TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
I.
NIÊN ĐẠI VÀ
CON NGƯỜI
Về lai lịch, vì hai trang đầu của
Hương Hải thiền sư ngũ lục đã bị mất trong bản in chúng tôi hiện
có, nên nếu dựa vào những ghi chép của Lê quý Đôn trong Kiến
văn tiểu lục 9, thì ta biết Minh Châu Hương Hải thuộc vào một danh
gia thế phiệt của miền Nam nước ta vào thời ông. Tổ tiên 4 đời
là Khởi nghĩa kiệt tiết công thần Trung lộc hầu, người A?g Độ,
Nghi Lộc, Nghệ An, theo phò Nguyễn Hoàng và đến sống tại Quảng Nam.
Hương Hải đã sinh ra tại vùng đất này, tại làng Bình An thượng,
phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam hiện nay vào năm 1628. Năm 18 tuổi ông
thi đỗ Hương tiến và được bổ làm tri phủ Triệu phong. Năm Mậu
Thìn (1652), ông đến thụ giáo với thiền sư Lục Hồ Vân Cảnh,
được đặt pháp tự Minh Châu Hương Hải và pháp hiệu Huyền Cơ
Thiện Giác, tiếp đến lại tới học đạo với thiền sư Viên Khoai
Đại Thâm. Rồi 3 năm sau, ông từ quan và đi xuất gia lúc mới 30
tuổi. Một thời gian sau ông đóng thuyền đến cù lao Chàm ở ngoài
cửa biển Hội An, dựng 3 gian am nhỏ để ở và tu trì. Thời gian
thiền sư ở đảo này khoảng chục năm, tiếng tăm tu thiền của ông
được nhiều người biết đến, trong số đó có Hoa lễ hầu là
Tổng thái giám. Hoa Lễ Hầu tâu với Dũng quốc công Nguyễn Phúc
Tần (1649-1687) về thiền sư và thiền sư được quốc công mời về
trụ trì viện Thiền tịnh ở núi Qui Kỉnh. Mẹ của Nguyễn Phúc Tần
và 3 con là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều đến quy y cùng
đông đảo quan lính .
Bấy giờ sau trận đánh năm 1648, mà
kết quả là quân Trịnh đã thua và trong số tù binh quân Nguyễn bắt
được có Gia quận công đã đến theo học với thiền sư. Có
người dèm pha Gia quận công muốn bàn tính chuyện vượt biển về
Bắc với thiền sư, Nguyễn Phúc Tần cho điều tra không có kết quả,
bèn đưa thiền sư trở về Quảng Nam. Từ đó, thiền sư có ý
vượt biển ra Bắc vì bị nghi ngờ . Đó là vào tháng 3 năm Nhâm
Tuất (1682), lúc sư đã 55 tuổi. Cần nói thêm ở đây là Hương
Hải thiền sư ngũ lục ghi thời điểm ấy sư 53 tuổi. Ghi thế rõ
ràng là một nhầm lẫn, bởi vì cuối sách chép sư mất năm A?
mùi, lúc đã 88 tuổi. Chữ ngũ dễ khắc lộn thành chữ tam .
Sư bèn cùng hơn 50 đồ đệ đi
thuyền đến Vinh, vào yết kiến Yến quận công Trịnh Điềm (1629-1696),
đang giữ chức trấn thủ vùng đất này. Sau khi khám xét và điều
tra được một tháng thì Trịnh Tạc (1653-1682) đã cho Đường quận
công đi đón thiền sư về kinh đô tiếp tục điều tra với những
người như Lê Hy v.v
và đã xác định đúng thiền sư là
người A?g Độ, Nghệ An. Bấy giờ, Trịnh Tạc mới mất , Trịnh Căn
nối ngôi và ban cho sư áo mão, lương thực và tiền bạc, rồi cho
về trấn Sơn Nam, giao Tước quận công Lê đình Kiên (1623-1704) giúp
đỡ và thành lập viện Thiền tịnh, sau đó là chùa Nguyệt Đường
ở tại phố Hiến. Chính trong thời gian ở tại chùa Nguyệt Đường
này, thiền sư đã diễn dịch ra tiếng Việt 20 bộ kinh luận cùng sáng
tác một số thơ văn khoảng 5 bài. Cuối cùng thiền sư đã mất vào
ngày 12 tháng 5 năm A? Mùi 1715, sau khi đã phó chúc lại bài kệ :
Thời đương bát thập bát
Hốt nhiên đăng tọa thoát
Hữu lai diệc hữu khứ
Vô tử diệc vô hoạt
Pháp tính đẳng hư không
Sắc thân như bào mạt
Đông độ ly ta bà
Tây phương liên ngạc pháp
(tuổi đương tám mươi tám
Tọa thoát tự nhiên bỗng
Có đến cũng có đi
Không chết cũng không sống
Pháp tính giống hư không
Sắc thân như bọt mọn
Đông độ rời ta bà
Tây phương đài sen đón)
Trong cuộc đời 88 năm của mình, Minh
Châu Hương Hải đã có những đóng góp cho dân, cho nước qua thời
gian mấy năm làm quan khi còn tuổi thanh niên. Rồi đến lúc xuất gia,
Minh Châu Hương Hải vẫn còn đóng góp sức mình bằng mối quan hệ
chặt chẽ với những nhà lãnh đạo chính trị quân sự đương thời
mình. Minh Châu Hương Hải đã có quan hệ chặt chẽ với họ Nguyễn
đàng trong, đặc biệt với Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, rồi sau đó
với vua Lê Hy Tông (1676-1704) và Lê Dụ Tông (1705-1728) cùng các
chúa Trịnh Tạc (1653-1682), Trịnh Căn (1683-1709) và Trịnh Cương (1709-1729)
với các quan lại cao cấp của triều đình như Ứng quận công Đặng
Đình Tướng (1659-1735) Tước quận công Lê Đình Kiên (1623-1704)
v.v
và đã có ảnh hưởng nhất định với những vị này .
Chẳng hạn, vụ cấm đạo năm 1714
đã xảy ra với sự tham dự ít nhiều của chính thiền sư Hương Hải,
như Hương Hải thiền sư ngũ lục đã ghi : "Vào một ngày rảnh,
trưởng quan lại đến Nguyệt Đường gọi 3 thầy người đạo Hoa lang
cùng đến trong chùa Nguyệt Đường đối đàm giảng đạo với tổ
sư để xem thắng bại thế nào. 3 thầy đạo Hoa lang một tên là Tài
Gia, hai tên là Tài Hữu và ba tên là Tài Chi. Trưởng quan hỏi
Đạo một câu, hỏi Thích một câu. 3 thầy đạo 3 lần không nói
được. Chỉ còn một Thích lời nói không dứt. Trưởng quan bảo :
Đạo không bằng Thích. Hoa lang ngoa dối lời dụ dỗ để xiêu lòng
người, đó gọi là tà đạo, chẳng biết nghĩa lý. Trưởng quan lại
bảo, họ Thích thông lời chí lý, có sự có tích, báu pháp vô
biên. Từ đó ông biết đạo là ngụy chẳng chân, liền trở về
báo lên cửu trùng. Đức Thánh thượng trải 8 tháng sai quan đuổi
đám Hoa lang trở về nước nó, không được ở chỗ hiến trấ?
nữa "
Việc đối đàm với 3 giáo sĩ Ki tô
giáo này, kiểm tra lại các tư liệu củaToà thánh Ki tô giáo La Mã,
cho đến nay chưa thấy có dấu hiệu ghi chép nào cả. Tuy nhiên đây
là một thông tin đầu tiên về việc quan hệ giữa Phật giáo và Ki
tô giáo tại Việt Nam do phía Phật giáo truyền lại. Điều này chứng
tỏ Phật giáo không đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng xảy ra
trong các thế kỷ có cuộc giao lưu và quan hệ với phương Tây như
có người đã lầm tưởng. Và Phật giáo giai đoạn này, chỉ qua quan
hệ một mình cá nhân Minh Châu Hương Hải đã có những tác động
to lớn đối với chính sách của triều đình, điều này chứng tỏ
đây là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, thể hiện đóng
góp của mình trong quá trình dựng nước và giữ nước như từng
xảy ra trong quá khứ .
Hương Hải thiền sư ngũ lục cũng ghi
lại cuộc đàm đạo của Hương Hải thiền sư với vua Lê Dụ Tông
vào năm 1714 và kết thúc bằng bài thơ tiếng Việt do Trịnh Cương
(1709-1729) tặng cho thiền sư :
Danh lam từng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu
pháp
Kinh luân rỡ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhờ có công vô lượng
Thế thuận vầy nên thế hữu tình
Ngăn tục mựa hề mùi tục lụy
Lòng thiền tua kín chốn thiền khuynh
Và Ứng quận công Tiến sĩ Đặng
đình Tướng cũng làm thơ ca ngợi việc giảng kinh của thiền sư như
Trịnh Cương đã làm :
Xuân hoa nhân vọng mộc thiều dương
Hà nhật giai nhân thưởng Nguyệt
đường
Lão bá đình tiền trương thuý tán
Nộn hà hạm ngoại tiến kỳ hương
Băng tâm trì ấn tuyên kinh tẩu
Thiết diện tuần tường vọng đạo
lương
Kỷ chủng hữu tình qui bút để
Huyền huyền vị đắc nhất thiên
trường
(Hoa xuân người ngắm tấm thiều
dương
Ngày rảnh giai nhân viếng Nguyệt
đường
Tùng cỗi trước sân trương lọng
thúy
Sen non ngoài cửa ngát mùi hương
Lòng băng trì ấn truyền kinh lão
Mặt sắt men tường ngắm giáo lương
Bao thứ hữu tình tuôn đổ bút
Thơ huyền thưởng thức một vài
trương).
Và sau khi được tặng thưởng
những bài thơ của vua quan như thế này, Minh Châu Hương Hải cũng
không thiếu những bài thơ đáp lại. Bài sau đây là một thí dụ
và chắc chắn là bài thơ của chính thiền sư tặng cho Đặng Đình
Tướng :
Hướng minh qui mạng sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ
trường
Tài dụng kinh luân kiêm đức hạnh
A? thi lễ nghĩa quí văn chương
Ngoại trừ đạo tặc binh nhân ái
Nội dưỡng trinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn nam giao danh tứ hải
Khuông phò quốc chính lạc quần
phương
(Vua sáng trở về giúp vận nên
Tôn công thăm hỏi tuổi mừng thêm
Kinh luân đức hạnh tài dùng đủ
Lễ nghĩa văn chương ý đáp đền
Ngoại trừ đạo tặc quân dân thích
Trong dưỡng trinh liêm sĩ tốt bền
Quyền trấn cõi nam tên bốn bể
Khuông phò đất nước sướng muôn
bên) .
Qua những quan hệ như thế, ta thấy con
người của Hương Hải có nhiều tài nhiều vẻ. Ông đã sống trong
thời kỳ đất nước đang vươn mạnh về phía Nam, biên cương tổ
quốc ngày càng mở rộng tưởng như không bao giờ chấm dứt, sức
sống dân tộc trào dâng dào dạt. Đây là thời kỳ của những
thiên tài khoa học như Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711) thiên tài văn sử
học như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) v.v
Họ đã ra sức đóng
góp cho dân tộc và thời đại mình, cố gắng xây dựng đất nước
thanh bình, giàu mạnh và văn minh. Cuộc đời và con người của Minh
Châu Hương Hải đã xuất hiện trong một bối cảnh như thế .
Đó là đối với đời. Còn đối
với đạo, Minh Châu Hương Hải đã đào tạo ra một loạt những thế
hệ người kế thừa sự nghiệp truyền bá Phật giáo của mình mà
tên tuổi còn được ghi lại trong Hương Hải thiền sư ngữ lục. Theo
tài liệu này và căn cứ bài kệ truyền pháp của thiền phái Lâm
Tế dòng Trí Bảng Đột Không :
Trí tuệ thanh tịnh
Đạo đức viên minh
Chân như tính hải
Tịch chiếu phổ thông
Thì những đệ tử trực tiếp vào
hàng chữ Chân của bài kệ gồm có Chân Lý Hiển Mật, Chân Tạng
Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quảng Trí, Chân Quý Phổ
Ứng, Chân truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ Đề,
Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân
Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân
Bảo, Chân Thưởng, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân
Kinh, Chân Tịnh, Chân Quang, ngoài ra cộng thêm 1 số vị thành hơn 70.
Đến những đệ tử hàng chữ Như của những vị có chữ Chân
vừa kể, ta có tăng thống Như Nguyệt Hoa Quang, Như Tông, Như Túc, Như
Khoản, Như Nhật, Như Đài, Như Bảo, Như Sơn, Như Thừa, Như Cống, Như
Thiên, Như Hiền, Như Nhẫn, tăng thống Như Toàn, Như Biện, Như Đề,
Như Viên, Như Kiên, Như Phái, Như Mật, Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh,
Như Nghiệm. Rồi đến hàng đệ tử của những vị vừa nêu, có
pháp danh bắt đầu với chữ Tính, ta có tăng thống Tính Thanh, Tính
Liễn, Tính Kế Đạm Hạnh, Tính Khả, Tính Lâm, Tính Duệ, Tính Thước,
Tính Tường, Tính Mẫn, Tính Nhu, Tính Định, Tính Mỗ, Tính A?h, Tính
Trác, Tính Đức, Tính Trí, Tính Lãng, Tính Năng, Tính Tiếp, Tính
Phụng, Tính Xán, Tính Tuyên, Tính Hằng. Đến hàng đệ tử của
những vị vừa kể, bắt đầu pháp danh với chữ Hải ta có tăng
phó Hải Bồi, tăng phó Hải Triều, Hải Đường, Hải Nhã, Hải
Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liên, Hải Trung v.v
Qua bản danh sách này, 30 năm sau khi
Minh Châu Hương Hải mất, dòng thiền của ông đã phát triển rực
rỡ, trong số ấy có những người là những đại biểu long tượng
cho Phật giáo như Như Nguyệt Hoa Quang mà tiểu sử phần nào đã
được Lê Quý Đôn ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 33b3-34a4.
Cũng có những người đã kế nghiệp thầy mình trong địa hạt sáng
tác như tăng chính Như Sơn, tác giả bộ Ngự chế thiền điển thống
yếu kế đăng lục, và có những người đã đóng góp vào việc in
lại những sử sách xưa như Tính Lãng, người bạn thiền của thiền
sư Tính Quảng Điều Điều đã đứng ra in lại danh tác Thánh đăng
ngữ lục và yêu cầu Tính Quảng viết tựa và đến thế kỷ thứ 19
dòng thiền của Minh Châu Hương Hải còn được biết qua những
người như Tịch Truyền, Tịch Yên, và đệ tử của những vị này như
Chiếu Khoa, Chiếu Tân v.v
Chiếu Tân là người đã đứng ra in
bộ Pháp hoa quốc ngữ kinh của Pháp Liên vào năm 1856. Chiếu Kiên
góp vào việc in lại Giải tâm kinh ngũ chỉ vào năm Minh Mạng thứ 14
(1834). Như vậy trong hai thế kỷ 18 và 19, dòng thiền của Minh Châu
Hương Hải đã phát triển rầm rộ .
Để dựng nên một dòng thiền phát
triển rầm rộ như thế, Minh Châu Hương Hải đã biến viện Thiền tịnh
đơn sơ ban đầu vào những năm 1683, 1685 thành một ngôi tổ đình
làm trung tâm văn hoá giáo dục, liên tục đào tạo ra những thế
hệ thiền sư có danh tiếng vừa kể. Ngôi tổ đình này được ghi
lại khá kỹ quá trình xây dựng và kết cấu cơ sở vật chất
tương đối đầy đủ trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, đóng góp
vào việc tìm hiểu cách kiến trúc và lối thờ tự của dân tộc ta
vào thời ấy. Điều đáng tiếc là tổ đình này chỉ mới hơn 200
năm qua, bây giờ không còn một dấu vết gì nữa ngoài 2 tháp mộ
là nơi yên nghỉ cuối cùng của Minh Châu Hương Hải và người cao
đệ Viên Thông phương trượng hoà thượng Chân Lý Hiển Mật. Nhờ
sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Hưng Yên,
chúng tôi đã có dịp vào thăm tận nơi hai ngôi tháp mộ này, bây
giờ đang nằm trong khuôn viên của nhà dân. Chúng tôi có đề nghị
với chư vị lãnh đạo Giáo hội tỉnh Hưng Yên xin khôi phục tổ đình
Nguyệt đường. Nếu chưa được thì tối thiểu xin khôi phục lại
khuôn viên hai tháp mộ của thiền sư Minh Châu Hương Hải và thiền
sư Chân Lý Hiển Mật thành những di tích lịch sử văn hoá, làm nơi
thăm viếng và giáo dục truyền thống yêu nước cho con cháu về sau .
Tuy nhiên, đóng góp to lớn nhất cho
đạo của Minh Châu Hương Hải vẫn chủ yếu nằm trong sự nghiệp
trước tác, thể hiện những suy nghĩ của bản thân và âu lo trước
tiền đồ của Phật giáo cũng như dân tộc .