TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
PHẦN
HAI
CÁC
TÁC
PHẨM
--o0o--
GIỚI
THIỆU
HƯƠNG
HẢI
THIỀN
SƯ
NGỮ
LỤC
Đúng
ra
trong
Minh
Châu
Hương
Hải
toàn
tập
này,
chúng
tôi
không
đưa
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
vào,
bởi
vì,
tự
bản
thân,
nó
không
phải
là
một
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải.
Tuy
nhiên,
những
gì
ta
biết
ngày
nay
về
Minh
Châu
Hương
Hải,
thậm
chí
những
hiểu
biết
sai
lầm
về
thơ
văn
mà
từ
thời
Lê
Quý
Đôn
trở
đi
đã
gặp
phải,
đều
xuất
phát
từ
tác
phẩm
ấy.
Do
thế
chúng
tôi
đề
nghị
cho
sơ
bộ
tìm
hiểu
và
dịch
lại
toàn
bộ
văn
bản
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
để
làm
tài
liệu
nghiên
cứu
cho
những
ai
quan
tâm
đến
Minh
Châu
Hương
Hải
.
I.TÌNH
TRẠNG
VĂN
BẢN
Bản
chúng
ta
hiện
có
ngày
nay
là
bản
in
năm
Cảnh
Hưng
thứ
8,
Đinh
Mão
(1747)
khổ
27*17,
gồm
46
tờ,
mỗi
tờ
2
trang
a
và
b,
mỗi
trang
7
dòng,
mỗi
dòng
32
chữ,
trừ
những
dòng
có
in
thơ
thì
số
chữ
ít
hơn,
mỗi
dòng
có
thể
từ
10
đến
14
chữ
tùy
theo
thể
thơ.
Chữ
khắc
đẹp,
rõ
nét,
dễ
đọc,
bản
chúng
tôi
hiện
sở
hữu
sau
tờ
1
chép
bài
tựa,
thì
tờ
2
đã
rách
mất
hoàn
toàn.
Tờ
cuối
cùng
là
tờ
46
nhưng
căn
cứ
văn
mạch
thì
chắc
chắn
phải
còn
thêm
một
vài
tờ
nữa,
điều
này
có
nghĩa
tình
trạng
nguyên
bản
nó
không
phải
chỉ
có
46
tờ
như
tahiện
sở
hữu
mà
phải
có
số
tờ
hơn
thế,
suy
nghĩ
này
của
chúng
tôi
là
hoàn
toàn
xác
đáng
vì
chúng
tôi
có
một
bản
chép
tay,
không
biết
do
ai
chép
và
chép
vào
lúc
nào,
có
số
tờ
dòng
y
như
bản
in
nghĩa
là
tờ
thứ
2
vẫn
bị
rách
mất,
nhưng
tờ
cuối
cùng
thì
sau
tờ
46
lại
có
trang
a
của
tờ
47
và
chép
nối
thêm
một
đoạn
ghi
việc
thượng
tọa
phương
trượng
đại
hoà
thượng
dựng
tháp
và
cúng
k?inh
Châu
Hương
Hải,
trang
này
còn
chép
thêm
việc
vào
mùa
đông
năm
Dần
(có
thể
là
năm
giáp
Dần
1734)
thượng
tọa
phương
trượng
đã
tham
dự
vào
việc
khảo
thí
chư
tăng.
Ai
đứng
in
bản
in
này
ta
không
thấy
ghi
rõ
tên
tuổi,
chỉ
ghi
một
cách
mơ
hồ
là
tự
pháp
soạn
thuật,
căn
cứ
vào
bản
danh
sách
những
người
tự
pháp
ghi
ở
tờ
21a3-4
thì
có
khả
năng
thiền
sư
Chân
Lý
Hiển
Mật,
người
được
nhà
nước
thời
bấy
giờ
ban
tặng
cho
mỹ
hiệu
Viên
Thông
phương
trượng
đại
hoà
thượng,
đứng
ra
thực
hiện.
Chân
lý
Hiển
Mật
đứng
ra
in
bản
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
này
thì
cũng
đúng
thôi,
bởi
vì
ông
là
vị
đệ
tử
đầu
tay
của
Minh
Châu
Hương
Hải.
Song
lời
tựa
viết
cho
lần
in
này
có
nội
dung
quá
tổng
quát,
hâù
như
không
đề
cập
gì
đến
Minh
Châu
Hương
Hải,
nó
chỉ
nói
tới
Phật
giáo
bắt
nguồn
từ
A?
độ
rồi
truyền
qua
Trung
quốc
vào
thời
Hán
Minh
đế,
rồi
tới
nước
ta
mà
thỉ
tổ
theo
nó
là
Tuệ
Trung,
rồi
các
vua
Trần
như
Trần
Nhân
Tông
v.v…mà
không
có
bất
cứ
một
câu
nói
xa
gần
gì
đến
vị
thầy
của
mình
.
Tuy
nhiên,
nếu
đọc
kỹ
hơn
chính
nội
dung
của
Hương
Hải
thiền
sư
Ngữ
lục,
ta
thấy
từ
hàng
chữ
Như
trở
xuống,
và
đặc
biệt
là
từ
hàng
chữ
Tính
và
chữ
Hải,
các
môn
đồ
cháu
chắt
của
Minh
Châu
Hương
Hải
mới
có
ghi
việc
cúng
bảng
gỗ
hoặc
cúng
tiền
để
khắc
kinh,
còn
hàng
chữ
Chân
trở
lên
thì
không
thấy
ghi
có
ai
cúng
gì
cả.
Điều
này
có
nghĩa
các
đệ
tử
có
tên
tuổi
vào
hàng
chữ
Chân
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đến
thời
điểm
in
bản
ngữ
lục
này,
tức
năm
Cảnh
Hưng
thứ
8
Đinh
mão
(1747)
đã
viên
tịch,
nên
đã
không
tham
gia
vào
việc
hỗ
trợ
việc
in
khắc,
thực
tế
ngay
đối
với
hàng
chữ
Như
thì
trong
số
24
người
được
ghi
trên,
chỉ
thấy
ghi
6
người
có
cúng
bảng
gỗ.
Đến
hàng
chữ
Tính
có
25
người
thì
có
đến
14
người
cúng
bảng
gỗ
hoặc
tiền,
đến
hàng
chữ
Hải
thì
hầu
hết
môn
đồ
đều
có
cúng
bảng
gỗ.
Nói
khác
đi,
khi
khắc
ván
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
thì
chủ
yếu
thuộc
lớp
môn
đồ
còn
sống
thuộc
về
chữ
Như,
chữ
Tính
và
chữ
Hải
.
Vậy
người
viết
bài
tựa
và
đứng
ra
in
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
phải
là
Như
Nguyệt
Hoa
Quang,
hơn
là
Chân
Lý
Hiển
Mật,
mà
vào
lúc
này
(tức
năm
1747)
đã
viên
tịch.
Chứng
cớ
cho
một
kết
luận
như
thế
nằm
ngay
trong
một
nội
dung
của
chính
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục.
Ơ?ờ
15b4-5
phần
5
về
Dẫn
xuất
trụ
trì
khai
sáng
Nguyệt
Đường
tự
ký,
khi
mô
tả
về
qui
mô
chùa
Nguyệt
Đường,
nó
ghi
nhận
"có
bảo
tháp
tổ
sư
bên
trái
cao
21
thước,
lại
có
bảo
tháp
tôn
sư
bên
phải
cao
25
thước,
hai
tháp
đều
có
sư
tử
hai
bên
bằng
đá".
Hai
từ
tổ
sư
và
tôn
sư
dùng
ở
đây
chỉ
cho
ai?
Rõ
ràng
chúng
không
thể
chỉ
ai
khác
hơn
là
Minh
Châu
Hương
Hải
và
Chân
Lý
Hiển
Mật,
bởi
vì
sách
đó
thường
dùng
chữ
tổ
sư
để
chỉ
cho
Minh
Châu
Hương
Hải,
nên
tôn
sư
không
thể
chỉ
ai
ngoài
Chân
Lý
Hiển
Mật
được.
Nói
khác
đi,
Chân
Lý
đã
viên
tịch
và
được
xây
bảo
tháp,
khi
in
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
để
có
thể
ghi
lại.
điều
này
có
nghĩa
Chân
Lý
đã
mất
vào
trước
năm
1747
.
Về
tên
gọi
bản
in
mà
chúng
tôi
sở
hữu,
trang
bìa
đã
mất
nên
không
biết
từ
nguyên
ủy
có
nhan
đề
làgì.
Tuy
nhiên
trên
gáy
sách
của
tất
cả
các
trang
đều
ghi
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
do
thế,
ta
có
thể
nói
tác
phẩm
của
lần
in
này
có
nhan
đề
ấy
.
II.VỀ
TÁC
GIẢ
VÀ
NIÊN
ĐẠI
Bản
in
chúng
ta
hiện
có
vì
trang
đầu
và
những
trang
cuối
đều
mất,
nên
ta
không
biết
trong
lần
in
năm
1747
này
có
ghi
tên
ai
là
tác
giả
của
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
hay
không.
Dẫu
thế
căn
cứ
vào
cuối
lời
tựa
ghi
là
tự
pháp
sọan
thuật
thì
có
khả
năng
bài
tựa
này
phải
là
hoặc
do
Chân
Lý
Hiển
Mật,
hoặc
do
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
viết.
Chúng
ta
giả
thiết
có
thể
là
do
Chân
Lý
Hiển
Mật
bởi
vì
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải
hiện
tìm
thấy,
tất
cả
đều
ghi
là
do
Chân
Lý
soạn
thuật
như
Giải
Kim
Cang
kinh
lý
nghĩa,
hay
không
thuật
như
Giải
Di
Đà
kinh
và
Giải
Tâm
kinh
ngũ
chỉ.
Dù
vậy,
vì
việc
cúng
bảng
gỗ
và
tiền
cho
việc
in
khắc
Hương
hải
thiền
sư
ngữ
lục
lại
thuộc
lớp
môn
đồ
có
pháp
danh
bắt
đầu
với
chữ
Như
trở
đi,
nên
ta
có
thể
nghĩ
hai
chữ
tự
pháp
ghi
trong
lời
tựa
không
phải
chỉ
Chân
Lý
Hiển
Mật,
mà
thực
tế
nó
chỉ
Như
Nguyệt
Hoa
Quang,
người
đã
kế
thừa
Minh
Châu
Hương
Hải
và
Chân
Lý
Hiển
Mật
để
làm
trụ
trì
chùa
Nguyệt
Đường.
Vì
vậy,khi
ghi
tự
pháp
soạn
thuật
mà
không
ghi
rõ
tên,
pháp
danh
hay
pháp
tự,
điều
này
có
nghĩa
ai
cũng
biến
pháp
tự
của
Minh
Châu
Hương
Hải
là
ai,
nên
mới
không
cần
ghi
rõ
như
thế,
đây
là
lý
do
thứ
hai
để
cho
phép
ta
nghĩ
rằng
người
đứng
ra
viết
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
không
ai
khác
hơn
là
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
.
Dù
là
Chân
Lý
Hiển
Mật
hay
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
đã
viết
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
thì
điều
đáng
tiếc
là
lai
lịch
và
tiểu
sử
của
hai
vị
thiền
sư
này
ngày
nay
vẫn
chưa
được
làm
sáng
tỏ.
Về
Chân
Lý
Hiển
Mật,
hiện
tại
ngôi
tháp
cổ
của
ông
đã
được
tìm
thấy,
và
bên
ngoài
chỉ
đề
Phương
trượng
tháp,
còn
bên
trong
thì
có
tấm
bia
chỉ
có
một
dòng
khắc
tên
đạo
của
ông
mà
thôi.
Trong
Giải
Tâm
kinh
ngũ
chỉ
có
ghi
một
tên
khác
của
Chân
Lý
Hiển
Mật,
đó
là
Chân
Lý
Nhân
Triều,
vậy
thì
ngoài
pháp
tự
Hiển
Mật,
Chân
Lý
còn
có
tên
là
Nhân
Triều.
Trong
Giải
Kim
cương
kinh
lý
nghĩa
có
ghi
thêm
chức
vụ
tăng
thống
của
Chân
Lý,
tức
Sa
môn
tăng
thống
tự
Chân
Lý
soạn
thuật.
Đấy
là
tất
cả
những
gì
chúng
ta
hiện
biết
về
người
cao
đệ
này
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
người
đã
giữ
trách
nhiệm
truyền
lại
cho
chúng
ta
bản
thích
giải
bằng
tiếng
Việt
hiện
có.
Còn
về
niên
đại,
thì
vì
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
in
vào
năm
1747
ta
không
thể
chắc
chắn
ông
đã
sống
tới
những
năm
đó
vì
đã
gần
cả
trăm
tuổi,
do
việc
có
khả
năng
ông
là
một
trong
những
người
đã
theo
Hương
Hải
từ
miền
Nam
vượt
biển
ra
Bắc
vào
năm
1682.
Dựa
vào
sự
kiện
ông
đã
soạn
thuật,
tức
biên
chép
lại
những
lời
giảng
của
Minh
Châu
Hương
Hải
ta
có
thể
giả
thuyết
ông
là
người
tương
đối
có
kiến
thức
rộng
rãi
về
chữ
Hán
và
chữ
Nôm.
Chỉ
có
điều
nếu
ông
có
một
kiến
thức
chữ
nghĩa
rộng
rãi
cỡ
đó,
tại
sao
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
lại
gồm
một
số
thơ
kệ
và
trích
văn
của
những
thiền
sư
Trung
quốc
và
gắn
lên
tên
tuổi
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
để
ngày
hôm
nay
ta
phải
tốn
công
sưu
tra
về
xuất
xứ
của
chúng,
thế
đã
rõ,
không
có
việc
Chân
Lý
Hiển
Mật
tham
gia
vào
việc
viết
hay
in
tác
phẩm
ấy
.
Dù
ở
trường
hợp
nào,
thì
ta
không
thể
nghĩ
Chân
Lý
Hiển
Mật
đã
sống
tới
những
năm
đó,
tức
năm
1747.
Ngược
lại,
nếu
giả
thiết
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
viết
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
thì
điều
này
có
khả
năng
hơn
nhiều.
Bởi
vì
Kiến
văn
tiểu
lục
9
tờ
33b3-34a4
của
Lê
quý
Đôn
có
chép
về
chuyện
lạ
trong
việc
mở
rộng
chùa
Nguyệt
Đường
vào
năm
1724-1725
liên
quan
đến
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
nhưng
không
ghi
Như
Nguyệt
lúc
ấy
đã
mất
hay
chưa.
Ta
biết
Lê
Quý
Đôn
viết
Kiến
văn
tiểu
lục
xong
vào
năm
Cảnh
Hưng
thứ
38,
Đinh
dậu
(1777).
Nhưng
tác
phẩm
này
là
một
tích
lũy
lâu
dài
những
tư
liệu
trước
đó.
cho
nên
những
ghi
chép
về
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
có
thể
được
ông
thực
hiện
vào
những
năm
1747,
năm
in
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
dẫu
sao
về
Như
Nguyệt
Hoa
Quang
ta
cũng
không
có
những
chi
tiết
gì
cụ
thể
hơn
ngoài
những
thông
tin
vừa
nêu
trên
.
III.PHÂN
TÍCH
NỘI
DUNG
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
hiện
nay
ngoài
bài
tựa
ra,
nội
dung
được
chia
làm
bảy
phần
với
những
đề
mục
như
sau
:
-(Đã
mất)
-(Đã
mất)
-Thừa
dẫn
kiến,
Quảng
chúa
thích
sàm,
truyền
sư
hồi
bản
quán
cựu
xứ
ký
đệ
tam
-Xuất
ngoại
cảnh,
cận
trấn
sở
kiến
Thiền
tịnh
viện
k#273;ệ
tứ
.
-Xuất
trú
trì
khai
sáng
Nguyệt
đường
tự
ký
đệ
ngũ
-Khai
thị
ngộ
nhập
đắc
lương
duyên,
truyền
thọ
ấn
chứng
ký
đệ
lục
.
-Tổ
sư
đương
bát
thập
bát,
chúc
niết
bàn
ký
đệ
thất
.
Đó
là
sự
phân
chia
nội
dung
của
chính
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
vì
tờ
2
bị
mất
nên
nhan
đề
của
hai
phần
đầu
ngày
nay
ta
không
biết
có
tên
thế
nào,
năm
phần
còn
lại
có
tên
như
đã
ghi.
Không
biết
sau
phần
bảy
còn
có
phần
nào
nữa
không,
vì
bản
in
chúng
tôi
sở
hữu
sau
tờ
46
không
còn
một
tờ
nào
nữa.
riêng
bản
chép
tay
thì
cũng
chỉ
còn
được
một
mặt
a
và
không
có
dâú
hiệu
gì
giúp
ta
giả
thiết
còn
một
phần
nào
nữa.
Dù
bị
thất
thoát
một
số
tờ
như
thế,
nội
dung
của
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
tương
đối
đầy
đủ
và
phong
phú
hơn,
so
với
bất
cứ
một
bản
tiểu
sử
các
thiền
sư
nào
mà
ta
hiện
biết
như
Từ
quang
tự
sa
môn
Pháp
Chuyên
Luật
Truyền
Diệu
Nghiêm
thiền
sư
nhân
do
sự
tích
chí
.
Dẫu
hai
phần
đầu
bị
mất,
song
nhờ
Lê
Quý
Đôn
có
tóm
tắt
lại
trong
Kiến
văn
tiểu
lục
9
tờ
21b3-22a6,
ta
biết
tương
đối
khá
rõ
lai
lịch
gia
đình
của
Minh
Châu
Hương
Hải
và
giai
đoạn
đầu
cuộc
đời
tu
hành
của
ông.
Đây
là
2
phần
nói
về
Hương
Hải
có
tổ
tiên
là
Hùng
quận
công,
người
hương
A?g
Độ,
huyện
Nghi
Lộc
tỉnh
Nghệ
An
ngày
nay.
Thiền
sư
thông
minh
từ
bé,
năm
18
tuổi
đã
đỗ
hương
tiến,
được
bổ
làm
tri
phủ
Triệu
Phong,
năm
sư
25
tuổi
tức
năm
1652
đến
thụ
giáo
với
thiền
sư
Lục
Hồ
Viên
Cảnh
và
được
pháp
danh
là
Minh
Châu
Hương
Hải,
pháp
hiệu
là
Huyền
Cơ
Thiện
Giác,
sau
đó
lại
đến
tham
học
tiếp
với
thiền
sư
Đại
Thâm
Viên
Khoan,
rồi
thì
từ
quan
và
đi
xuất
gia,
vượt
biển
đến
Cù
lao
Chàm,
xưa
gọi
là
Tiêm
Bút
la,
dựng
am
tu
hành.
Ma
quỷ
đến
phá
nhưng
sư
vẫn
kiên
trì
không
thay
đổi.
Phần
tờ
1
bị
mất
có
lẽ
có
nội
dung
như
Lê
Quý
Đôn
đã
ghi
mà
ta
vừa
tóm
tắt,
những
biến
cố
còn
lại
của
phần
2,
tức
các
tờ
3,4,
5,
6
và
7
trong
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
Lê
Quý
Đôn
cũng
tóm
tắt
lại
trong
Kiến
văn
tiểu
lục
tương
đối
trung
thành,
chỉ
loại
bớt
những
câu
và
chữ
không
cần
thiết.
Những
biến
cố
ấy
được
mô
tả
như
vào
một
đêm
lúc
canh
hai,
môn
đồ
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
thấy
ma
hiện
đến
đứng
giữa
sân,
rồi
canh
ba
thấy
có
rắn
lớn
đi
quanh
thân
thể
của
sư,
tiếp
theo
những
sự
việc
như
đang
giữa
ban
ngày
mà
mây
đen
kéo
mịt,
gió
lớn
nổi
lên.
Ban
đêm
nghe
tiếng
hằng
muôn
con
mèo
kêu
khắp
rừng,
ma
quỷ
lại
hiện
đến,
Sư
nhờ
trì
chú
niệm
kinh
mà
ma
cảnh
đều
biến
mất.
Sau
đó
sư
nghĩ
đến
việc
trở
lại
quê
mình
ở
xã
Bình
An
Thượng,
phủ
Thăng
Hoa,
xứ
Quảng
Nam,
nhưng
mới
về
được
hơn
10
ngày
thì
có
người
Mán
đến
thỉnh
cầu
sư
trở
lại
am
cũ,
sư
đồng
ý
và
trở
lại
đảo
Tiêm
bút
la.
Ở
được
8
năm,
tiếng
tăm
sư
nổi
lên
cả
nước.
quan
trấn
thủ
Quảng
Nam
là
Thuần
quận
công
có
vợ
đau
lâu
ngày
không
bớt,
nhờ
sư
đọc
chú
trì
kinh
thì
bệnh
vừa
thuyên
giảm,
tiếng
lành
đồn
xa,
bạn
của
Thuần
quận
công
là
Hoa
Lễ
Hầu
cũng
lâm
bệnh
đã
3
năm,
lại
nhờ
sư
tụng
kinh
trì
chú
chữa
khỏi,
chỉ
trong
10
ngày
"thân
thể
tráng
kiện
như
xưa".
Rồi
thông
qua
Hoa
Lễ
Hầu,
Dũng
quận
công
Nguyễn
Phúc
Tần
(1648-1687)
đã
mời
tới
Huế
giúp
nước,
cho
ở
tại
viện
Thiền
tịnh,
núi
Qui
Thái.
Mẹ
của
Dũng
quận
công
đã
quy
y
với
sư
cùng
3
người
con
là
Nguyễn
Phúc
Mỹ,
Nguyễn
Hiệp
Đức
và
Nguyễn
Phúc
Tộ,
đoạn
này
Lê
Quý
Đôn
tóm
tắt
hoàn
toàn
thống
nhất
với
những
gì
vừa
ghi
ở
trên
.
Qua
đến
phần
3
kể
lại
việc
thừa
lệnh
dẫn
gặp
chúa
Hiền,
tức
Nguyễn
Phúc
Tần
và
việc
chúa
Hiền
nghe
những
lời
sàm
tấu
đã
buộc
sư
trở
về
lại
Quảng
Nam,
từ
đó
sư
có
ý
định
trở
ra
miền
Bắc,
ấy
là
vào
tháng
3
năm
Nhâm
tuất
(1682).
Đến
Vinh
ông
gặp
Yến
quận
công
Trịnh
Điềm,
sau
khi
điều
tra
sơ
bộ,
do
lệnh
của
Trịnh
Tạc
(1653-1682)
đã
chuyển
về
Đông
đô
giao
cho
Lê
Hy
điều
tra
thêm.
Sau
khi
đã
xác
minh
đúng
đắn
sự
việc,
bèn
cấp
tiền
lương
cho
sư
và
cuối
cùng
cho
về
ở
tại
trấn
Sơn
Nam
do
Tước
quận
công
Lê
Đình
Kiên
quản
lý,
ấy
là
lúc
sư
đã
55
tuổi
.
Phần
thứ
4
viết
lại
chuyện
dựng
Thiền
tịnh
viện
để
thờ
Phật
tụng
kinh.
Chính
trong
phần
này
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
đã
ghi
tên
20
tác
phẩm
mà
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
thích
giải
bằng
tiếng
Việt
cùng
các
khoa
nghi
cúng
Phật
và
cúng
Dược
Sư
.
Phần
5
mô
tả
việc
sư
xây
dựng
chùa
Nguyệt
Đường
vào
năm
Canh
Thìn
(1697),
lúc
ông
đã
70
tuổi.
Chùa
này
do
cung
tần
Nguyễn
thị
Ngọc
Hân
dựng
và
mời
sư
đến
trú
trì
và
trùng
tu
lại.
Chùa
gồm
có
thượng
điện
3
gian
2
chái,
thờ
9
pho
tượng
tam
thế
toàn
bằng
vàng
và
một
số
các
tượng
khác
như
tượng
Tứ
Đại
Thiên
Vương.
Rồi
dựng
lại
tiền
đường
hai
toà
mỗi
toà
5
gian
thờ
tượng
Địa
Tạng
và
tượng
Di
Lặc
và
một
tượng
Tề
Thiên
Đại
Thánh
cùng
hai
tướng
Hộ
Pháp.
Tiếp
theo
dựng
lại
hậu
đường
gồm
2
toà
mỗi
toà
5
gian
có
thờ
tượng
18
La
Hán
và
tượng
Chuẩn
Đề
3
mắt
18
tay
và
một
số
tượng
khác
nữa.
Rồi
có
tả
vu
hữu
lang
xây
bằng
gạch
có
9
gian
treo
các
tượng
Phật
và
Bồ
tát,
bên
ngoài
chùa
có
đài
Cửu
phẩm
liên
hoa
và
các
tượng
Hộ
pháp,
rồi
phía
đông
bắc
có
nhà
bếp,
tây
nam
có
tàng
kinh
các,
rồi
các
tăng
phòng
gồm
7
toà
vây
bọc,
lại
có
tổ
đường
và
vùng
bảo
tháp
của
tổ
sư
và
tôn
sư.
Phía
trước
lộ
có
tam
quan,
bên
trái
có
lầu
chuông,
trên
treo
đại
hồng
chung
cỡ
nhỏ,
và
dưới
treo
đại
hồng
chung
cỡ
lớn.
Bên
phải
có
lầu
trống,
toàn
cảnh
chùa
đều
trồng
cây
cỏ
và
hoa
đẹp.
Chính
tại
ngôi
chùa
này
Lê
Dụ
Tông
đã
mời
sư
lập
đàn
cầu
thai,
và
cũng
ở
đây
Lê
Dụ
Tông
đã
hỏi
sư
về
thiền
lý
mà
câu
nổi
tiếng
thường
hay
được
trích
dẫn
đó
là
:"Ý
Phật
và
ý
tổ
là
như
thế
nào",
để
trả
lời
sư
dùng
lại
bài
thơ
"Nhạn
quá
trường
không"
của
Thiên
Y
Nghĩa
Hoài.
Lúc
này
tức
năm
Giáp
ngọ
(1714),
sư
đã
87
tuổi.
Trịnh
Cương
đã
tặng
cho
sư
bài
thơ
Nôm,
và
Đặng
Đình
Tướng
cũng
đã
đến
thăm
chùa
và
tặng
thơ
bằng
chữ
Nho
cùng
bài
thơ
đáp
lại
của
sư
mà
ta
đã
dẫn
trên.
Cũng
trong
phần
này
đã
ghi
lại
cuộc
tranh
luận
của
sư
với
ba
Giáo
sĩ
Thiên
chúa
giáo
do
Đặng
Đình
Tướng
tổ
chức
và
kết
quả
là
có
lệnh
cấm
đạo
.
Phần
6
ghi
lại
tên
tuổi
các
môn
đồ
và
pháp
phái
của
sư
gồm
một
danh
sách
gần
100
người,
cùng
một
loạt
các
bài
thơ
kệ
và
trích
văn,
tương
truyền
là
do
sư
"nhàn
đàm
thị
chúng".
Nhưng
hầu
như
toàn
bộ
thơ
văn
này
là
các
trích
dẫn
từ
các
tác
phẩm
thiền
tông
Trung
quốc,
như
chúng
tôi
đã
chứng
minh
trong
phần
nghiên
cứu
cuộc
đời
và
sự
nghiệp
của
Minh
Châu
Hương
Hải
ở
trên
.
Phần
7
ghi
lại
những
lời
trăn
trối
vào
những
ngày
cuối
cùng
của
sư,
và
đến
ngày
12
tháng
năm
A?
mùi
(1715)
vào
khoảng
2
giờ
chiều,
sư
đã
mất
sau
khi
đã
viết
bài
kệ
phú
chúc
.
Trên
đây
là
tóm
tắt
ngắn
ngủi
về
nội
dung
của
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục.
Nội
dung
này
có
chứa
đựng
những
thiếu
sót,
như
việc
chép
các
thơ
văn
của
các
thiền
sư
Trung
quốc
vào
cho
Minh
Châu
Hương
Hải.
Những
lẫn
lộn
về
thơ
văn
này,
chúng
tôi
đã
cho
nghiên
cứu
kỹ
ở
phần
trên
trong
liên
hệ
với
vấn
đề
tác
phẩm
và
sự
nghiệp
của
Minh
Châu
Hương
Hải.
Ở
đây,
chúng
tôi
chỉ
xin
dẫn
ra
một
số
kết
luận
sơ
bộ.
Một
là
về
văn
thì
có
tất
cả
14
đoạn,
sau
khi
đã
trừ
ra
3
đoạn
là
những
bài
thơ,
thì
chúng
tôi
đã
truy
cứu
được
xuất
xứ
của
5
đoạn
đến
từ
các
tác
giả
Trung
quốc
hiện
tìm
thấy
trong
các
sách
vở
có
ghi
chép
về
họ.
Số
còn
lại
chắc
chắn
cũng
có
xuất
xứ
ngoại
lai,
chứ
không
phải
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
nhưng
hiện
chưa
truy
cứu
được.
Chúng
tôi
sẽ
bổ
sung
trong
lần
tái
bản
sau.
Hai
là
về
thơ
có
tất
cả
59
bài,
kể
luôn
cả
những
bài
chép
lẫn
vào
trong
các
trích
văn,
thì
có
tới
47
bài
là
hoàn
toàn
hay
một
phần
xuất
phát
từ
các
cây
bút
Trung
quốc,
12
bài
còn
lại
thì
5
bài
có
khả
năng
là
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
tức
các
bài
thơ
số
3,
4,
14,
15
và
59
theo
cách
đánh
số
của
chúng
tôi
.
Dẫu
thế,
những
ghi
chép
chi
tiết
khác
về
nguồn
gốc
gia
đình
và
cuộc
đời
của
Minh
Châu
Hương
Hải
từ
bé
cho
đến
lúc
viên
tịch
đáng
để
cho
chúng
ta
tìm
hiểu.
Ngoài
ra,
việc
mô
tả
khá
tỉ
mỉ,
qui
mô
và
cách
kiến
trúc
thờ
tự
của
chùa
Nguyệt
Đường
sẽ
đóng
góp
cho
ta
những
hiểu
biết
cụ
thể
về
những
ngôi
chùa
xưa
ở
thế
kỷ
thứ
17
và
18.
Hơn
nữa
lối
văn
chữ
Hán
của
bản
ngữ
lục
này
phản
ảnh
khá
nhiều
ngữ
pháp
tiếng
Việt.
Thí
dụ
ngay
trong
lời
tựa
ta
có
câu
nãi
chí
đại
Đường
Huyền
Tráng
mà
ta
có
thể
dịch
bèn
đến
Huyền
tráng
đời
Đường.
Rồi
trong
nội
dung
ở
tờ
8b2-3
ta
có
câu
:"Bỉ
Gia
quận
tế
dĩ
niên
cao,
lự
lộ
sinh
tử,
dục
thanh
sư
thỉnh
vấn…"
thì
rõ
ràng
câu
lự
lộ
sinh
tử
là
một
câu
chữ
Hán
viết
theo
ngữ
pháp
tiếng
Việt
với
nghĩa
lo
đường
sống
chết.
Và
tên
các
chúa
Hiền
(tờ
9a2),
trưởng
quan
(tờ
19b5)
v.v…đều
có
cấu
trúc
của
ngữ
pháp
tiếng
Việt.
Nói
chung,
đây
là
một
văn
bản
chữ
Hán,
nhưng
lại
đầy
những
cấu
trúc
tiếng
Việt.
Nó
sẽ
giúp
ta
tìm
hiểu
về
lối
viết
văn
chữ
Hán
của
người
Việt,
và
giúp
chứng
cớ
để
hiểu
các
văn
bản
chữ
Hán
xưa
hơn
nó
đã
được
viết
tại
nước
ta,
như
trường
hợp
Lục
độ
tập
kinh
hay
Cựu
tạp
thí
dụ
kinh
.
Chúng
tôi
do
thế
đề
nghị
cho
dịch
lại
toàn
bộ
bản
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục,
và
cho
in
kèm
vào
đây
sau
phần
nghiên
cứu
cuộc
đời
và
sự
nghiệp
của
ông
để
làm
tư
liệu
tìm
hiểu
cho
những
ai
quan
tâm
đến
những
cống
hiến
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đối
với
lịch
sử
văn
học,
tư
tưởng
và
Phật
giáo
dân
tộc
.