-
- Tính
Chất
Đại
Thừa
- trong
Phật
Giáo
Việt
Nam
-
- Nguyễn
Thế
Đăng
Đạo
Phật
từ
khi
du
nhập
phát
triển
ở
nước
ta
luôn
luôn
có
khuynh
hướng
Đại
thừa
rõ
rệt.
Một
trong
những
khuôn
mặt
đầu
tiên
xiển
dương
PG
ở
nước
ta
là
Khương
Tăng
Hội
(thế
kỷ
thứ
3)
với
bản
dịch
Lục
độ
tập
kinh
(kinh
nói
về
6
hạnh
Ba
la
mật
của
Bồ
Tát)
đã
nói
lên
khuynh
hướng
đó.
Trải
qua
gần
1000
năm
phát
triển,
tinh
thần
Đại
thừa
càng
nổi
bật
và
thành
tựu
ở
những
nhà
vua
Thiền
sư
đời
Trần:
Trần
Thái
Tông,
Trần
Nhân
Tông.
Phật
giáo
Đại
thừa
đã
làm
nên
bản
sắc
PGVN,
làm
cho
đạo
Phật
trở
thành
đạo
Phật
của
người
Việt,
ứng
hợp
với
tính
cách
của
người
Việt,
mà
rõ
rệt
là
Trần
Nhân
Tông,
người
lập
nên
phái
Thiền
Trúc
Lâm,
phái
Thiền
đầu
tiên
và
độc
nhất
của
người
VN
trong
suốt
lịch
sử
đất
nước.
Đại
thừa
là
con
đường
đạt
đến
Tánh
Không
để
giải
thoát,
nhưng
trong
lúc
nổ
lực
để
giải
thoát
bản
thân,
người
theo
Đại
thừa
với
lòng
Đại
Bi
rộng
lớn,
vẫn
không
quên
đồng
loại
hữu
tình,
mà
vẫn
phối
hợp
được
giữa
việc
tự
giải
thoát
qua
Tánh
Không
(tự
giác)
với
sự
cứu
giúp
đồng
loại
đang
bị
che
chướng
trôi
lăn
trong
vòng
sanh
tử
(giác
tha),
để
có
thể
nói
rằng
càng
tụ
giác
Tánh
Không
bao
nhiêu
càng
giác
tha
được
bấy
nhiêu,
và
càng
giác
tha
bao
nhiêu
càng
thâm
nhập
Tánh
Không
bấy
nhiêu.
Sau
đây
chúng
ta
phát
qua
những
chủ
đề
của
Đại
thừa
được
làm
sống
động
trong
PGVN
như
thế
nào,
để
có
thể
nói
rằng
sức
sống
của
PGVN
chính
là
sức
sống
của
Đại
thừa.
1.
Sự
phát
khởi
Bồ
đề
tâm:
Phát
tâm
Bồ
đề
là
phát
tâm
đạt
đến
tâm
giác
ngộ
của
chư
Phật,
đồng
thời
giải
thoát
cho
tất
cả
chúng
sanh.
Tâm
giác
ngộ
của
chư
Phật
là
Trí
Huệ
soi
thấy
Tánh
Không
rốt
ráo
của
tất
cả
các
pháp,
gọi
là
Đại
Trí.
Tâm
tìm
cầu
sự
giải
thoát
cho
tất
cả
chúng
sanh
là
Đại
Bi.
Phát
khởi
được
Trí
Huệ
và
Từ
Bi
gọi
là
phát
Bồ
đề
tâm.
Chúng
ta
thấy
các
Thiền
sư
Việt
Nam
đều
đặt
cuộc
đời
họ
trong
sự
phát
tâm
Bồ
đề
này,
trên
cầu
Phật
đạo,
dưới
hóa
độ
chúng
sanh.
Chính
vì
các
vị
đã
đặt
cuộc
đời
mình
vào
trong
hướng
đi
bao
la
và
hùng
dũng
đó,
mà
hậu
thế
chúng
ta
đã
có
những
tiểu
sử
hùng
vĩ
và
bao
la,
hùng
vĩ
trong
tình
thương
và
bao
la
trong
hành
động,
còn
ghi
lại
như
những
dấu
ấn
của
lịch
sử
VN,
như
Thiền
sư
Vạn
Hạnh,
người
sáng
lập
đời
Lý
và
thủ
đô
Thăng
Long,
như
vua
Trần
Nhân
Tông,
người
làm
nên
đỉnh
cao
của
đời
Trần
và
thể
hiện
trọn
vẹn
ý
nghĩa
"đời
sống
là
đạo
Phật,
đạo
Phật
là
đời
sống".
Phát
tâm
Bồ
đề,
nền
tảng
cho
mọi
sự
phát
triển
nở
hoa
của
một
cuộc
đời
PG
được
nhà
vua
Thiền
sư
Trần
Thái
Tông
tóm
gọn
trong
"Văn
khuyên
phát
Bồ
đề
tâm":
"Cái
quan
trọng
của
thân
mạng
còn
nên
bỏ
để
cầu
đạo
Vô
thượng
Bồ
đề,
huống
hồ
là
vàng
bạc
của
báu
vô
thường
mà
lại
luyến
tiếc
ư?
Không
biết
một
tính
viên
minh,
chỉ
theo
6
căn
tham
dục.
Giàu
sang
cho
lắm,
đâu
thể
tránh
được
hai
chữ
vô
thường,
công
danh
nhất
đời,
chẳng
thoát
một
trường
đại
mộng.
Tranh
nhân
tranh
ngã,
rốt
cuộc
thành
không,
khoe
giỏi
khoe
hay,
đều
là
chẳng
thật...
Khi
ấy
mới
hối,
học
đạo
không
nền.
Chi
bằng
gấp
rút
đản
đương,
chớ
để
đời
này
lở
dở...
Hay
đâu
Bồ
đề
tánh
giác,
người
người
Viên
mãn,
Bát
nhã
căn
lành,
ai
ai
sẵn
đủ.
Hỏi
chi
đại
ẩn
tiểu
ẩn,
chẳng
kể
tại
gia
xuất
gia,
không
nề
Tăng
tục,
chỉ
cốt
rõ
Tâm,
nếu
hay
chiếu
rọi
trở
lại,
đều
được
thấy
tánh
thành
Phật.
Vượt
lên
chỗ
chẳng
tương
quan
gì
với
sanh
tử,
thấu
tới
cơ
vi
mà
quỷ
thần
nhìn
chẳng
thấy".
Chính
từ
trong
lời
nguyện
gói
trọn
tất
cả
cuộc
đời
đó,
mà:
"Trong
cõi
Phật
vô
biên
Thọ
dụng
làm
Phật
sự
Khiến
tất
cả
chúng
sanh
Đều
phát
tâm
Bồ
đề"
2.
Trí
huệ
soi
thấu
thực
tại
Tánh
Không:
Đó
là
trí
huệ
soi
thấy
tất
cả
các
pháp
đều
do
duyên
khởi,
vô
ngã,
vô
tự
tánh,
nhờ
đó
mà
tất
cả
các
pháp
danh
sắc
tạo
thành
sanh
tử
đều
mất
hết
ảnh
hưởng.
Sanh
tử
như
hoa
đốm
ở
giữa
hư
không
đã
không
có,
tức
thì
giải
thoát:
"Đất,
nước,
gió,
lửa,
thức
Nguyên
lai
tất
cả
Không
Như
mây
trời
tan
hợp
Phật
nhật
chiếu
vô
cùng
Sắc
thân
cùng
diệu
thể
Chẳng
hợp
cũng
chẳng
lìa
Nếu
thường
hay
tỏ
rõ
Trong
lửa:
một
nhành
sen
Thiền
sư
Đạo
Huệ
(mất
1172)
Có
thì
có
tự
mảy
may
Không
thì
cả
thế
gian
này
cũng
không
Kìa
trông
bóng
nguyệt
dòng
sông
Ai
hay
không
có,
có
không
thế
nào
Thiền
sư
Từ
Đạo
Hạnh
(mất
1112)
Chính
nhờ
trí
huệ
soi
thấy
Tánh
Không
mà
Bồ
Tát
tự
tại
ở
nơi
sanh
tử
hoa
đốm,
như
Tuệ
Trung
Thượng
Sĩ
trong
bài
"Sanh
tử
nhàn
mà
thôi":
Sanh
tử
nguyên
lai
tự
tánh
Không
Huyễn
hóa
thân
này
rồi
cũng
diệt
Phiền
não,
Bồ
đề
ắt
tiêu
ma
Địa
ngục,
thiên
đường
tự
khô
kiệt
.....
Sanh
là
vọng
sanh,
tử
vọng
tử
Bốn
đại
vốn
không,
từ
đâu
khởi?
Pháp
Thân
không
đến
cũng
không
đi
Chân
Tánh
không
phi
cũng
không
thị
.....
Người
ngu
điên
đảo,
sợ
sanh
tử
Kẻ
tri
thấy
ra,
nhàn
mà
thôi
Tóm
lại
nếu
không
có
trí
huệ
soi
phá
vô
minh
để
hiển
lộ
Tánh
Không
"bổn
lai
vô
nhất
vật"
thì
cũng
không
có
cuộc
đời
Bồ
Tát,
bởi
thế
trí
huệ
được
gọi
là
huệ
mạng,
mạng
sống
của
người
tu
Bồ
Tát
đạo.
Trí
huệ
đối
với
Bồ
Tát
như
con
mắt
để
sống
ở
đời,
không
có
mắt
thì
sống
mà
cũng
như
chết,
chỉ
có
trầm
luân,
chẳng
thể
nào
tự
cứu
và
cứu
người.
Có
thể
nói,
Thiền
tông
Việt
Nam
là
sự
khai
thị
ngộ
nhập
Tánh
Không
này,
và
một
vị
Thiền
sư
là
người
lấy
"Pháp
Không
làm
nhà"
(Pháp
Không
vi
tòa)
như
kinh
Pháp
Hoa
vậy.
3.
Lòng
Đại
Bi
hưng
vận
toàn
bộ
cuộc
đời:
Lòng
Đại
Bi
là
chất
men
làm
dậy
lên
cuộc
đời
Bồ
Tát.
Lòng
Đại
Bi
là
sức
mạnh
khiến
người
tu
hành
nỗ
lực
đạt
đến
Trí
Huệ
để
cứu
đời,
nhưng
cũng
đồng
thời,
khi
càng
có
trí
huệ,
lòng
Đại
Bi
càng
tăng
trưởng.
Trí
Huệ
càng
phát
sáng,
người
tu
hàng
càng
thấy
rõ
tính
chất
hư
huyễn,
không
thực,
không
tự
tánh
của
năm
uẩn,
và
đau
lòng
thay,
toàn
thể
thế
gian
đui
mù
không
biết
điều
đó,
vẫn
điên
đảo
ngụp
lặng,
tạo
nghiệp,
sống
chết
trong
cái
lưới
chằng
chịt
dệt
bằng
năm
uẩn
đang
phủ
chụp
giam
nhốt
tất
cả
chúng
sanh.
Chính
nhìn
thế
gian
bằng
con
mắt
trí
huệ
như
vậy,
người
tu
càng
thêm
lớn
tâm
Bi.
Như
người
có
mắt
sáng
nhìn
vào
đời
sống
lầm
lộn,
không
thực
của
người
mù,
lòng
thương
xót
càng
lớn
lao,
mong
muốn
cứu
giúp
người
kia
hết
mù
được
mắt
sáng
để
khỏi
điên
đảo
đau
khổ
sống
chết
ở
đời.
Mắt
sáng
là
trí
huệ,
và
trái
tim
là
Đại
Bi
vậy.
Bởi
lòng
Đại
Bi
không
hề
vơi
cạn
này,
đã
dựng
nên
một
cuộc
đời
nhà
vua
Trần
Thái
Tông
hùng
vĩ,
mà
sự
vang
vọng
còn
tới
thế
hệ
ngày
nay.
Đây
là
2
đoạn
trong
6
bài
nguyện
của
vua
Thái
Tông:
Ba
nguyện
gieo
xuống
vực
cầu
đại
pháp
Bốn
nguyện
xông
vào
lửa
để
ngộ
nguyên
nhân
sâu
xa
Năm
nguyện
đốt
thân
báo
ơn
công
đức
Phật
Sáu
nguyện
đập
xương
lấy
tủy
báo
ơn
Thầy
Bảy
nguyện
có
người
xin
đầu
cho
không
tiếc
Tám
nguyện
có
người
khoét
lấy
mắt
cũng
xem
là
thân
và:
Ba
nguyện
biện
tài
trừ
hết
mê
mờ
Bốn
nguyện
thích
thuyết
pháp
độ
quần
sanh
Năm
nguyện
chuyển
pháp
luân
vô
tận
Sáu
nguyện
uống
trọn
dòng
nước
pháp
Bảy
nguyện
sớm
được
đại
cơ
như
Tổ
Đại
Ngu
Tám
nguyện
chóng
cùng
Lâm
Tế
hét
Chín
nguyện
lưỡi
dài
như
Phật
che
trùm
Muời
nguyện
trong
sạch
như
trời
xanh
Mười
một
nguyện
thế
gian
không
còn
người
câm
ngọng
Mười
hai
nguyện
địa
ngục
không
còn
tội
lưỡi
bị
cày
Trong
các
bài
kệ
thị
tịch,
các
Thiền
sư
ít
nhắc
đến
lòng
Đại
Bi
hơn
là
nói
về
Tánh
Không,
nhưng
thực
ra
toàn
bộ
cuộc
đời
của
các
Ngài
đều
được
vận
động
bằng
năng
lực
Đại
Bi.
Vì
Đại
Bi
mà
vua
Trần
Thái
Tông
không
lên
ngôi,
trốn
lên
núi
Yên
Tử
tìm
đạo
cứu
đời,
và
cũng
vì
Đại
Bi
mà
nhà
vua
nghe
theo
lời
Quốc
sư
Phù
Vân
trở
lại
đời
làm
vua
vừa
tận
lực
tu
hành
trong
đời
sống
thường
nhật.
Vì
Đại
Bi
mà
vua
Trần
Nhân
Tông
cũng
không
muốn
làm
vua,
và
làm
nhiệm
vụ
một
ông
vua
rồi
thì
xuất
gia
đi
khắp
xóm
làng
giảng
đạo.
Vì
Đại
Bi
mà
các
nhà
sư
vốn
ưa
ở
núi
rừng
trở
về
triều
làm
Quốc
sư,
như
Đỗ
Pháp
Thuận,
Khuông
Việt,
Vạn
Hạnh...
Vì
Đại
Bi
mà
Thiền
sư
Pháp
Thuận
giả
làm
người
chèo
đò
để
tiếp
sứ
Tống,
vì
Đại
Bi
mà
Thiền
sư
Viên
Chiếu
để
lại
cho
đời
những
bài
thơ
văn
chương
đẹp
đẽ
nhất
cho
văn
học
PG.
Và
trong
thế
kỷ
này,
vì
Đại
Bi
mà
Bồ
Tát
Quảng
Đức
tự
đốt
thân
mình
làm
ngọn
đuốc
soi
sáng
cho
đời,
soi
sáng
cho
người
bị
chà
đạp
nhân
phẩm
lẫn
cho
người
đang
chà
đạp
nhân
phẩm
kẻ
khác.
Nói
chung,
Đại
Bi
là
nguồn
lực
vô
tận
làm
sinh
động
PGVN.
Ngày
nay
hầu
như
bất
cứ
chùa
nào
thuộc
bất
cứ
hệ
phái
nào
cũng
có
tượng
Đại
Bi
Quán
Thế
Âm
ở
trước
chùa,
thậm
chí
nhiều
nhà
dân
thường
cũng
thường
thiết
đặt
tượng
Đại
Bi
Quán
Thế
Âm
ở
trước
nhà,
điều
đó
cho
chúng
ta
thấy
nguồn
cảm
hứng
về
Tâm
Đại
Bi
phổ
biến
đến
mức
nào
ở
nước
ta.
4.
Phương
tiện
thiện
xảo:
Phương
tiện
thiện
xảo
là
phương
cách
để
tự
mình
sống
được
ở
đời
mà
không
nhiễm
ô,
không
tạo
nghiệp,
đồng
thời
là
phương
cách
tối
ưu
để
hóa
độ
cho
đời
theo
đúng
với
cái
nhìn
Trí
Huệ
soi
thấy
Tánh
Không
và
lòng
Đại
Bi
trùm
khắp
muôn
loài.
Phương
tiện
thiện
xảo
là
đứa
con
của
người
cha
là
Trí
Huệ
và
của
người
mẹ
là
Đại
bi.
Phương
tiện
thiện
xảo
là
độ
thoát
chúng
sanh
mà
không
thấy
có
chúng
sanh
nào
được
độ,
làm
mọi
công
việc
ơn
ích
cho
đời
mà
không
thấy
có
ai
làm,
đó
là
"người
huyễn
gây
làm,
mà
vốn
không
làm".
Chúng
ta
thấy
các
Thiền
sư
đều
có
phương
tiện
thiện
xảo
này.
Như
Thiền
sư
Vạn
Hạnh,
người
đã
thực
hiện
lời
huyền
ký
về
một
triều
đại
PG
ở
VN
của
những
Thầy
Tổ
sống
trước
mình
đến
200
năm,
để
lập
ra
một
đời
Lý
hiển
hách
cả
đạo
lẫn
đời.
Một
kỳ
công
có
một
không
hai
đối
với
lịch
sử
như
vậy,
nhưng
với
riêng
Ngài,
thì
chuyện
ấy
chỉ
là
sự
thịnh
suy
của
những
hạt
sương
trên
đầu
ngọn
cỏ:
Thân
như
ánh
chớp
có
rồi
không
Muôn
vật
xuân
tươi
thu
héo
hon
Tùy
vận
thịnh
suy
chi
sợ
hãi
Thịnh
suy
sương
móc
cỏ
bên
đường
Hoặc
như
vua
Trần
Nhân
Tông,
người
đã
từng
hai
lần
chiến
thắng
quân
Nguyên
Mông,
người
khai
sáng
ra
trung
tâm
Yên
Tử,
người
đã
từng
qua
Chiêm
Thành
thương
thuyết
đem
về
cho
đất
nước
hai
châu
Ô
Lý
và
sự
hòa
bình
của
hai
quốc
gia
Chiêm-Việt,
con
người
lại
là
một
con
người
"vô
vi"
biết
bao:
Vạn
sự
nước
theo
nước
Trăm
năm
lòng
với
lòng
Tựa
lầu
nâng
sáo
ngọc
Trăng
sáng
đầy
cõi
tâm
Con
người
suốt
đời
hoạt
động
đó,
lại
là
một
người
suốt
đời
không
rời
khỏi
thiền
bản
bồ
đoàn
để
ngắm
nhìn
thế
sự,
có
rồi
không
như
hoa
nở
rồi
rụng:
Thiên
bản
bồ
đoàn
ngắm
rụng
hồng
Những
con
người
Đại
thừa
như
thế,
có
thể
lấy
một
câu
nói
của
Khổng
Tử
để
kết
luận,
đó
là
con
người
"vô
kỷ,
vô
công,
vô
danh".
Ở
trên,
chúng
ta
đã
lượt
qua
những
điểm
căn
bản
tạo
nên
cuộc
đời
Bồ
Tất
đạo,
những
yếu
tố
làm
nên
sức
sống
Đại
thừa.
Những
Thiền
sư
VN
đã
sống
trọn
vẹn
đời
mình
theo
những
điểm
căn
bản
của
Đại
thừa
như
vậy,
và
một
khi
phát
khởi
tâm
Bồ
đè,
Trí
Huệ
soi
thấy
Tánh
Không,
lòng
Đại
Bi,
phương
tiện
thiện
xảo
được
phát
triển
một
cách
trọn
vẹn,
đã
làm
nên
cái
đặc
trưng
mà
chúng
ta
thường
nói
là
tính
cách
nhập
thế
của
Phật
Giáo
Việt
Nam.
Chính
nhờ
Đại
thừa
mà
các
vị
vừa
rất
giải
thoát
vừa
rất
đi
vào
cuộc
đời,
vừa
quá
đỗi
viễn
ly
vừa
ở
ngay
trung
tâm
của
cuộc
sống,
vừa
là
người
đắc
tam
muội
chánh
định
vừa
là
Quốc
sư
như
Vạn
Hạnh,
vừa
là
Thiền
sư
vừa
là
một
ông
vua
như
Trần
Thái
Tông,
vừa
"chống
gậy
rong
chơi,
hề,
phương
ngoài
phương"
vừa
giao
du
thân
mật
với
sang
giàu
huyên
náo
của
triều
đình
như
Tuệ
Trung
Thượng
Sĩ,
nhập
thất
trong
hang
núi
vừa
là
ông
tổ
của
nghề
hát
chèo
như
Từ
Đạo
Hạnh...
Phải
chăng
nhờ
Đại
thừa
mà
chúng
ta
có
những
nhân
vật
tiêu
biểu
nhất
của
lịch
sử
VN?
Và
để
kết
luận,
có
lẽ
chúng
ta
không
biết
làm
gì
hơn
là
nguyện
cầu
cho
sức
sống
Đại
thừa
còn
tuôn
trào
mãi
trong
đời
sống
của
dân
tộc,
để
đưa
dân
tộc
đến
những
bờ
bến
mới
của
cuộc
trường
chinh
vô
cùng
của
lịch
sử.