hàm
dung, thật ấy nhất thiết thế gian nghĩa .
Văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín
thọ, tác lễ nhi khứ .
Nghe Phật thửa diễn thuyết, lòng hoan
hỷ tin vâng, làm lễ bèn lui .
Lời sớ sao rằng :
Hoan hỉ là vui mừng, rằng phước
duyên gặp Phật, thửa nghe (38b1) diễn thuyết vậy. Tín thọ là vâng
tin lãnh nạp những lời hi hữu vậy. Tác lễ là kính trọng làm
lễ, thửa nghe lời Phật thuyết vậy. Khứ là nghe rồi bèn lui, mà tu
trì vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô não, thật
ấy hoan hỷ tín thọ nghĩa. Tự tính vô trụ thật ấy tác lễ nhi khứ
nghĩa .
Phật thuyết A Di Đà kinh .
Phật là Thích Ca, diễn thuyết A Di
Đà kinh .
Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn
bản đắc sinh tịnh độ đà la ni .
Bạt trừ hết thảy nghiệp chướng
căn bản được vãng sinh tịnh độ. Thần chú là tổng trì vậy .
Lời sớ sao rằng :
Dùng chủ hộ kinh, kinh được chú
càng thêm hiển lý. Dùng kinh trước chú, chú được kinh càng thêm
linh ứng. Thần chú khôn tư nghì. Trì chú ắt diệt tội vãng sinh. Vì
vậy, bạt nghiệp chướng sinh tịnh độ là danh đà la ni, là tổng trì
vậy .
(39a1) Nẳng mồ a di đa bàn dạ đá tha
già đa dạ. Đá địa dạ tha. A di lị đô bà tì, a di lị đá tất đam
bà tì, a di rị đá tì ca lan đế, ai di rị đá tì ca lan đa, già di nị
già già na chỉ đa ca lị, ta bà ha .
Nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân, năng tụng thử chú giả, a di đà phật thường trụ kỳ
đỉnh, nhật dạ ủng hộ, vô lịnh oan gia, nhi đắc kỳ tiện, hiện thế
thường đắc an ổn, lâm mạng chung thời, nhậm vận vãng sinh .
Dầu có người thiện nam tử, thiện
nữ nhân hay trì chú tụng thần chú ấy, vậy A Di Đà thường trụ
ở nơi đỉnh thượng, đêm ngày ủng hộ, chẳng cho oan gia bèn được
thửa tiện, hiện tại (39b) hằng được an ổn, đến khi lâm chung thì
dẫu lòng nhậm vẫn vãng sinh .
Lời sớ sao rằng :
Kinh chú tương liên, chính thật hiển
mật viên thông nghĩa. Tường trần bỉ quốc, y chính trang nghiêm, cửa
tín hạnh như kinh thửa minh, thật gọi là hiển. Vâng lời Phật bí
sắc, bèn chuyên trì những thần chú, ắt được vãng sinh, thật gọi
là mật. Lại rằng chuyên trì danh hiệu, thắng hơn trì chú, thắng hơn
hết thảy chư dư công đức. Trì tụng thần chú ba mươi sáu muôn
biến, ắt bèn được thấy A Di Đà Phật. Nhất tâm niệm Phật một
ngày ắt thấy Phật hiện tiền vậy. Đêm ngày 12 giờ, mỗi tụng trì
chú 21 biến, ắt thật diệt hết ngũ nghịch đẳng tội. Trì danh hiệu,
chí tâm niệm Phật nhất thanh, tiêu diệt tám mươi muôn ức kiếp sinh
tử trọng tội. Chuyên trì danh hiệu, ắt thật đại thần chú, thật
đại minh chú, thật vô thượng chú, thật vô đẳng đẳng chú. Bèn
dùng thập niệm, ắt được vãng sinh. Một phen vãng sinh, bèn được
bất thối chuyển, uy linh diệu lực, vì vậy gọi là đại thần chú .
Xứng lý ắt tự tính không, thật
ấy bạt nghiệp chướng nghĩa, tự tính hữu, ấy thật đà la ni nghĩa,
tự tính bất hữu bất không, thật ấy sinh tịnh độ nghĩa .
GIỚI THIỆU
GIẢI TÂM KINH NGŨ CHỈ
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh kể
từ ngày Huyền Tráng (600-664) dịch đến nay, đã được phổ biến
rộng rãi khắp các nước Phật giáo Viễn Đông, trong đó có nước
ta. Tuy nhiên, nếu có ai hỏi kinh này được nhắc đến trong giới
Phật giáo nước ta từ bao giờ, thì tư liệu đầu tiên giúp ta trả
lời đó là một câu viết của Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc
đạo phú. Ở hội thứ 8 của bài phú này khi nói về việc phải
rèn luyện con người Phật giáo mình như thế nào, Trần Nhân Tông
đã viết :
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu,
Săn hỷ xả, nhuyến từ bi,
Nội tự tại kinh Lòng hằng đọc
Rõ ràng kinh lòng ở đây là một
biệt dịch của chữ tâm kinh tiếng Hán. Và đây có thể nói là
một trong những tên kinh được dịch tiếng Việt sớm nhất hiện
biết. Trước Trần Nhân Tông và sau ông, chắc chắn kinh lòng đã
được những người Phật giáo Việt Nam trì tụng, nhưng phải đợi
đến Minh Châu Hương Hải, ta mới có những thông tin cụ thể về vai
trò của bản kinh này trong đời sống học thuật và tu niệm của
giới Phật giáo nước ta. Căn cứ vào Hương Hải thiền sư ngữ
lục, ta biết Minh Châu Hương Hải đã viết 2 bản giải thích về kinh
này, đó là Giải tâm kinh đại điên, 1 quyển và Giải tâm kinh ngũ
chỉ, 1 quyển. Bản chú giải đầu ngày nay hiện chưa tìm lại được.
Bản sau, tức Giải tâm kinh ngũ chỉ, ta đã tìm thấy .
I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Bản Giải tâm kinh ngũ chỉ mà chúng
tôi hiện sở hữu là 1 bản in năm Minh Mạng thứ 14 (1833), gồm 5
tờ khổ 17*29, mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 17
chữ Hán chính văn cỡ lớn, còn chữ quốc âm thì mỗi dòng như
thế được in thành 2 hàng, mỗi hàng có 16 chữ cỡ nhỏ. Chữ in
đẹp, rõ ràng, dễ đọc. Bản in này không có tựa và bạt. Nhưng
dưới nhan đề Bát nhã ba la mật đa tâm kinh, có ghi tỳ kheo Từ
Tường trùng san. Và ở tờ cuối, dòng chót dưới đề kinh, ta có
dòng "Bản lưu tại Linh Sóc Thiền tự, dĩ hiểu hậu lai". Thế
có nghĩa, bản Giải tâm kinh ngũ chỉ này cũng do thiền sư Từ
Tường đứng in cùng 1 lần với Giải Di Đà kinh, dù trong lời tựa
Trùng san chư kinh tự in ở đầu Giải Di Đà kinh không thấy nhắc gì
tới Giải tâm kinh ngũ chỉ cả. Ngoài ra trong bản này, dưới tên
của pháp tử Chân Lý Nhân Triều, có khắc thêm tên Tỳ kheo Chiếu
Kiên. Vị tỳ kheo này chắc chắn là người đã đứng ra ủng hộ
việc khắc bản này. Về 2 vị thiền sư này ta hiện không có chi tiết
về năm tháng cũng như tiểu sử của họ, nên ở đây ta không thể
bàn kỹ hơn. Chỉ cần ghi nhận rằng, họ là những vị thiền sư thuộc
thế kỷ 19 đóng góp vào việc xuất bản các tác phẩm Phật giáo
thời mình .
II. TÊN GỌI VÀ NIÊN ĐẠI
Tác phẩm này trong bản in hiện nay
có nhan đề Bát nhã ba la mật đa tâm kinh, và ghi tiếp là Huyền Cơ
Thiện Giác, pháp tự Minh Châu thích giải. Nhưng trên gáy của tất
cả các tờ kinh, trừ tờ thứ tư, đều ghi Bát nhã tâm kinh thích
giải hoa ngôn. Gáy tờ thứ tư chỉ ghi đơn giản là Bát nhã tâm
kinh. Tuy nhiên, trong Hương hải thiền sư ngữ lục ta thấy ghi Giải tâm
kinh đại điên, 1 quyển và Giải tâm kinh ngũ chỉ, 1 quyển. Dĩ nhiên,
bản thích giải mà chúng ta hiện sở hữu, chắc chắn không phải là
Giải tâm kinh đại điên, bởi vì bản chú giải này, dẫu ngày nay ta
chưa tìm được, rõ ràng là một bản giải thích tâm kinh theo quan
điểm của Thiền sư Đại Điên đời Thanh, hiện còn bảo lưu trong
Tục tạng kinh, gọi là Tâm kinh chú giải, bởi vì khi phân tích bản
tâm kinh chúng ta hiện có của Minh Châu Hương Hải, ta thấy nó không
ăn nhập gì với bản chú giải của tổ sư Đại Điên cả. Ngược
lại bản in lần này trong phần giải thích bằng tiếng Việt, Minh Châu
Hương Hải nói rất rõ :"Một Bát nhã tâm kinh này, lấy làm chí
tinh chí yếu, là mẹ đại bộ chư kinh, truyền sang Đông độ đã 5
lần dịch, đến đời Đường, Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu
dịch truyền để Đông độ lấy làm chính giáo thịnh hành Bát nhã
tâm kinh, lập ngũ chỉ làm đề mục
". Vậy, khi giải thích Bát
nhã tâm kinh, Minh Châu Hương Hải đã lấy 5 lý chính làm đề mục
để viết nên nó. Chắc chắn bản ta hiện có là Giải tâm kinh ngũ
chỉ, chứ không phải Giải tâm kinh đại điên. Như thế, giữa những
tên khác nhau của tác phẩm này, chúng tôi chấp nhận cách gọi của
Hương hải thiền sư ngữ lục. Nghĩa là thay vì gọi Bát nhã tâm kinh
thích giải hoa ngôn, hoặc hàm hồ hơn là Bát nhã tâm kinh, chúng
tôi đề nghị gọi nó là Giải tâm kinh ngũ chỉ .
Về thời điểm Minh Châu Hương Hải
viết Giải tâm kinh ngũ chỉ này, ta hiện không có tài liệu nào cụ
thể. Hương hải thiền sư ngữ lục đã không ghi nhận bất cứ thông
tin nào giúp ta đoán định được thời điểm ra đời của nó. Nếu
căn cứ vào nội dung, có một số điểm theo chúng tôi, có thể ít
nhiều ám chỉ thời điểm xuất hiện của nó. Thứ nhất, khi giải
thích về chữ Xá Lợi Tử, Minh Châu Hương Hải đã viết trong Giải
tâm kinh ngũ chỉ :"Xá là tứ đại sắc thân, như cả nhà, Lợi
Tử là pháp tính, như chủ nhà, Phật đệ tử trí tuệ đệ
nhất". Một giải thích như thế ta đã không tìm thấy trong Giải Di
Đà kinh. Về trưởng lão Xá Lợi Phất, Giải Di Đà kinh chỉ viết
:"Ông Xá Lợi Phất cửu tu, đức trưởng, trí tuệ đệ
nhất". Khi viết thế, Giải Di Đà kinh đã giả thiết, nghĩa đen
của chữ Xá Lợi Phất đã được giải thích ở một chỗ khác. Do
thế, ta có thể kết luận Giải tâm kinh ngũ chỉ phải viết trước
Giải Di Đà kinh .
Hơn nữa khi giải thích về chữ thần
chú trong Giải tâm kinhh ngũ chỉ, Minh Châu Hương Hải viết rất
rõ:"Năm câu thần chú ấy là lời Bát nhã mật thuyết, chẳng
được giải ra 1 câu. Tượng vì những lời Phật tuyên thuyết mật
ngữ, chẳng phải hạ phàm được hay vậy. Như kinh Pháp hoa, lời sớ
sao giải rằng, thần chú thật những danh hiệu thần vương. Dầu có
xướng hiệu thần vương, quyến thuộc bộ chúng đều cùng vâng lệnh,
hay hàng phục hết thảy quỷ mị. Lại rằng, thần chú như mật lệnh
trong quân, dầu nghe hiệu lệnh, đều cùng vâng phép, chẳng dám lậu
ngôn vấn đáp. Lại rằng, thần chú là tuỳ nguyện vậy. Dụ như quả
loã là giống cái ong tò vò bắt lấy tang trùng cùng giống sâu bọ,
đem vào ổ mà chúc nguyện, bèn hoá nên giống mình. Chư Phật bồ
tát mật thuyết thần chú, nguyện chư chúng sinh, ắt tùy thửa
nguyện, đều được thành tựu vậy". Một giải thích dài dòng
như thế về thần chú đã không tìm thấy trong Giải Di Đà kinh. Đây
là một chứng cớ khác, cho phép ta giả thiết Giải tâm kinh ngũ chỉ
phải viết trước Giải Di Đà kinh .
Ngoài ra, khi so sánh với Giải kim
cương kinh lý nghĩa, một tình trạng tương tự đã xảy ra. Trong Giải
Kim cương kinh lý nghĩa, về chữ Bát nhã ba la mật, Minh Châu Hương
Hải đã viết:"Phạn ngữ Bát nhã, Hoa ngôn gọi là trí tuệ, hay
đoạn hết tham sân si, diệt rồi chư phiền não, tính thể hư dung,
chiếu dùng tự tại, gọi là Bát nhã. Phạn ngữ Ba la mật, Hoa ngôn
là đáo bỉ ngạn, muốn đến bỉ ngạn, phải nương Bát nhã vậy. Thử
ngạn là chúng sinh tạo nghiệp, chưa khỏi sinh tử luân hồi,còn ở
ta bà cực khổ. Bỉ ngạn là chư Phật bồ tát đã siêu việt chân
như cảnh giới, thường trụ thanh tịnh cực lạc". Trong Giải tâm
kinh ngũ chỉ, 1 giải thích như thế đã không được nêu ra. Điều
này có nghĩa Giải Kim cương kinh lý nghĩa phải viết trước Giải tâm
kinh ngũ chỉ. Vậy trong số 3 tác phẩm giải thích kinh của Minh Châu
Hương Hải, ta thấy Giải Kim cương kinh lý nghĩa đã viết trước, rồi
đến Giải tâm kinh ngũ chỉ, và sau cùng là Giải Di Đà kinh .
Trong phần phân tích về Giải Kim
cương kinh lý nghĩa, chúng tôi đã gợi ý dựa trên 1 số dữ kiện
nội tại, là có khả năng bản giải thích này đã viết khi Minh Châu
Hương Hải còn ở tại đàng trong, nghĩa là trước năm 1682, rồi sau
đó mới được ghi lại ở đàng ngoài. Nếu giả thiết này đúng,
thì Giải tâm kinh ngũ chỉ phải viết sau năm 1682. Nhưng Giải Di Đà
kinh theo chúng tôi cũng có thể viết rất sớm, tức sau năm 1682
không bao lâu. Do thế khả năng xuất hiện của Giải tâm kinh ngũ chỉ
vào khoảng những năm 1682 là gần với hiện thực nhất. Và điều
này hoàn toàn phù hợp với 1 sự kiện khác trong cuộc đời cầm
bút của Minh Châu Hương Hải. Đó là việc Minh Châu Hương Hải viết
Giải tâm kinh đại điên. Bản giải thích này dựa chủ yếu vào Tâm
kinh chú giải của thiền sư Đại Điên và vị thiền sư này theo chúng
ta biết là phải sống vào đời Thanh, nghiã là sau năm 1644. Tác
phẩm của Đại Điên do thế có thể đến nước ta sau năm này. Và
có lẽ khi tiếp xúc với Tâm kinh chú giải, Minh Châu Hương Hải
mới nghĩ đến việc viết Giải tâm kinh ngũ chỉ, để bổ sung cho
những gì mà ông thấy thiếu trong Tâm kinh chú giải của Đại Điên.
Tất nhiên cũng có người sẽ nêu ý kiến là vì viết Giải tâm
kinh ngũ chỉ trước, nên khi tiếp xúc với Tâm kinh chú giải, ông
mới viết thêm Giải tâm kinh đại điên để bổ sung cho tác phẩm
trước của mình. Đây là điều có thể.Tuy nhiên, thông thường thì
do việc trình bày tác phẩm của người khác mà có 1 số thiếu sót
cần bổ sung, tác giả mới cần viết thêm 1 tác phẩm nữa. Cho nên
chúng tôi nghiêng về khả năng Giải tâm kinh ngũ chỉ được viết
trước Giải tâm kinh đại điên. Nói tóm lại, thời điểm ra đời
của Giải tâm kinh ngũ chỉ có thể rơi vào khoảng cuối thế kỷ 17,
tức từ những năm 1685-1700.
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Giải thích về Bát nhã tâm kinh trong
lịch sử tồn tại của nó có nhiều cách khác nhau và nhiều cây
bút nổi tiếng đã tham gia vào công tác giải thích này như Khuy Cơ,
Tuệ Trung của đời Đường, rồi Đạo Long, Thủ Thiên, Đạo Giai của
đời Tống, tiếp theo là Nguyễn Hiền, Chân Khả, Đức Thanh, Hoằng
Tán của đời Minh v.v
Hàng chục tên tuổi đã chịu sức hấp
dẫn của bản kinh này, và họ tìm cách lý giải ý nghĩa của bản
kinh đối với họ. Giải tâm kinh ngũ chỉ của Minh Châu Hương Hải
không nói rõ ông đã dựa vào đâu để viết bản giải này. Tuy
nhiên, ông chỉ ra rất rõ quan điểm của ông. Trước hết, ông nêu
ra 5 đề mục mà được ông gọi là ngũ chỉ để giải thích kinh.
Ông viết :"Ngũ chỉ là danh, thể, tôn, dụng, tướng. Lấy đơn
pháp làm danh, lấy thật tướng làm thể, lấy quán chiếu làm tôn,
lấy độ khổ làm dụng, lấy đại thừa làm giáo tướng. Đơn pháp
là Bát nhã ba la mật đa. Thật tướng là chư pháp không tướng.
Quán chiếu là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ khổ là độ nhất
thiết khổ ách. Đại thừa là Bồ tát hành thâm bát nhã".
Khi viết thế, Minh Châu Hương Hải
đã trình bày cho ta một cách hiểu về Tâm kinh bát nhã. Tâm kinh
bát nhã thể hiện thế nào, Minh Châu Hương Hải bảo là phải hiểu
theo 5 mặt khác nhau của nó, tức là danh, thể, tôn, dụng và
tướng. Danh là tên của kinh, và đồng thời cũng là tên của mục
tiêu, đó là Bát nhã ba la mật đa. Bản chất của tên này là
tướng không của các pháp, tức thể của nó. Ý nghĩa của quan
niệm thể này là nhằm nhìn rõ bản chất của 5 uẩn, tức của toàn
bộ sự vật, đều là tính không. Đó là tôn chỉ của bản kinh này.
Đây là điểm quan trọng nhất, vì có thực hiện được tôn chỉ
này để thấy được toàn bộ sự vật có tính không, thì hành giả
mới vượt qua mọi khổ ách, tức đạt đến tác dụng của bản kinh.
Và để có tác dụng đó, hành giả phải thực hành thâm bát nhã
.
Đây là 1 lối tìm hiểu và giải
thích kinh Bát nhã theo 1 hướng mới, tạo cho những người đọc
tụng những bản kinh này 1 nhận thức mới, để hiểu vì sao họ phải
đọc tụng nó. Trong lịch sử chú giải Tâm kinh bát nhã của Trung
quốc, 1 lối giải thích như thế tuy đôi lúc cũng có nói tới, nhưng
không dứt khoát và rõ ràng như những gì Minh Châu Hương Hải đã
làm ở đây. Như vậy, đây là 1 đóng góp mới không những cho
việc tìm hiểu lịch sử sớ giải kinh điển Phật giáo tại Việt Nam
và quá trình hình thành tư tưởng của chính bản thân Minh Châu
Hương Hải, mà còn là của lịch sử sớ giải của Phật giáo ở
Viễn Đông, tức những nước như Trung quốc, Nhật bản và Triều
Tiên .
Tuy nhiên, khi viết Giải tâm kinh ngũ
chỉ Minh Châu Hương Hải đã đưa ra 1 số kiến giải mà ngày nay đọc
lại ta thấy có 1 số khuyết điểm. Chẳng hạn, ngay câu đầu tiên khi
giải thích câu hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, Minh Châu Hương
Hải đã viết :"Hành thâm là bát nhã điều hành, chẳng phải
sơ tâm thiển trí hằng nương bát nhã mà tu hành trong 12 giờ, viên
minh chính niệm, giải hạnh đẳng trì, thể dụng như như, là rằng làm
cả trí tuệ đến ngàn Phật khi ấy". Thế là, Minh Châu Hương Hải
đã dịch câu hành thâm bát nhã ba la mật đa thời bằng câu tiếng
Việt làm cả trí tuệ đến ngàn Phật khi ấy, trong đó, ngàn có
nghĩa là bờ, cả nghĩa là để dịch chữ thâm. Đây phải nói là 1
câu dịch khó hiểu, thể hiện lối dịch đuổi đã xảy ra thời Viên
Thái và Nguyễn Thế Nghi. Có khả năng đây là 1 câu dịch đuổi đã
có trong 1 bản dịch tiếng Việt lưu hành trước thời Minh Châu Hương
Hải. Cần nhớ rằng, trong Cư trần lạc đạo phú, Trần nhân Tông
đã nhắc tới tên tiếng Việt của Tâm kinh là kinh lòng .
Không những lối dịch đuổi vừa
nói đã xuất hiện trong bản giải thích này nó còn chứa đựng 1
số cắt nghĩa khá lạ lùng. Chẳng hạn khi giải thích 3 chữ Xá Lợi
Tử, Minh Châu Hương Hải đã viết:"Xá là tứ đại sắc thân
như cái nhà, Lợi Tử là pháp tính như chủ nhà".Lối giải
thích này hầu như không thấy trong các lối sớ giải tiếng Trung
quốc. Ngược lại, 1 bản sớ giải viết tại nước ta và có thể coi
như bản sớ giải xưa nhất của nền văn học sớ giải của Phật
giáo Viễn Đông, đó là An ban thủ ý kinh chú giải. Trong bản chú
giải này, lối tách rời những phiên âm chữ Phạn ratừng chữ
đơn để giải thích đã xảy ra. Chẳng hạn để giải thích chữ An ban,
Phật thuyết đại an ban thủ ý kinh quyển thượng, ĐTK 602 tờ 163c20-29
đã viết :"An là thân, ban là hơi thở
an là sinh, ban là
diệt
, an là nghĩ đạo, ban là giải kết
, an là tránh tội,
ban là không vào tội
, an là định, ban là không khiến cho dao
động v.v
". Bản chú giải này, ta biết là do Khương Tăng Hội
viết. Hơn 1000 năm sau khi ông đã mất, Minh Châu Hương Hải lại sử
dụng lối giải thích này .
Có người sẽ hỏi tại sao trong hơn
1000 năm qua như thế, không có tiến bộ nào trong cách thức lý giải
kinh điển hay sao? Theo chúng tôi nghĩ, cách thức lý giải kinh điển
Phật giáo của Việt Nam dù có những khuyết tật gì đi chăng nữa,
vẫn có 1 sức sống dai dẳng. Thí dụ cụ thể cho 1 khẳng định như
thế hiện chưa tìm thấy. Nhưng 1 trường hợp tương tự có thể giúp
ta hiểu được vấn đề này. Đó là việc sử dụng từ ma ha.Trong
Hải ngoại ký sự, Thạch Liêm Đại Sán (1633-1704) đã chép lại
những bàn cãi giữa ông và Hào đức hầu Nguyễn Hữu Hào
(?-1713), tác giả nổi tiếng của Song tinh bất dạ, về trăng ma ha và
gió bát nhã. Thạch Liêm cho rằng trăng ma ha không thể đối chỉnh
với gió bát nhã được, mà nên dùng chữ trăng bồ đề
Trong khi đó, Nguyễn Hữu Hào lại chủ trương chữ trăng ma ha vẫn
đối chỉnh với gió bát nhã, rồi còn dẫn lời người xưa
nói:"Ma ha là bản thể chân như, lớn không ngoại, nhỏ không
trong, trời chẳng hay che, đất chẳng hay chờ, sáng sủa soi khắp mọi
nơi". Chúng ta không bàn đến việc đúng hay sai ở đây, như
Thạch Liêm đã làm, điểm lôi cuốn chúng ta là từ trăng ma ha này
trước và sau Nguyễn Hữu Hào vẫn tiếp tục được dùng .
Trước Nguyễn Hữu Hào, Đào Duy
Từ trong Tư dung vãn, đã viết :
Chốn thanh gợi một danh lam,
Ước tay tiêu sái mới cam dựa
nhờ.
Linh chi rước nước ma ha,
Trân cầm chiu chít, kỳ hoa lăng
tằng
Rồi không phải đợi đến Đào Duy
Từ mà trước đó nữa, trong Vịnh Vân Yên tự phú, Huyền quang
đã viết :
Khuya sớm sáng chong đèn bát nhã,
Hôm mai rửa sạch nước ma ha .
Rồi sau những bàn cãi của Thạch
Liêm với Nguyễn Hữu Hào, thiền sư Toàn Nhật (1750-1832?) trong Tham
thiền văn, vẫn tiếp tục dùng lại từ ma ha này :
Bỏ sang giàu tìm ba đường khổ,
Nương ngụ nhờ lều cỏ ba căn,
Tìm đâu cho khổ nhiều đàng
Kìa non Bảo tự, nọ miền ma ha
Cảnh nào cảnh chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có toà anh linh
Qua trường hợp từ ma ha này, ta
thấy những người cầm bút Phật giáo Việt Nam có những cách dùng
từ và giải thích từ không hoàn toàn đồng nhất với Phật giáo
Trung quốc. Cho nên, dù lối giải thích Xá Lợi Tử của Minh Châu
Hương Hải có những gượng ép, nó ít nhiều cũng thể hiện cách
viết sớ giải của Phật giáo Việt Nam, mà từ Khương Tăng Hội
trở đi đã hình thành 1 nét riêng của nó. Đây là 1 điểm ta cần
chú ý khi tiếp cận với nền văn học Phật giáo Việt Nam .
BÁT
NHÃ
BA
LA
MẬT
ĐA
TÂM
KINH
Huyền
Cơ
Thiện
Giác
pháp
tự
Minh
Châu
thích
giải
Pháp
tử
Chân
lý
Nhân
Triều
thuật.
Bát
nhã
Ba
la
mật
đa
tâm
kinh
Nương
lời
trong
kinh
dịch
rằng
Thích
Ca
Thế
Tôn
thửa
trú
trong
non
Linh
Thứu,
vào
tọa
thiền,
nhập
Quang
minh
đại
định.
Khi
ấy
Xá
Lọi
Tử
bạch
Quán
Tự
Tại
bồ
tát
rằng:"Dầu
có
chúng
sinh
tu
hành,
muốn
học
cửa
pháp
Bát
nhã
thậm
thâm
vi
diệu,
rằng
làm
sao
cho
hiểu
thấy
được".
Quán
Tự
Tại
Bồ
tát
bèn
dạy
bảo
Xá
Lợi
Tử
rằng:"Thích
Ca
Thế
Tôn
diễn
thuyết
đại
bộ
Bát
nhã
600
quyển,
một
Bát
nhã
tâm
kinh
này
lấy
làm
chí
tinh
chí
yếu,
là
mẹ
đại
bộ
chư
kinh".
Truyền
sang
Đông
độ,
đã
5
lần
dịch,
đến
đời
Đường,
Huyền
Tráng
pháp
sư
lại
vâng
chiếu
dịch,
truyền
để
Đông
độ
lấy
làm
chính
giáo
thịnh
hành.
Bát
nhã
tâm
kinh
lập
ngũ
chỉ
làm
đề
mục.
Ngũ
chỉ
là
danh
(1b)2,
thể,
tôn,
dụng,
tướng.
Lâý
đơn
pháp
làm
danh,
lấy
thật
tướng
làm
thể,
lấy
quán
chiếu
làm
tôn,
lấy
độ
khổ
làm
dụng,
lấy
đại
thừa
làm
giáo
tướng.
Đơn
pháp
là
Bát
nhã
ba
la
mật
đa
tâm
kinh.
Thật
tướng
là
chư
pháp
không
tướng.
Quán
chiếu
là
chiếu
ngũ
uẩn
giai
không.
Độ
khổ
là
độ
nhất
thiết
khổ
ách.
Đại
thừa
là
Bồ
tát
hành
thâm
bát
nhã
.
Quán
Tự
Tại
bồ
tát
Quán
là
bát
nhã
tuệ
quán.
Tự
tại
là
ở
nơi
mình,
thân
tâm
thanh
tịnh
viên
dung
vô
ngại.
Bồ
là
bồ
đề.
Bồ
đề
là
Phật.
Tát
là
tát
đoả.
Tát
đỏa
là
chúng
sinh.
Quyền
độ
nội
ngoại
chúng
sinh,
hằng
thường
giác
tự
giác
tha,
gọi
là
Quán
Tự
Tại
bồ
tát
.
Hành
thâm
Bát
nhã
ba
la
thời
Hành
thâm
là
bát
nhã
diệu
hạnh,
chẳng
phải
sơ
tâm
thiển
trí,
hằng
nương
bát
nhã,
mà
tu
hành
trong
12
giờ
viên
minh
chính
niệm,
giải
hạnh
đẳng
trì,
thể
dụng
như
như,
là
rằng
làm
cả
trí
tuệ
đến
ngàn
Phật
khi
ấy
.
Chiếu
kiến
ngũ
uẩn
giai
không
Chiếu
là
chiếu
liễu,
(kiến
là)
chính
kiến,
ngũ
uẩn
là
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức.
Sắc
là
tứ
đại
huyễn
sắc.
Sắc
là
(2a)
vọng
thân.
Thọ,
tưởng,
hành,
thức
là
vọng
tâm.
Thân
tâm
huyễn
vọng,
ngũ
uẩn
chư
pháp
đều
về
chân
không
.
Độ
nhất
thiết
khổ
ách
Độ
là
độ
thoát
hữu
tình.
Hết
thảy
thế
gian
chúng
khổ
ách
nạn,
nhân
bởi
vô
minh
bất
giác
điên
đảo
vọng
tưởng,
hằng
làm
bất
trung
bất
hiếu,
thập
ác
ngũ
nghịch,
tùy
thân
thọ
quả,
phải
chịu
bát
khổ
ách
nạn.
Rày
nương
cửa
pháp
bát
nhã
mà
tu,
độ
thoát
hết
thảy
khổ
ách
.
Trước
kinh
tự
ấy,
gọi
làm
tự
phần
.
Xá
Lợi
Tử
Xá
là
tứ
đại
sắc
thân
như
cái
nhà.
Lợi
Tử
là
pháp
tính
như
chủ
nhà.
Phật
đệ
tử
trí
tuệ
đệ
nhất,
nhân
thửa
vì
tứ
chúng,
bèn
hỏi:"Quán
Tự
Tại
bồ
tát
bèn
gọi
Xá
Lợi
Tử
mà
bảo
rằng
.
Sắc
bất
dị
không,
không
bất
dị
sắc,
sắc
tức
thị
không,
không
tức
thị
sắc
.
Phàm
phu
chấp
sắc,
Phật
rằng
sắc
chẳng
khác
không.
Ngoại
đạo
chấp
không,
Phật
rằng
không
chẳng
khỏi
sắc.
Nhị
thừa
xả
sắc
xả
không.
Phật
rằng
huyễn
sắc
huyễn
không,
ắt
thật
(2b)
chân
không.
Bồ
tát
quyền
dùng
chân
không,
Phật
rằng
chân
không
ắt
thật
diệu
sắc.
Chân
không
là
bát
nhã
dụng.
Diệu
sắc
là
chân
như
thể.
thể
dụng
như
như,
vốn
nguyên
thật
tướng
.
Thọ
tưởng
hành
thức
diệc
phục
như
thị
Thọ
là
lãnh
nạp,
uẩn
tích
chư
thọ.
Tưởng
là
tư
lự,
uẩn
tích
chư
tưởng.
Hành
là
tạo
tác,
uẩn
tích
chư
hành.
Thức
là
phân
biệt,
uẩn
tích
chư
pháp.
Thọ
tưởng
hành
thức
ắt
lại
cũng
vậy
.
Xá
Lợi
Tử
thị
chư
tướng
không
tướng
Quán
Tự
Tại
bồ
tát
lại
bảo
Xá
Lợi
Tử
:"Thật
ngũ
uẩn
chư
pháp
không
tướng,
ắt
những
chân
không
thật
tướng
vậy".
Bất
sinh
bất
diệt
bất
cấu
bất
tịnh
bất
tăng
bất
giảm
Thật
tướng
chẳng
có
sinh,
chẳng
có
diệt,
chẳng
có
cấu
tịnh,
há
có
tăng
giảm
.
(3a)
Thị
cố
không
trung
vô
sắc
vô
thọ
tưởng
hành
thức
Thật
vì
vậy
trong
chân
không,
thật
tướng
chẳng
có
sắc
là
chẳng
có
tứ
đại
vọng
thân,
chẳng
có
thọ
tưởng
hành
thức,
là
chẳng
có
phiền
não
vọng
tâm
.
Vô
nhãn
nhĩ
tỉ
thiệt
thân
ý
Trong
chân
không
thật
tướng,
chẳng
có
nhãn
nhĩ
tỉ
thiệt
thân
ý
là
chẳng
có
lục
căn
.
Vô
sắc
thanh
hương
vị
xúc
pháp
Trong
chân
không
thật
tướng,
chẳng
có
sắc
thanh
hương
vị
xúc
pháp
là
chẳng
có
lục
trần,
là
chẳng
có
thập
nhị
nhập
.
Vô
nhãn
giới
nãi
chí
vô
ý
thức
giới
Trong
chân
không
thật
tướng,
chẳng
có
nhãn
thức,
chẳng
có
nhĩ
thức,
chẳng
có
tỉ
thức,
chẳng
có
thiệt
thức,
chẳng
có
thân
thức,
chẳng
có
ý
thức,
là
chẳng
có
học
thức.
Chẳng
có
lục
căn,
lục
trần,
lục
thức,
là
chẳng
có
thập
bát
giới,
ấy
là
nhân
không
.
Vô
vô
minh
diệc,
vô
vô
minh
tận
Trong
chân
không
thật
tướng,
ắt
chẳng
có
mê
ngộ.
Chẳng
có
mê,
ắt
chẳng
có
vô
minh
(3b1)
Chẳng
có
ngộ,
ắt
chẳng
có
minh,
mà
khiến
vô
minh
tận
.
Nãi
chí
vô
lão
tử,
diệt
vô
lão
tử
tận
Trong
chân
không
thật
tướng,
nguyên
chẳng
có
sinh
diệt.
Chẳng
có
sinh
ắt
chẳng
có
lão
tử.
Chẳng
có
diệt
ắt
chẳng
có
sinh,
mà
khiến
lão
tử
tận.
Chẳng
có
thập
nhị
nhân
duyên,
ắt
chẳng
có
duyên
giác
trong
thừa
pháp
.
Vô
khổ
tập
diệt
đạo
Khổ
là
quả
thọ
bát
khổ.
Tập
là
nhân
tập
tham
sân
si.
Ấy
là
thế
gian
pháp.
Diệt
là
tịch
diệt
niết
bàn.
Đạo
là
tam
thập
thất
phẩm
trợ
đạo,
là
xuất
thế
gian
pháp.
Chẳng
có
khổ
tập
diệt
đạo
là
chẳng
có
thinh
văn
tiểu
thừa
pháp
.
Vô
trí
diệt
vô
đắc
Trí
là
bát
nhã
trí.
Đại
thừa
bồ
tát
dùng
trí
mà
chiếu
cảnh.
Đã
chẳng
có
ngũ
uẩn
căn
trần
thức,
lại
chẳng
có
tứ
thánh
đế,
thập
nhị
nhân
duyên,
ắt
thật
nhân
pháp
đều
không,
cảnh
trí
đều
rồi,
như
bệnh
khử
diệt
vong.
Nguyên
thật
tướng
chẳng
có
ngu,
ắt
chẳng
có
trí.
Chẳng
có
thất,
ắt
chẳng
có
đắc.
(4a)
Dĩ
vô
sở
đắc
cố
Những
bậc
tu
hành
chứng
vị
viên
đốn,
chẳng
còn
năng
đắc
bèn
chẳng
có
sở
đắc
vậy.
Bồ
đề
tát
đỏa
y
Bát
nhã
ba
la
mật
đa
cố,
tâm
vô
quái
ngại,
vô
quái
ngại
cố
Bồ
đề
tát
đỏa
là
năng
y
chi
nhân,
bát
nhã
ba
la
mật
đa
là
sở
y
chi
pháp.
Những
bậc
bồ
tát
nương
cửa
bát
nhã
mà
tu,
công
nên,
lý
hiển,
bèn
lòng
chẳng
quái
ngại,
cũng
chẳng
có
quái
ngại
vậy.
Vô
hữu
khủng
bố
viễn
ly
điên
đảo
mộng
tưởng
cứu
cánh
niết
bàn
Lòng
chẳng
có
nghiệp
buộc,
nhân
chẳng
có
nghiệp
buộc,
bèn
chẳng
có
sinh
tử.
Đã
chẳng
có
sinh
tử
khủng
bố
ắt
chẳng
có
vọng
nghiệp,
bèn
xa
khỏi
điên
đảo
mộng
tưởng.
Tam
chướng
đã
rồi,
bèn
hiển
tam
đức,
sinh
tử
ắt
chứng
pháp
thân,
phiền
não
ắt
nên
bát
nhã,
kết
nghiệp
bèn
nên
giải
thoát
đều
cùng
cứu
cánh
niết
bàn.
Từ
ấy
về
trước
là
chánh
tôn
phần,
từ
nay
về
sau
là
lưu
thông
phần.
(4b)
Tam
thế
chư
Phật,
y
Bát
nhã
ba
la
mật
đa
cố,
đắc
A
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề
Tam
thế
Như
Lai
dầu
quá
khứ,
vị
lai,
hiện
tại
chư
Phật
đều
nương
bát
nhã
pháp
mà
tu,
bèn
chứng
nên
tối
thượng
quả
vị
vậy.
Cố
tri
Bát
nhã
ba
la
mật
đa,
thị
đại
thần
chú,
thị
đại
minh
chú,
thị
vô
thượng
chú,
thị
vô
đẳng
đẳng
chú
Trước
đã
hiển
thuyết
bát
nhã,
sau
lại
mật
thuyết
bát
nhã.
Nhân
bởi
chúng
sinh
căn
khí
bất
đồng,
bèn
thuyết
tứ
chủng
mật
chú,
đều
bởi
bát
nhã
công
dụng,
hay
phá
ma
chướng
gọi
là
đại
thần
chú,
hay
diệt
si
ám
gọi
là
đại
minh
chú,
hay
hiển
chí
lí
gọi
là
vô
thượng
chú,
cực
diệu
giác
quả
gọi
là
vô
đẳng
đẳng
chú.
Năng
trừ
nhất
thiết
khổ,
chân
thật
bất
hư
Bát
nhã
công
dụng
quảng
đại,
trừ
khổ
bèn
được
lạc,
quyết
định
chẳng
giải
đạo
(5a)
khiến
hết
chúng
sinh
đều
tín
thọ
phụng
hành.
Cố
tri
Bát
nhã
ba
la
mật
đa
chú,
tức
thuyết
chú
viết
Vì
vậy
hay
bát
nhã
ba
la
mật
đa
chú,
bèn
thuyết
thần
chú
rằng
:
Yết
đế
yết
đế,
ba
la
yết
đế,
ba
la
tăng
yết
đế,
bồ
đề
tát
bà
ha
Năm
câu
thần
chú
ấy
là
lời
bát
nhã
mật
thuyết,
chẳng
được
giải
ra
một
câu,
tượng
vì
những
lời
Phật
tuyên
thuyết
mật
ngữ,
chẳng
phải
hạ
phàm
được
hay
vậy.
Như
kinh
Pháp
hoa,
lời
sớ
sao
giải
rằng,
thần
chú
thật
những
danh
hiệu
thần
vương,
dầu
có
xưng
hiệu
thần
vương,
quyến
thuộc
bộ
chúng,
đều
cùng
vâng
lệnh,
hay
hàng
phục
hết
thảy
quỉ
mị.
Lại
rằng
thần
chú
như
mật
lệnh
trong
quân,
dầu
nghe
hiệu
lệnh
đều
cùng
vâng
phép
chẳng
dám
lậu
ngôn
vấn
đáp.
Lại
rằng
thần
chú
là
tùy
nguyện
vậy.
Dụ
như
quả
loã
là
giống
cái
ong
tò
vò,
bắt
lấy
tang
trùng
cùng
giống
sâu
bọ,
đem
vào
ổ
mà
chú
nguyện,
bèn
hóa
(5b)
nên
giống
mình.
Chư
Phật
bồ
tát
mật
thuyết
thần
chú,
nguyện
chư
chúng
sinh
ắt
tùy
sở
nguyện
đều
được
thành
tựu
vậy.
Bát
nhã
thị
chư
Như
Lai
mẫu
Tiêu
trừ
thất
nạn
tam
tai
khổ
Thiên
cung
niệm
trụy
đỉnh
sanh
vương
Hạ
giới
tùng
linh
ban
túc
ngộ
Thử
kinh
phó
chúc
ngã
đế
vương
Vị
dư
quần
sanh
tác
vi
hổ
Lưu
ân
giáng
phước
nguyện
từ
bi
Thời
dự
đạo
thái
dân
an
đỗ.
Nam
mô
Quán
Tự
Tại
Bồ
Tát
BÁT
NHÃ
BA
LA
MẬT
ĐA
TÂM
KINH
GIỚI
THIỆU
SỰ
LÝ
DUNG
THÔNG
Trong
số
20
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải
ghi
lại
trong
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
ta
thấy
có
ghi
Soạn
Sự
lý
dung
thông
1
quyển.
Và
đây
là
tác
phẩm
hện
tại
đã
tìm
thấy
viết
bằng
thơ
song
thất
lục
bát.
Những
tác
phẩm
kia,
có
tác
phẩm
nào
viết
bằng
văn
vần
nữa
không,
ta
hiện
không
thể
trả
lời
dứt
khoát.
Dẫu
sao
đi
nữa,
với
4
tác
phẩm
đã
tìm
lại
được
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
ta
thấy
đây
là
tác
phẩm
bằng
thơ
duy
nhất.
Vì
nó
sử
dụng
lối
thơ
song
thất
lục
bát,
nên
Sự
lý
dung
thông
có
thể
coi
như
cùng
với
Tư
dung
vãn
và
Ngoạ
long
ngâm
của
Đào
Duy
Từ,
là
những
tác
phẩm
xuất
hiện
tương
đối
sớm
của
thể
thơ
này
trong
lịch
sử
văn
học
dân
tộc
ta.
I.
TÌNH
TRẠNG
VĂN
BẢN
Văn
bản
Sự
lý
dung
thông
mà
chúng
tôi
hiện
có
là
bản
in
trong
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san,
quyển
thứ
tư,
năm
1943,
do
trường
Viễn
Đông
bác
cổ
Pháp
giúp
đỡ
và
Hội
Phật
giáo
Bắc
Kỳ
phát
hành.
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san
là
một
bộ
sách
gồm
cả
thảy
8
quyển
do
Tổng
hội
Phật
giáo
Bắc
Kỳ,
trong
đó
có
các
hòa
thượng
như
Quang
Minh
chùa
Cảnh
Linh,
Thanh
Thịnh,
chùa
Hưng
Long,
Doãn
Hài
chùa
Bảo
Khám,
Thanh
Tích
chùa
Thiên
Trù,
Tâm
Đức
chùa
Anh
Ninh
và
thiền
sư
Tuệ
Tạng
kết
hợp
với
trường
Viễn
Đông
bác
cổ
Pháp,
để
công
bố
các
sử
liệu
liên
quan
đến
Phật
giáo
Việt
Nam
tàng
trữ
tại
thư
viện
của
trường
ấy.
Nhưng
mới
làm
được
nửa
chừng,
tức
mới
tới
quyển
thứ
8
thì
những
biến
cố
chính
trị
năm
45
xảy
ra,
rồi
sau
đó
toàn
quốc
đi
vào
kháng
chiến
nên
đã
ngưng
lại.
Việc
ra
đời
của
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san
này
là
một
sáng
kiến
hay,
nhằm
cung
cấp
tư
liệu
nghiên
cứu
về
những
lãnh
vực
khác
nhau
của
đời
sống
và
sinh
hoạt
tinh
thần
của
dân
tộc
ta.
Chỉ
tiếc
một
điều
là
nó
bị
ngưng
lại
giữa
chừng,
và
hai
nữa
là
trong
khi
tiến
hành
cho
in
lại
các
tác
phẩm
văn
học
Phật
giáo
này,
những
người
đứng
chủ
trương
đã
không
làm
đúng
theo
qui
trình
trong
việc
công
bố
các
văn
bản
cũ.
Nói
cách
khác,
họ
đã
không
cho
ta
biết
những
bản
văn
họ
đưa
ra
in
đã
lấy
từ
đâu
và
tình
trạng
văn
bản
của
chúng
như
thế
nào.
Văn
bản
Sự
lý
dung
thông
của
chúng
ta
cũng
nằm
trong
tình
trạng
như
thế.
Tuy
nhiên,
căn
cứ
vào
chính
văn
bản
này
thì
ta
biết
nó
được
in
kèm
vào
trong
bộ
Nhật
dụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi.
Bộ
này
in
chung
với
bộ
Lễ
tụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi
và
tạo
nên
nội
dung
của
quyển
4
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san.
Từ
tờ
2a1
đến
tời
59b8
là
thuộc
về
Lễ
tụng
hành
nghi
tập
yếu
chư
nghi,
còn
từ
tờ
60a1
đến
tờ
129b8
là
thuộc
bộ
Nhật
dụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi.
Căn
cứ
vào
mục
lục
của
bộ
này
ở
tờ
1a6
đến
1b6,
nội
dung
của
Nhật
dụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi
gồm
có
một
số
kệ
chú
như
Tảo
khởi
kệ
chú,
Tẩy
diện
kệ
chú…
cho
đến
Khất
thục
kệ
chú,
Kháng
bệnh
kệ
chú
v.v….
Rồi
các
kinh
như
Vô
thường
kinh,
cùng
một
số
nghi
thức
như
Tân
tống,
nhập
khám,
trà
tỳ
hỏa
đàn,
nhập
tháp,
nhiễu
tháp
v.v…
Và
đặc
biệt
người
viết
Nhật
dụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi
đã
gồm
một
loạt
các
văn
bản
tiếng
Việt
như
Oai
nghi
quốc
ngữ
của
Như
Thị,
Ngũ
giới
quốc
âm
và
Thập
giới
quốc
âm
của
Như
Trừng
(1696-1728)
và
Ni
luật
quốc
âm
của
Tính
Quảng
và
Sự
lý
dung
thông
của
chúng
ta
nằm
ở
tờ
115a6
đến
119a5.
Ta
không
biết
họ
đã
căn
cứ
vào
văn
bản
nào
để
in
lại
Sự
lý
dung
thông.
Và
trước
lần
họ
in,
Sự
lý
dung
thông
đã
qua
những
lần
in
nào.
Điều
may
mắn
là
ở
cuối
sách
Lễ
tụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi
tờ
129a6
–
b8
có
một
bài
nhan
đề
Tập
yếu
hậu
tụng
do
Thông
Cán
trụ
trì
chùa
Liên
Hoa
viết
vào
năm
Thành
Thái
14,
Nhâm
dần
(1902)
nói
về
lai
lịch
của
tác
phẩm
này
:"Lễ
tụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi
là
do
luật
sư
Viên
Giác
chùa
Vĩnh
Khánh
ở
Bổ
Đà
rộng
chọn
các
kinh,
tìm
lấy
những
điều
rất
đơn
giản,
học
đòi
những
điều
Phật
tổ
trước
thường
làm
mà
làm,
phỏng
theo
những
điều
Phật
tổ
trước
thường
dùng
mà
dùng,
uyển
chuyển
thuận
theo
thời
cơ,
châm
chước
mà
làm
ra
khóa
tụng
hằng
ngày.
Bắt
đầu
với
trì
chú,
lễ
tán
tam
bảo,
rồi
cúng
hương,
sám
hối,
tụng
kinh,
niệm
Phật,
rồi
tự
bày
tỏ
sám
hối,
đảnh
lễ
Tây
phương,
phát
nguyện
hồi
hướng,
lễ
tam
tự
quy.
Lại
thể
theo
thành
quy
của
Từ
Vân
mà
lược
bớt
sám
nguyện
hành
nguyện,
rộng
tuân
quy
ước
của
Vân
Thê
mà
có
đủ
các
nghi
hành
trì,
lần
lượt
rút
gọn
phân
biệt
giá
trị,
đề
tên
Tập
yếu
(…)"
Lễ
tụng
hành
trì
tập
yếu
chư
nghi,
như
vậy
là
do
Luật
sư
Viên
Giác
chùa
Vĩnh
Khánh
núi
Phổ
Đà
tập
hợp
các
tư
liệu
xưa
viết
nên.
Ngày
nay,
tuy
chưa
biết
rõ
niên
đại
của
Luật
sư
Viên
Giác
này,
nhưng
ít
nhất
ta
cũng
biết
tác
phẩm
của
ông
ít
nhất
đã
ra
đời
vào
thế
kỷ
19.
Vậy,
Sự
lý
dung
thông
chắc
chắn
đã
được
Viên
giác
rút
ra
từ
một
bản
in
nào
đó
lưu
hành
vào
thế
kỷ
19.
Văn
bản
Sự
lý
dung
thông
mà
chúng
ta
sử
dụng
dù
xuất
hiện
trong
bản
in
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san,
vẫn
có
một
tính
cổ
sơ
nào
đó.
Đây
là
văn
bản
mà
chúng
tôi
đang
có
về
Sự
lý
dung
thông,
hiện
tại
nằm
ở
tờ
115a6-119a5
của
quyển
4,5
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san.
Mỗi
tờ
có
2
mặt
a
và
b,
mỗi
mặt
có
8
dòng,
mỗi
dòng
có
18
chữ,
chữ
in
rõ
ràng,
đẹp.
Văn
bản
này
có
cả
thảy
162
câu
thơ
viết
theo
thể
song
thất
lục
bát.
Vì
hiện
tại,
chúng
tôi
sở
hữu
một
văn
bản
duy
nhất,
nên
không
biết
văn
bản
này
còn
có
những
dị
bản
nào
nữa
không.
II.
TÁC
GIẢ,
NIÊN
ĐẠI
VÀ
TÊN
GỌI
Văn
bản
do
Việt
Nam
Phật
điển
tùng
san
công
bố,
dưới
đầu
đề
Sự
lý
dung
thông,
không
ghi
tên
tác
giả,
như
đã
làm
với
Ngũ
giới
quốc
âm
và
Thập
giới
quốc
âm
của
Như
Trừng,
Oai
nghi
quốc
ngữ
của
Như
Thị
và
Sa
di
ni
học
pháp
oai
nghi
quốc
âm
của
Tử
Sầm
lão
nhân,
tức
Tính
Quảng.
Tuy
nhiên,
căn
cứ
vào
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
ta
thấy
có
ghi
Soạn
Sự
lý
dung
thông,
1
quyển,
trong
số
20
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải.
Do
thế,
ta
có
thể
coi
bản
Sự
lý
dung
thông
vừa
nêu
là
của
chính
tác
giả
này.
Thêm
vào
đó,
nếu
phân
tích
chính
nội
dung
của
Sự
lý
dung
thông,
thì
về
mặt
học
lý
không
có
xu
hướng
tư
tưởng
gì
đi
ngược
lại
với
những
phát
biểu
mà
ông
đã
đưa
ra
trong
các
tác
phẩm
được
biết
chắc
chắn
là
do
ông
viết
như
Giải
tâm
kinh
ngũ
chỉ,
Giải
Di
Đà
kinh,
và
Giải
Kim
cương
kinh
lý
nghĩa.
Ngoài
ra,
về
mặt
ngôn
từ,
từ
dùng
trong
Sự
lý
dung
thông
với
số
lượng
từ
Hán
và
chữ
cổ
nhiều,
cũng
là
1
điều
cho
thấy
chỉ
tính
cổ
sơ
của
tác
phẩm
này.
Nói
tóm
lại,
dù
văn
bản
không
ghi
ai
là
tác
giả,
ta
vẫn
có
thể
xác
định
là
của
Minh
Châu
Hương
Hải
.
Thế
thì
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
viết
Sự
lý
dung
thông
vào
thời
điểm
nào?
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
khi
liệt
kê
20
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
trước
đó
có
ghi
sự
việc
ông
được
trấn
thủ
Hiến
trấn
Lê
Đình
Kiên
cấp
cho
ông
hơn
mẫu
đất
để
ông
dựng
am
thờ
Phật
tụng
kinh
và
hành
thiền.
Điều
này
khiến
ta
có
thể
cho
rằng
ông
đã
viết
các
tác
phẩm
của
mình
trong
thời
gian
ở
tại
chùa
Nguyệt
Đường
của
Hiến
trấn,
tức
khoảng
những
năm
từ
1685
đến
1715.
Và
như
sẽ
thấy
trong
phần
phân
tích
nội
dung
dưới
đây,
khi
đưa
ra
1
mẫu
người
tu
thiền
lý
tưởng,
Minh
Châu
Hương
Hải
không
phải
xuất
phát
từ
những
kiến
thức
sách
vở,
mà
chính
từ
cuộc
sống
của
bản
thân
và
thời
đại
mình,
với
những
con
người
tuy
thành
đạt
trong
giới
học
thuật
nho
giáo,
nhưng
vẫn
sống
cuộc
sống
Phật
giáo
của
mình.
Đấy
là
những
con
người
:
Dốc
làm
chí
cả
trượng
phu,
Đạo
nên
trung
hiếu,
ân
thù
vẹn
hai
Trong
khi
khó
nhọc
mựa
nài,
Sức
dùng
hà
đảm
Như
Lai
viên
thành
Và
lời
dặn
dò
của
ông
:
AṠlời
khuyên
dặn
người
thiền
tử,
Lý
hiểu
tường,
sự
giữ
tiệm
tu
.
Với
1
giọng
điệu
và
quan
điểm
như
thế,
rõ
ràng
Minh
Châu
Hương
Hải
không
thể
viết
Sự
lý
dung
thông
khi
ông
còn
trẻ,
mà
phải
vào
những
năm
ông
đã
lớn
tuổi.
Nói
khác
đi,
Sự
lý
dung
thông
có
khả
năng
được
viết
vào
những
năm
trước
và
sau
1700
không
lâu
.
Văn
bản
mà
chúng
tôi
có,
có
nhan
đề
là
Sự
lý
dung
thông.
Nhưng
căn
cứ
vào
Hương
hải
thiền
sư
ngữ
lục,
thì
ta
có
tên
Soạn
Sự
lý
dung
thông,
1
quyển.
Ở
đây,
chúng
tôi
vẫn
gọi
là
Sự
lý
dung
thông
như
văn
bản
đã
có,
vì
nó
đúng
với
nội
dung
của
bài
thơ,
và
không
cần
thêm
chữ
soạn
ở
trước
nó
.
III.
PHÂN
TÍCH
NỘI
DUNG
Với
162
câu,
nội
dung
Sự
lý
dung
thông
có
thể
chia
làm
3
phần.
Phần
đầu
giới
thiệu
vấn
đề,
gồm
từ
câu
1
đến
câu
12.
Phần
hai
là
phần
chính
của
tác
phẩm,
gồm
từ
câu
13
đến
câu
158,
trình
bày
những
vấn
đề
lý
thuyết
và
thực
tiễn
của
đời
sống
người
tu
thiền
Việt
Nam
theo
quan
niệm
của
Minh
Châu
Hương
Hải.
Phần
cuối
cùng
là
phần
kết
luận,
gồm
4
câu
từ
159
đến
162,
nhắn
nhủ
những
người
tu
thiền
cố
gắng
tiến
tu
để
giúp
đỡ,
sửa
sang,
khuông
phò
sự
nghiệp,
mở
mang
Phật
giáo.
Như
thế,
phần
chính
của
Sự
lý
dung
thông
chính
là
phần
trình
bày
về
lý
thuyết
và
thực
tiễn
đời
sống
của
người
tu
thiền.
Phần
trình
bày
về
lý
thuyết
gồm
từ
câu
13
đến
câu
136,
trước
hết
nhấn
mạnh
đến
việc
tâm
truyền
của
thiền
tông
bằng
tư
tưởng
pháp
nhẫn
vô
sinh.
Pháp
nhẫn
vô
sinh
là
1
khái
niệm
đặc
biệt
của
tư
tưởng
đại
thừa,
mà
trong
tiếng
Phạn
gọi
là
anuttikadharmaksanti,
nhấn
mạnh
đến
khía
cạnh
sống
theo
thực
tế,
tuân
thủ
theo
quy
luật
phát
triển
của
sự
vật,
không
chống
lại
quy
luật
phát
triển
ấy
của
đời
sống
tu
hành
Phật
giáo.
Xuất
phát
từ
cuộc
sống
tuân
thủ
quy
luật
phát
triển
vận
động
của
sự
vật
này,
người
Phật
giáo
sẵn
sàng
chấp
nhận
những
diễn
biến
phát
triển
bên
ngoài
Phật
giáo,
và
coi
nó
như
1
bộ
phận
của
tư
tưởng
và
lối
sống
Phật
giáo.
Đây
là
1
nét
đặc
trưng
của
tư
tưởng
phát
biểu
trong
kinh
Kim
cương,
mà
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
viết
giải
thích.
Kinh
Kim
cương
nói
rất
rõ
:"Tất
cả
các
pháp
đều
là
Phật
pháp".
Và
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
giảng
lại
như
sau
trong
Giải
Kim
cương
kinh
lý
nghĩa
:"Phât
rằng,
hết
thảy
chư
pháp
đều
cũng
dùng
sự
tu
hành
cho
được
thành
đẳng
chánh
giác.
Thiền
gia
dầu
bỏ,
ắt
lỗi
ý
kinh.
Khác
nào
chưa
đến
ngạn
mà
đã
bỏ
thuyền,
há
mình
chẳng
chìm
trong
nơi
khổ
hải?
Hết
thảy
chúng
sinh
từ
vô
lượng
kiếp
đến
nay,
chẳng
khỏi
pháp
tính
tam
muội.
Dầu
khi
mặc
áo,
ăn
cơm,
đàm
thuyết,
đối
đãi,
lục
căn
thường
hành,
nhậm
vận
thi
vi,
thật
những
là
pháp
tính
diệu
dụng.
Chẳng
biết
phản
bảng
hoàn
nguyên,
vậy
bèn
tùy
danh
chấp
tướng,
tình
mê
vọng
khởi,
tạo
chủng
chủng
nghiệp.
Dầu
hay
biết
được,
nhất
niệm
hồi
quang,
liễu
phàm
tâm
chứng
được
thánh
tâm,
chuyển
thế
pháp
đều
nên
Phật
pháp".
Tư
tưởng
thiền
cơ
bản
của
Minh
Châu
Hương
Hải
như
thế
đã
dựa
trên
tư
tưởng
"Chuyển
thể
pháp
đều
nên
Phật
pháp".
Thế
đã
rõ,
Phật
pháp
không
nằm
ngoài
thế
pháp.
Phật
pháp
chính
là
sự
sống
xảy
ra
bây
giờ
và
ở
đây,
như
"mặc
áo,
ăn
cơm,
đối
đãi
lục
căn
thường
hành,
nhậm
vận
thi
vi,
thật
những
là
pháp
tính
diệu
dụng".
Không
có
sự
cách
biệt.
Chỉ
có
vấn
đề
là
có
biết
"nhất
niệm
hồi
quang"
để
cho
sự
sống
ấy
là
sự
sống
mang
tính
Phật,
mang
tính
giác
ngộ
giải
thoát,
chứ
không
còn
mang
tính
chúng
sinh
khổ
đau
phiền
não
nữa
hay
không.
Tư
tưởng
lấy
cuộc
đời,
lấy
sự
sống
trần
thế
làm
đối
tượng
tu
hành,
từ
thời
Tuệ
Năng
(638-713)
trở
đi
đã
trở
thành
tư
tưởng
chủ
đạo
với
bài
thơ
nổi
tiếng
của
ông
:
Phật
pháp
tại
thế
gian,
Bất
ly
thế
gian
giác,
Ly
thế
mích
bồ
đề
Do
như
tầm
thố
giác
.
Và
đến
thời
Trần
Nhân
Tông
của
nước
ta,
thì
vị
anh
hùng
dân
tộc
này
đã
không
ngần
ngại
nêu
thẳng
quan
điểm
của
mình
về
thiền
là
cư
trần
lạc
đạo
(sống
đời
mà
vui
đạo).
Mà
sống
đời
vui
đạo
này,
ở
nước
ta
vào
thời
ông,
đúng
như
mấy
chục
năm
trước
Trần
Thái
Tông
đã
nói:"Đạo
giáo
của
đức
Phật
ta
phải
nhờ
tiên
thánh
mà
truyền
lại
cho
đời".
Và
chủ
trương
này
đến
lúc
Minh
Châu
Hương
Hải
viết
Sự
lý
dung
thông
vẫn
còn
hoàn
toàn
mang
tính
tạm
thời
của
nó.
Cho
nên
cũng
chính
trong
phần
phân
tích
về
lý
thuyết
đời
sống
nhà
tu
của
Sự
lý
dung
thông,
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
đề
cập
tới
vai
trò
của
Nho
và
Lão
giáo
trong
quan
hệ
với
Phật
giáo,
dành
cho
chúng
những
vị
trí
xứng
đáng
trong
đời
sống
của
những
người
thực
hành
Phật
giáo
thời
ông.
Truyền
thống
coi
Nho
và
Lão
không
đối
lập
với
Phật
giáo,
mà
còn
nhấn
mạnh
đến
chúng
như
1
bộ
phận
và
phương
tiện
để
truyền
bá
Phật
giáo,
đến
lúc
này
vẫn
được
tiếp
nối
và
kế
thừa.
Và
sau
này
ta
vẫn
còn
thấy
ở
những
con
người
như
Ngô
Thời
Nhiệm
và
Nguyễn
Du.
Ngô
Thời
Nhiệm
là
1
Thượng
thư
bộ
Binh
của
triều
Tây
sơn,
đồng
thời
cũng
là
1
tiến
sĩ
đại
khoa
bảng,
nhưng
vẫn
xác
nhận
công
khai
mình
là
Hải
Lượng
đại
thiền
sư
trong
Trúc
lâm
tông
chỉ
nguyên
thanh.
Còn
Nguyễn
Du
xuất
thân
từ
1
nhà
quý
tộc,
trải
qua
bao
thăng
trầm
của
sự
thế,
vẫn
tuyên
bố
"thử
tâm
thường
định
bất
ly
thiền"(lòng
này
thiền
định
không
rời
thiền),
trong
1
bài
thơ
làm
tại
Lạng
Sơn,
trên
đường
đi
sứ
sang
Trung
quốc.
Những
người
Phật
tử
Việt
Nam
đã
sống
đời
sống
đạo
của
mình
trong
1
tình
huống
như
thế.
Trên
vai
họ
đã
gánh
vác
nhiều
trọng
trách
đối
với
đất
nước
và
đã
có
những
đóng
góp
to
lớn
cho
cuộc
đời
để
làm
vơi
bớt
đi
ít
nhiều
khổ
đau
mà
cuộc
đời
vốn
dĩ
thường
mắc
phải
.
Lẽ
sống
người
Phật
tử
là
vậy,
thế
thì
thực
tiễn
cuộc
sống
của
họ
thế
nào.
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
viết
:
AṠlời
khuyên
dặn
người
thiền
tử,
Lý
hiểu
tường,
sự
giữ
tiệm
tu,
Hằng
rèn
giới
hạnh
công
phu,
Lên
đường
tinh
tấn
nhẫn
phù
yên
tâm
.
Đời
sống
thực
tiễn
tu
hành
của
họ
phải
gồm
có
giới
hạnh
công
phu,
nhưng
giới
hạnh
công
phu
là
gì?
Minh
Châu
Hương
Hải
viết
tiếp
:
Dốc
làm
chí
cả
trượng
phu,
Đạo
nên
trung
hiếu,
ân
thù
vẹn
hai
Một
lần
nữa,
quan
điểm
cho
rằng
đời
sống
thực
tiễn
Phật
giáo
phải
là
1
đời
sống
trung
hiếu
của
đấng
trượng
phu
như
vừa
nêu,
ta
đã
thấy
xuất
hiện
trong
Cư
trần
lạc
đạo
phú
của
Trần
Nhân
Tông
:
Sạch
giới
lòng,
dồi
giới
tướng,
Nội
ngoại
nên
bồ
tát
trang
nghiêm,
Ngay
thờ
chúa,
thảo
thờ
cha,
Đi
đỗ
mới
trượng
phu
trung
hiêú
.
Vậy,
với
Sự
lý
dung
thông,
lý
luận
về
đời
sống
tu
hành
của
người
Phật
tử
Việt
Nam
lại
được
xác
nhận
như
nó
đã
xuất
hiện
trong
lịch
sử,
đấy
là
1
lối
sống
trượng
phu
trung
hiếu.
Khi
viết
Sự
lý
dung
thông,
Minh
Châu
Hương
Hải
hiểu
rất
rõ
đời
sống
trung
hiếu
của
những
Phật
tử
Việt
Nam
thời
ông,
mà
cụ
thể
nhất
trước
mắt
ông
là
Ứng
quận
công
tiến
sĩ
Đặng
Đình
Tướng,
người
đã
lui
tới
thăm
viếng
Nguyệt
Đường
nhiều
lần,
và
cũng
đã
từng
nhờ
Minh
Châu
Hương
Hải
tiến
hành
cúng
quảy
cho
nhà
mình.
Cho
nên
khi
viết
Sự
lý
dung
thông,
Minh
Châu
Hương
Hải
không
phải
chỉ
khuyên
răn,
mà
còn
ghi
lại
1
thực
tế
của
đời
sống
Phật
giáo
Việt
Nam
thời
kỳ
này,
1
thời
kỳ
mà
cuộc
sống
đạo
và
đời
quyện
chặt
vào
nhau,
đúng
như
yêu
cầu
Cư
trần
lạc
đạo
mà
Trần
Nhân
Tông
đã
đề
ra.
Nói
thế,
để
thấy
rằng
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
viết
Sự
lý
dung
thông
vào
những
năm
sống
ở
Nguyệt
Đường,
tức
vào
những
năm
1700
.
SỰ
LÝ
DUNG
THÔNG
1
Bể
làu
làu
trời
thanh
nguyệt
sáng
2
Hội
muôn
thiêng
một
áng
đoàn
viên
3
Tỏ
lòng
Đông
độ
Tây
thiên
4
Gần
xa
đầm
ấm
hương
thiền
nức
xông
Hé
vừng
hồng
hoa
khai
bát
nhã
5
Trồng
bồ
đề
kết
quả
tự
nhiên
6
Đường
lên
hiền
thánh
Phật
tiên
Gồm
no
phúc
tuệ
vẹn
tuyền
chẳng
sai
7
Diễn
pháp
tài
thông
hay
sự
lý
8
Cúng
mười
phương
một
vị
chẳng
dư
9
Thật
quyền
thể
dụng
như
như
10
Tùy
duyên
đôi
chữ
lòng
từ
độ
nhân
Xét
nguồn
cơn
Phật
tri
chánh
kiến
11
Aᮠtâm
truyền
mật
hiển
đinh
ninh
Hằng
gìn
pháp
nhẫn
vô
sinh
12
Chỉ
quán
vằng
vặc
phân
minh
rạch
ròi
13
Gương
hằng
soi
trong
nơi
thủ
niệm
14
Tuốt
bá
trần
chẳng
điểm
thị
phi
15
Tẩy
không
non
mạn
thành
nghi
16
Một
lòng
bình
đẳng
trí
bi
độ
người
17
Dù
chê
cười
hương
đồ
dao
cắt
18
Lẽ
đành
rành
thể
ắt
chiêm
bao
Lông
rùa
sừng
thỏ
hề
sao
19
Nhẫn
như
không
nhẫn
nhục
nào
nhục
ai
Hạc
xông
ngựa
ruổi
đường
dài
Long
phi
bằng
cử
nào
ai
sánh
cùng
20
Dầu
anh
hùng
tài
năng
tế
thế
Trong
huyễn
trường
luống
kể
chiêm
bao
21
Tứ
sinh
cửu
hữu
ra
vào
22
Nhân
thiên
đạo
nhãn
lòng
nào
dửng
dưng
23
Phải
phiền
chưng
đức
người
thượng
sĩ
24
Phương
tiện
dùng
lợi
kỷ
lợi
tha
Trong
nơi
danh
giá
có
ba
25
Nho
hay
giúp
nước
sửa
nhà
trị
dân
Đạo
thì
dưỡng
khí
an
thần
26
Thuốc
trừ
tà
bệnh
chuyên
cần
luyện
đan
Thích
độ
nhân
miễn
tam
đồ
khổ
27
Thoát
cửu
huyền
thất
tổ
siêu
phương
28
Nho
dùng
tam
cương
ngũ
thường
29
Đạo
gìn
ngũ
khí
giữ
giàng
ba
nguyên
30
Thích
giáo
nhân
tam
qui
ngũ
giới
31
Thể
một
đường
xe
phải
dùng
ba
32
Luận
chưng
thánh
tổ
Nho
gia
Trong
đời
trị
thế
người
là
nhân
sư
33
Sao
bằng
Đâu
suất
vị
cư
34
Lão
quân
tiên
chủ
đại
từ
dược
phương
35
Phật
là
vạn
pháp
trung
vương
36
Làm
thầy
ba
cõi
đạo
trường
nhân
thiên
37
Những
thánh
hiền
nguồn
nhân
bể
quả
Xưa
tu
hành
trí
đã
rộng
cao
Trong
nơi
ba
cõi
ra
vào
Mười
phương
tri
thức
ai
nào
khá
nghi
Nguyệt
in
thanh
hải
tịnh
trì
38
Thềm
lan
bóng
trúc
hề
chi
vén
ngằn
Phên
dày
nước
chảy
khôn
ngăn
Mây
ruổi
ngoài
trần
há
động
non
cao
Sự
nài
bao
hang
sâu
tiếng
dội
Đèn
hãy
dùng
chớ
nỗi
chờ
trăng
Đường
lên
diệu
lộ
cao
thăng
39
Giải
hành
đôi
chữ
há
rằng
dám
sai
40
Tạng
Như
Lai
làu
làu
thanh
tịnh
41
Năm
hương
lòng
hằng
kính
hằng
tin
42
Đòi
phen
giải
thoát
tự
nhiên
43
Dùng
chân
như
trí
gương
thiền
sáng
thâu
44
Lộc
dương
theo
dấu
hay
đâu
45
Nê
ngưu
vào
bể
rộng
sâu
khôn
tìm
46
Bao
nhiêu
chim
bay
về
lạc
tổ
47
Mây
che
ngoài
ngỡ
ổ
hang
xưa
48
Đêm
chẳng
ngừa
nhọc
treo
gương
đá
49
Ban
sáng
ngày
trời
đã
phân
minh
50
Uyên
ương
vẽ
dáng
xem
hình
51
Cứ
đâu
lưới
rách
cho
mình
mới
thông
52
Hãy
nhìn
sáu
tổ
năm
tôn
53
Thiền
hà
muôn
phái
một
dòng
Tào
Khê
54
Bể
từ
rạt
sạch
nguồn
mê
55
Máy
thiêng
mở
khép
đề
huề
độ
sinh
56
Chuyển
vô
minh
bối
trần
hiệp
giác
57
Vui
về
bề
diệu
dược
liên
bang
58
Dầu
ai
hiểu
biết
tâm
vương
59
Chứng
vô
thượng
đạo
lên
đường
Như
Lai
60
Ra
nhân
đức,
nhuận
ân
oai
Lầu
lầu
viên
tịnh
trong
ngoài
sáng
thanh
61
Há
còn
chấp
tướng
ngại
danh
62
Tuỳ
cơ
thuận
nghịch
tung
hoành
cũng
ưa
63
Tám
gió
đưa
đèn
lòng
phất
phất
64
Muôn
niệm
dừng
vằng
vặc
chẳng
sai
65
Tuy
rằng
nam
có
Thiên
Thai
66
Bắc
có
Ngũ
Đài
một
pháp
Năng
nhân
67
Dốc
bốn
ân
đức
nhờ
tam
bảo
68
Tiếp
tứ
hoằng
một
đạo
nguyện
xưa
69
Cam
lồ
nước
sái
làm
mưa
Muôn
cây
đượm
nhuận
ân
nhờ
xuân
thiên
70
Trường
hà
tô
lạc
luyện
nên
71
Quần
sinh
hoá
dục,
công
đền
muôn
công
Mặc
dầu
vượt
tổ
siêu
tông
Vén
cành
điểm
lá
rồi
lòng
mới
yên
72
Mặc
dầu
tĩnh
tọa
lâm
tuyền
Thiền
na
chỉn
quyết
tinh
chuyên
đêm
ngày
73
Mặc
dầu
vân
thủy
nước
mây
Đầu
đà
thượng
hạnh
làm
thầy
độ
sinh
74
Đạo
viên
minh
ngại
chi
chân
tục
Miễn
lòng
rồi
tri
túc
thì
nên
75
Năm
mươi
lăm
phẩm
dưới
trên
76
Luyện
tam
muội
hoả
chí
bền
kim
cương
77
Nhân
thiên
mấy
đấng
phong
quang
78
Tam
hiền
thập
thánh
một
đường
cao
siêu
79
Cày
mây
cuốc
nguyệt
tuy
nhiều
80
Chứng
vô
thượng
sỹ
danh
tiêu
mới
nồng
81
Hai
mươi
lăm
cửa
viên
thông
82
Mặc
dầu
tri
thức
tâm
không
ngại
gì
83
Ưu
đàm
hoa
nở
phải
thì
84
Nhân
duyên
đại
sự
há
vì
một
ai
85
Kẹp
non
nhảy
bể
mới
tài
86
Dùng
ba
la
mật
chứng
ngoài
tam
không
87
Biết
nơi
thành
tựu
vun
trồng
Ngỏ
lòng
viên
giác,
tính
đồng
hoa
nghiêm
88
Cao
nhân
chi
có
nỡ
hiềm
89
Thanh
trần
hủy
dự
càng
thêm
đức
dày
90
Nửa
câu
nửa
kệ
bèn
hay
91
Biết
lòng
lọ
phải
nhọc
bày
danh
ngôn
92
Máy
càn
khôn
một
bầu
thế
giới
93
Vốn
chưa
từng
thành
hoại
hư
không
94
Rừng
Nho
bể
Thích
dung
thông
Linh
đài
vằng
vặc,
vừng
hồng
sáng
thanh
95
Bồ
đề
quả
mãn
viên
thành
A孠quang
còn
ngợi
thái
lành
muôn
duyên
96
Xưa
sau
thiên
thánh
vạn
hiền
Chứng
nên
thành
Phật
thành
tiên
một
lòng
Muôn
điều
ngàn
mối
rũ
xong
97
Hằng
sa
tính
đức
há
phòng
niệm
sinh
Tam
tạng
mười
hai
bộ
kinh
98
Tùng
tâm
lưu
xuất,
tượng
hình
thật
không
99
Nhân
đà
lịch
kiếp
dụng
công
100
Tu
hành
như
ảo
mộng
trung
hồi
trình
Trong
mười
tám
cõi
viên
minh
101
Căn
trần
thanh
tịnh
thái
bình
tự
nhiên
AṠlời
khuyên
dặn
người
thiền
tử
102
Lý
hiểu
tường,
sự
giữ
tiệm
tu
103
Hằng
rèn
giới
hạnh
công
phu
Lên
đường
tinh
tấn
nhẫn
phù
yên
tâm
104
Ngày
càng
chuyển
nhập
chuyển
thâm
105
Nguồn
nhân
bể
quả
mựa
lầm
tóc
tơ
106
Máy
thiền
cơ
trong
nơi
định
tuệ
107
Phải
tham
tường
mới
kể
chân
tu
Dốc
làm
chí
cả
trượng
phu
Đạo
nên
trung
hiếu
ân
thù
vẹn
hai
108
Trong
khi
khó
nhọc
mựa
nài
Sức
dùng
hà
đảm
Như
Lai
viên
thành
109
Sạch
lời
đối
đãi
đau
tranh
Bẻ
rào
nhân
ngã,
tẩy
thành
mạn
nghi
110
Thanh
trần
gác
để
thị
phi
111
Tịnh
thân
khẩu
ý
thanh
qui
làu
làu
112
Nết
hằng
trau
ngôn
từ
đức
hạnh
Trí
phen
đòi
lượng
thánh
hiền
xưa
113
Bữa
dùng
đạm
bạc
muối
dưa
Bả
bô
thường
tịnh,
sớm
trưa
phải
thì
114
Cơ
duyên
chiết
tiết
ân
uy
115
Trong
hằng
thanh
tịnh,
ngoài
thì
đoan
trang
Trong
nơi
giềng
mối
sửa
sang
Răn
khuyên
hậu
học
mở
đường
tiến
tu
Qui
mô
Phật
pháp
khuông
phù
116
Để
làm
minh
cảnh
muôn
thu
dõi
truyền
117
1.
Sự
:
thực
tiễn;
Lý:
lý
thuyết,
nguyên
tắc
bao
gồm
cả
lý
thuyết
và
thực
hành.
2.
Làu
làu:
trong
suốt,
do
dịch
chữ
Hán
là
trạm
tịch;
Bể
làu
làu
nhằm
chỉ
cho
cảnh
giới
giác
ngộ
.
3.
Muôn
thiêng:
các
vị
thánh
đã
chứng
đạo
.
4.
Rõ
hết
lòng
của
Phật
và
Tổ.
Tây
thiên
là
nơi
Phật
Thích
Ca
ra
đời
và
Đông
độ
là
nơi
khai
sinh
dòng
thiền
của
các
Tổ
như
Tuệ
Khả,
Huệ
Năng…
5.
Ý
chỉ
quan
niệm
trí
tuệ
như
mặt
trời.
Khi
đã
có
trí
tuệ
mặt
trời
chiếu
soi
thì
mọi
vật
đều
được
rõ.
Câu
này
viết
theo
lối
đảo
trang
.
6.
Câu
này
lấy
ý
từ
bài
thơ
truyền
pháp
của
Đạt
Ma
:
Ta
vốn
đến
đất
này/
Truyền
pháp
cứu
người
mê/
Một
hoa
nở
năm
cánh/
Kết
quả
tự
nhiên
nên/
Ý
chỉ
thiền
tông
phát
triển
thành
công
.
7.
Gồm
no
:
gồm
đủ.
8.
Đem
giáo
pháp
bày
tỏ
cho
mọi
người
biết
để
rõ
lý
thuyết
và
thực
hành
.
9.
Câu
này
lấy
ý
trong
kinh
A
Hàm
:"Như
nước
trong
biển
chỉ
có
một
vị
là
vị
mặn,
giáo
pháp
của
Phật
cũng
chỉ
có
một
vị
là
vị
giải
thoát".
10.
(câu
11-12)
Khi
đã
giải
thoát
rồi,
người
ta
có
thể
vận
dụng
chân
lý
tùy
theo
trường
hợp
một
cách
đúng
đắn
thể
hiện
lòng
từ
bi
cứu
giúp
mọi
người
.
11.
(câu
13-14)
Xét
về
nguồn
gốc
thì
hiểu
biết
của
Đức
Phật
có
2
mặt
:
1.Hiển:
giáo
lý
được
giảng
giải
một
cách
rõ
ràng
ai
cũng
hiểu
cũng
thấy.
2.
Mật:
những
phương
pháp
bí
truyền.
Cả
hai
hiển
và
mật
,
đều
đem
truyền
cho
đệ
tử
.
12.
Gìn
:
nguyên
chữ
đọc
là
thìn,
là
gìn
giữ,
một
từ
xưa.
Pháp
nhẫn
vô
sinh
:
chữ
Phạn
là
Anutpattikadharmaksanti,
sự
tùy
thuận
theo
chân
lý,
theo
sự
thực
một
cách
tự
nhiên
.
13.
Chỉ
:
dịch
từ
chữ
Phạn
Samatha,
ngừng
lại,
một
phương
pháp
tu
thiền
nhằm
tập
trung
ý
thức
một
chỗ,
không
cho
tản
mạn;
Quán
(P.)
Vipasyana:
là
xem
xét,
dùng
ý
thức
tập
trung
đó
xem
xét
sự
vật
để
nhận
chân
được
bản
chất
của
nó.
Đây
là
2
giai
đoạn
của
một
quá
trình
hành
thiền
.
14.
Thủ
niệm:
giữ
lấy
ý
thức
không
cho
tản
mạn,
làm
cho
nó
trong
sáng
để
có
thể
xem
xét
sự
vật
thấu
suốt
như
sự
phản
chiếu
của
gương
.
15.
Sạch
hết
trần
lao,
chẳng
còn
bám
víu,
chẳng
kể
thị
phi
.
16.
Rửa
sạch
hết
núi
kiêu
căng,
thành
trì
ngờ
vực
.
17.
Đem
lòng
bình
đẳng,
dùng
từ
bi
trí
tuệ
cứu
giúp
mọi
người
.
18.
Chỉ
tích
vị
tiên
Sàn
Đề
bị
vua
Ca
Ly
chửi
mắng
và
cắt
hết
tay
chân
mà
vẫn
nhẫn
nhục
chịu
đựng
19.
Sự
sinh
diệt
của
các
pháp
không
thật
giống
như
lông
rùa
sừng
thỏ,
vì
bản
chất
nó
là
chân
như
.
20.
(câu
25
và
26)
Khi
đã
đạt
được
vô
sinh
pháp
nhẫn,
con
người
có
nhiều
khả
năng
như
hạc
bay
vút
lên
cao,
ngựa
chạy
đường
dài,
rồng
lượn
trên
trời,
đại
bàng
cất
cánh
vươn
lên
…
21.
Huyễn
trường:
nơi
ảo
mộng
chỉ
cho
cuộc
đời
này
.
22.
Tứ
sinh:
bốn
loài
sinh
vật
do
bào
thai,
do
trứng,
do
hơi
ẩm,
do
tự
phân
hoá
sinh
ra;
Cửu
hữu
:
chín
cõi,
tức
cõi
dục
giới,
bốn
cõi
của
sắc
giới
là
thiền
thứ
nhất,
thứ
hai,
thứ
ba,
thứ
tư
và
bốn
cõi
của
vô
sắc
giới,
tức
không
vô
biên
xứ,
thức
vô
biên
xứ,
vô
sở
hữu
xứ,
phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ
.
23.
Khi
đã
giác
ngộ
rồi,
làm
con
mắt
đạo
cho
trời
và
người
thì
lòng
nào
lại
nỡ
dửng
dưng
.
24.
Nên
phải
phiền
đến
lòng
độ
lượng
của
vị
xuất
trần,
dùng
phương
tiện
để
giúp
người,
giúp
mình
.
25.
Danh
giáo:
những
đạo
chính
thống,
đúng
tên
của
nó
.
26.
Dưỡng
khí
an
thần:
nuôi
lấy
khí
huyết
trong
con
người
và
ổn
định
tinh
thần
.
27.
Tam
đồ
khổ
:
ba
đường
đau
khổ
:
đường
máu,
đường
lửa
và
đường
gươm
đao
.
28.
Cửu
huyền
:
chín
đời:
cao,
tằng,
tổ,
cha,
mình,
con,
cháu,
chắt,
chít.
Thất
tổ:
bẩy
đời:
cao,
tằng,
tổ,
cao
cao,
tằng
tằng,
tổ
tổ,
cao
tổ
.
29.
Tam
cương
ngũ
thường:
tam
cương:
ba
giềng
mối
lớn
của
xã
hội
là
quan
hệ
giữa
vua
tôi,
cha
con,
chồng
vợ.
Ngũ
thường:
năm
điều
phải
luôn
luôn
giữ
tức
nhân,
nghĩa,
lễ,
trí,
tín
.
30.
Ngũ
khí
:
Nóng,
lạnh,
gió,
khô,
ướt.
Đó
là
theo
Hoàng
đế
tố
vấn
nội
kinh.
Còn
theo
thiên
Hồng
phạm
trong
kinh
Thư
là
mưa,
nắng,
lạnh,
gió,
ấm.
Ba
nguyên:
Đạo
gia
cho
rằng
trời,
đất
và
nước
là
ba
điểm
đầu
.
31.
Phật
giáo
dạy
người
ba
quy
y
và
năm
điều
răn.
Ba
quy
y
là
quy
y
Phật,
quy
y
pháp
và
quy
y
tăng.
Năm
điều
răn
là
:
không
giết
người,
không
trộm
cắp,
không
tà
dâm,
không
nói
dối,
không
uống
rượu
.
32.
Tuy
cùng
chạy
trên
một
đường
nhưng
phải
dùng
ba
loại
xe
khác
nhau
tức
Nho,
Phật
và
Lão
.
33.
Nhân
sư:
thầy
loài
người
.
34.
Đâu
suất:
phiên
âm
chữ
Phạn
Tusita,
tên
một
cõi
trời
trong
Dục
giới,
tương
truyền
nơi
bồ
tát
Hộ
Minh
ngụ
trước
khi
đầu
thai
làm
Phật
Thích
Ca
.
35.
Vị
chủ
tiên
Lão
quân
của
Đạo
giáo,
là
kẻ
có
lòng
thương
rộng
lớn,
tìm
thuốc
cứu
người
.
36.
Vạn
pháp
trung
vương:
vua
trong
muôn
sự
muôn
vật,
tức
vị
vua
của
mọi
vua
.
37.
Ba
cõi:
thế
giới
chúng
sinh
theo
Phật
giáo
có
ba
cõi
là
dục
giới,
sắc
giới
và
vô
sắc
giới,
tức
gồm
cả
trời
và
người
.
38.
Trăng
soi
bóng
vào
biển
trong
hồ
sạch
.
39.
Diệu
lộ:
nẻo
mầu
nhiệm
cao
xa
.
40.
Giải
hành
:
sự
hiểu
biết
và
sự
thực
hành
.
41.
Tạng
Như
Lai:
dịch
chữ
Tathàgatagarbha,
chỉ
một
quan
niệm
Phật
giáo
cho
rằng
mọi
chúng
sinh
đều
có
tính
giác
ngộ
tức
nằm
trong
bào
thai
của
Như
Lai
.
42.
Năm
hương
lòng:
một
người
tu
hành
thì
thể
hiện
được
giới,
định,
tuệ,
giải
thoát
và
tri
kiến
giải
thoát,
tức
năm
thứ
"hương
lòng"
để
dâng
lên
đức
Phật
.
43.
Đòi
phen:
nhiều
lần
.
44.
Chân
như
trí:
trí
tuệ
có
được
sau
khi
giác
ngộ,
đem
trí
tuệ
ấy
mà
nhận
thức
mọi
vật
thì
đạt
đến
những
tri
giác
đúng
đắn
như
gương
sáng
có
thể
phản
ảnh
được
hình
tượng
của
mọi
sự
mọi
vật
.
45.
Những
ảnh
dụ
trong
công
án
thiền
.
46.
-nt-
47.
Hai
câu
này
dịch
từ
Thiền
tôn
cổ
tụng
liên
châu.
48.
Hai
câu
này
dịch
từ
Thiền
tôn
tụng
cổ
liên
châu.
49.
Những
ảnh
dụ
trong
các
công
án
thiền
.
50.
-nt-
51.
-nt-
52.
-nt-
53.
Sáu
tổ
:
sáu
vị
gầy
dựng
nên
thiền
tôn
Trung
quốc
là
Bồ
Đề
Đạt
Ma,
Tuệ
Khả,
Tăng
xán,
Đạo
Tín,
Hoằng
Nhẫn
và
Huệ
Năng;
Năm
tôn
:
năm
tôn
phái
thiền
phát
triển
sau
Huệ
Năng
là
Qui
Ngưỡng,
Tào
Động,
Lâm
Tế,
Vân
Môn
và
Pháp
Nhãn
.
54.
Sau
Huệ
Năng
phát
triển
thành
nhiều
chi
phái
mà
sau
này
các
vị
tổ
thiền
thường
tự
nhận
là
xuất
phát
từ
Huệ
Năng
.
55.
Biển
từ
bi
làm
trong
sạch
và
phai
lạt
các
sông
mê.
56.
Khi
đã
trở
về
biển
từ
bi
đó
thì
có
thể
tùy
phương
tiện
ra
cứu
giúp
mọi
người.
57.
Chuyển
từ
chỗ
chưa
giác
ngộ
đến
chỗ
giác
ngộ
mình
phải
xoay
lưng
lại
với
những
bụi
dơ
của
phiền
não
để
hoà
mình
theo
con
đường
giác
ngộ
.
58.
Khi
chuyển
được
vô
minh,
mình
vui
với
phương
pháp
niệm
Phật,
coi
nó
là
phương
thuốc
kỳ
diệu
.
59.
Tâm
vương:
chỉ
cho
thức
a
lại
da,
nơi
chứa
nhóm
mọi
hạt
giống
tâm
và
vật
của
vũ
trụ.
60.
Ý
cả
hai
câu
nói
khi
đã
hiểu
biết
được
cái
thức
ấy,
tức
đạt
được
sự
giác
ngộ
tối
cao
.
61.
Lầu
lầu
viên
tịnh:
trong
sạch
tròn
đầy
62.
Chấp
tướng:
câu
nệ
vào
hình
thức
để
xét
đoán
sự
vật
;
Ngại
danh:
bị
vướng
mắc
bởi
ngôn
từ.
63.
Tùy
theo
trường
hợp
thuận
lợi
hay
không
thuận
lợi
để
thực
hiện
ý
nguyện
độ
sinh
của
mình
.
64.
Bát
phong:
tám
ngọn
gió
có
thể
lay
động
lòng
người
tức:
lợi
lộc,
suy
bại,
kích
báng,
ca
tụng,
khen,
chê,
khổ,
vui,
như
Đại
trí
độ
luận
chép.
65.
Muôn
niệm:
những
hoạt
động
của
tâm
thức
.
66.
Thiên
Thai:
tên
một
ngọn
núi
ở
Thai
châu
miền
Nam
Trung
quốc.
Trí
Khải
(531-597)
đã
xiển
dương
và
giảng
dạy
kinh
Pháp
Hoa,
lập
thành
một
tôn
phái
nổi
tiếng
gọi
là
tôn
Thiên
thai.
67.
Ngũ
Đài:
tên
một
ngọn
núi
ở
huyện
Ngũ
Đài,
tỉnh
Sơn
Tây,
miền
Bắc
Trung
quốc,
nơi
Trừng
Quán
(760-820)
đã
phát
triển
phái
Hoa
Nghiêm.
Ý
2
câu
này
nói
rằng
dù
lập
trường
hai
phái
có
khác
nhau
nhưng
đều
nói
đến
giáo
pháp
của
Phật
Thích
Ca;
Năng
nhân:
là
một
từ
Trung
quốc
dùng
để
dịch
chữ
Thích
Ca.
68.
Trả
bốn
ân,
tức
ân
cha
mẹ,
ân
thầy
tổ,
ân
quốc
gia,
ân
thí
chủ
bằng
cách
nhờ
công
đức
mình
thực
hiện
được
đối
với
Phật,
Pháp,
Tăng
.
69.
Tứ
Hoằng:
bốn
lời
nguyện
lớn,
tức
"Chúng
sinh
vô
biên
thệ
nguyện
độ
v.v…"
mà
các
vị
bồ
tát
thực
hiện
đối
với
mình
và
người
.
70.
Muôn
cây
lớn
lên
nhờ
ân
mưa
móc
của
trời
mùa
xuân,
như
người
đau
khổ
được
rưới
nước
cam
lồ.
71.
Trường
hà
tô
lạc:
sông
sữa
dài.
Ý
chỉ
có
khả
năng
nuôi
dưỡng
chúng
sinh
.
72.
Đã
thanh
trừ
và
làm
sạch
mọi
xấu
xa.
73.
Thiền
na:
chữ
Phạn
dhyàna,
dịch
là
thiền
định,
một
hình
thức
tư
duy
tập
trung;
chỉn
:
chỉ,
chắc
chắn
74.
Đầu
đà:
phiên
chữ
Phạn
dùta,
nghĩa
là
rũ
bỏ,
người
tu
hạnh
này
nhằm
rũ
bỏ
tất
cả
mọi
tham
đắm
phiền
não
chi
phối
như
xin
ăn
và
chỉ
ăn
một
ngày
một
bữa
nơi
mồ
mả,
gốc
cây,
thường
ngồi,
không
nằm,
mặc
áo
do
giẻ
rách
may
lại…
75.
Lòng
đã
không
còn
tham
đắm,
trở
nên
biết
đủ
.
76.
Năm
mươi
lăm
phẩm
:
những
giai
đoạn
tu
hành
của
một
người
Phật
giáo
mười
bậc
của
giai
đoạn
niềm
tin
(thập
tín)
,
mười
bậc
của
giai
đoạn
thực
hành
(thập
hạnh),
mười
bậc
của
giai
đoạn
củng
cố
niềm
tin
(thập
trụ),
mười
bậc
của
giai
đoạn
hướng
về
kẻ
khác
(thập
hồi
hướng),
mười
bậc
của
giai
đoạn
đạt
đích
(thập
địa)
cộng
với
hai
bậc
Đẳng
giác
và
Diệu
giác.
Vậy
trong
quá
trình
tiến
lên
giác
ngộ
hoàn
toàn
thông
thường
có
cả
thảy
năm
mươi
hai
bậc.
Nhưng
tùy
quan
điểm
của
từng
trường
phái,
người
ta
thường
chia
hai
bậc
cuối
thành
ba,
bốn,
năm
hay
sáu
bậc.
Quan
điểm
của
Hương
Hải
đây
chia
Đẳng
giác,
Diệu
giác
làm
năm
bậc
nên
có
năm
mươi
lăm
bậc
.
77.
Tam
muội
hoả:
lửa
tam
muội.
Tam
muội
do
phiên
âm
chữ
Phạn
Samàdhi,
có
nghĩa
là
tập
trung
tư
tưởng.
Một
quan
niệm
cho
rằng
khi
tập
trung
tư
tưởng
người
ta
có
thể
biến
đổi
nó
thành
một
thứ
lửa
có
thể
đốt
cả
phiền
não.
78.
Tam
hiền
thập
thánh:
những
người
ở
vào
ba
giai
đoạn
củng
cố,
thực
hành
và
hướng
về
kẻ
khác
thì
gọi
ba
hiền,
còn
những
người
ở
vào
mười
bậc
của
giai
đoạn
đạt
đích
thì
gọi
là
thập
thánh.
Ý
cả
hai
câu
nói
những
vị
sáng
suốt
thảnh
thơi
ở
cõi
trời,
cõi
người
thì
có
thể
thẳng
tiến
đến
địa
vị
ba
hiền
mười
thánh
.
79.
-nt-
80.
Sống
trong
cảnh
núi
rừng
hoang
dã
tuy
nhiều
nhưng
quan
trọng
phải
đạt
được
giác
ngộ
mới
tốt.
81.
-nt-
82.
Hai
mươi
lăm
cửa
để
hiểu
biết
tròn
đầy
về
sự
thực.
Kinh
Lăng
Nghiêm
nói
gồm
sự
hiểu
biết
về
6
trần,
6
đối
tượng,
6
giác
quan,
6
ý
thức
và
7
đại
(đất,
nước,
gió,
lửa,
không
gian,
thời
gian
và
ý
thức)
cộng
lại
thành
25
viên
thông
.
83.
Khi
đã
hiểu
biết
sự
thực
thì
không
còn
ngại
chi
nữa
.
84.
Ưu
đàm
hoa
:
tên
một
loại
hoa
ở
AᮠĐộ,
tương
truyền
3
ngàn
năm
mới
nở
một
lần,
tiếng
Phạn
dịch
Udumbara.
85.
Nhân
duyên
đại
sự:
bốn
chữ
này
lấy
ý
từ
câu:"Ta
vì
một
đại
sự
nhân
duyên
mà
ra
đời
là
mở
bày
cho
chúng
sinh
con
đường
đi
vào
tri
kiến
của
chư
Phật"
của
kinh
Pháp
Hoa.
Nên
đại
sự
nhân
duyên
ở
đây
ý
chỉ
ra
hoá
độ
chúng
sinh
.
86.
Kẹp
non
nhảy
biển
:
chữ
lấy
từ
câu:"Kẹp
Thái
sơn
mà
nhảy
qua
biển
Bắc"
của
Mạnh
tử
để
chỉ
những
hành
động
khó
làm.
87.
Ba
la
mật:
phiên
âm
chữ
Phạn
Pàramità,
có
nghĩa
là
vượt
bến
tới
bờ
bên
kia.
Đây
chỉ
cho
sáu
loại
hành
động
tức
bố
thí,
trì
giới,
nhẫn
nhục,
tinh
tấn,
thiền
định,
và
trí
tuệ
để
đạt
tới
ba
không
hay
ba
giải
thoát
là
không,
vô
tướng
và
vô
nguyện
.
88.
Viên
giác:
nguyên
là
tên
gọi
tắt
của
một
quyển
kinh
mang
tên
Đại
phương
quảng
viên
giác
tu
đa
la
liễu
nghĩa
kinh.
Có
nội
dung
nói
lên
tính
tuyệt
đối
của
chân
lý,
không
thể
dùng
ngôn
từ
để
diễn
tả
trọn
vẹn
được
nên
nói
lòng
viên
giác
là
chân
lý
chỉ
có
thể
nhập
mà
không
thể
diễn
tả
trọn
vẹn
và
bấy
giờ
người
ta
ở
vào
thế
giới
hoa
nghiêm.
Vì
vậy
còn
gọi
tính
đồng
hoa
nghiêm;
Hoa
nghiêm
:
tên
1
bộ
kinh
gọi
đủ
là
Đại
phương
quảng
Phật
hoa
nghiêm
kinh.
Nêu
lên
quan
điểm
một
là
tất
cả,
tất
cả
là
một.
Do
đó
một
người
khi
đã
giác
ngộ
thì
thể
nhập
bao
trùm
cả
thế
giới
.
89.
Cao
nhân:
người
đã
đạt
đạo.
90.
Thanh
trần
hủy
dự
:
tiếng
tăm
khen
chê.
91.
Ý
cả
hai
câu
nói
khi
đã
giác
ngộ
thì
nghe
nửa
câu
kinh,
nửa
câukệ
cũng
đủ,
không
cần
phải
dài
dòng
văn
tự
nói
năng
(danh
ngôn).
92.
-nt-
93.
Thế
giới
và
vũ
trụ
thâu
vào
một
cái
bầu.
Chỉ
thích
Thi
Tồn
đời
Lỗ
có
cái
bầu
chứa
đủ
cả
trời
đất
vũ
trụ.
Ý
nói
qui
luật
vũ
trụ
chưa
từng
thay
đổi
.
94.
-nt-
95.
Linh
đài:
đài
thiêng,
chỉ
cho
lòng
sáng
suốt
giác
ngộ
của
con
người.
Ý
chỉ
khi
lòng
người
đã
sáng
suốt
như
mặt
trời
thì
sự
giác
ngộ
hoàn
toàn
viên
mãn
.
96.
A孠quang:
phiên
âm
chữ
Phạn
Kasyapa
(Ca
Diếp)
tên
một
vị
đại
đệ
tử
của
đức
Phật.
Đây
chỉ
tích
Ca
Diếp
hiểu
được
ý
nghĩa
của
việc
Phật
cầm
cành
hoa
đưa
lên
trong
chúng
hội
Linh
Sơn.
Từ
đó
thiền
tôn
bắt
đầu
và
sau
này
cũng
chính
ý
nghĩa
đó
chi
phối
sự
giác
ngộ
của
những
người
đi
sau
.
97.
Khi
những
đầu
giây
mối
nhợ
của
phiền
não
đã
rũ
sạch
thì
những
đức
tính
giác
ngộ
phát
triển
thì
cần
gì
phải
lo
các
vọng
niệm
phát
sinh.
98.
Tam
tạng:
ba
tạng,
chỉ
kinh
điển
Phật
giáo
gồm
tạng
Kinh,
tạng
Luật
và
tạng
Luận,
mười
hai
bộ
kinh:
mười
hai
loại
hình
kinh
sách
Phật
giáo
gồm:
Trường
hàng,
Trùng
tụng,
Cô
khởi,
Thí
dụ,
Nhân
duyên,
Tự
thuyết,
Bản
sinh,
Bản
sự,
Vị
tằng
hữu,
Phương
quảng,
Luận
nghị,
Ký
biệt
99.
Kinh
điển
Phật
giáo
hình
thành
là
do
sự
giác
ngộ
được
tâm
là
gì,
chứ
không
phải
nhằm
phản
ảnh
những
sự
thật
tầm
thường
.
100.
Vì
có
nhân
trong
nhiều
kiếp,
nên
việc
tu
hành
giống
như
thức
dậy
trong
một
giấc
mộng.
101.
Mười
tám
cõi:
mười
tám
lĩnh
vực
hoạt
động
của
một
chủ
thể,
gồm
sáu
giác
quan
(mắt,
tai,
mũi,
lưỡi,
thân
và
ý),
sáu
đối
tượng
của
chúng
(sắc,
thanh,
hương,
vị,
xúc
và
pháp),
và
sáu
nhận
thức
(nhãn
thức,
nhĩ
thức,
tỉ
thức,
thiệt
thức,
thân
thức
và
ý
thức).
Khi
mười
tám
lãnh
vực
hoạt
động
này
đầy
đủ
sáng
suốt,
thì
chủ
thể
(căn)
và
đối
tượng
(trần)
đã
thanh
tịnh,
thì
người
ta
giải
thoát
.
102.
Thiền
tử:
người
thực
hành
thiền
103.
Khi
đã
hiểu
rõ
lý
thuyết,
thực
hành
phải
duy
trì
sự
tiến
hành
đều
đặn
từng
bước.
104.
Nhẫn
phù
yên
tâm:
đến
khi
đã
giác
ngộ.
105.
Chuyển
nhập
chuyển
thâm:
đi
vào
càng
sâu.
106.
Mựa:
chớ,
một
từ
xưa.
107.
Cơ
hội
giác
ngộ
thiền
nằm
nơi
thiền
định
và
trí
tuệ.
108.
Ân
thù:
người
làm
ơn,
kẻ
gây
oán.
109.
Hà
đảm:
gánh
vác.
110.
Nhân
ngã:
người
và
ta,
mạn
nghi:
kiêu
căng
và
nghi
ngờ.
Ý
nói
phá
vỡ
hàng
rào
chia
cách
ta
và
người,
xoá
sạch
bức
thành
kiêu
căng
và
nghi
ngờ
.
111.
Thanh
trần:
tiếng
tăm,
ý
cả
câu
nói
mọi
tiếng
tăm
đều
gác
hết
qua
một
bên,
không
để
ý
đến.
112.
Giữ
những
ràng
buộc
về
thân,
miệng
và
ý
cho
mình
được
trong
sạch
.
113.
Phen
đòi
:
sánh
với.
114.
Bả
bô
:
loại
vải
xấu.
115.
Tùy
theo
cơ
duyên
bản
thân
hoàn
cảnh
từng
người
dùng
ân
uy
để
chiết
phục
hay
tiếp
đãi
họ.
116.
Ý
cả
câu
nói
giúp
đỡ
sự
nghiệp
phát
triển
Phật
giáo.
117.
Minh
cảnh
:
gương
sáng.
HẾT