Phật
Học Cơ Bản
Tập Ba
Ban
Hoằng pháp Trung ương
GHPGVN
Chương
trình Phật học Hàm thụ (1998-2002)
Nguyệt san Giác Ngộ
--- o0o ---
Phần
II - Bài 4
Giới thiệu về Tịnh
Ðộ Tông
Thích Viên Giác
A- Dẫn nhập
Tịnh độ là một trong những pháp
môn tu tập phổ biến đối với người Phật tử tại nhiều nước như Trung
Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Giáo nghĩa Tịnh độ tông thuộc hệ tư tưởng
Ðại thừa và xuất hiện vào thời kỳ Phật giáo Phát triển.
Phật giáo Nguyên thủy chú trọng tự lực, Phật giáo
Phát triển (Ðại thừa) đa dạng hóa đường lối tu tập nên có những pháp
môn chú trọng tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà thành tựu đạo quả hoặc
vượt thoát khổ đau, lý tưởng như pháp môn Tịnh độ. Vì vậy, Tịnh độ
là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một
đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau của con người.
B- Nội dung
I. Lịch sử và sự truyền thừa
Tịnh độ tông
Lý thuyết Tịnh độ được phát triển ở
Ấn Ðộ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái,
chỉ khi các kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh độ trở
thành tông phái.
Phật giáo truyền vào Trung Hoa vào cuối thế
kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai nhưng những kinh luận
thuộc giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất
hiện. Vào thời Ngụy (250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch kinh Vô
Lượng Thọ, cư sĩ Chí Khiếm (thời Tôn Quyền) dịch bộ Ðại A
Di Ðà kinh. Ðến đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật
thuyết A Di Ðà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Ðà, ngài
Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán
Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu
Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas) dịch Quán Vô
Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô
Lượng Thọ kinh luận. Ðặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng
sinh Tịnh độ luận..., đến đây giáo nghĩa Tịnh độ tông tương đối
hoàn chỉnh. Ba tác phẩm được coi là nền tảng của Tịnh độ tông là kinh Vô
Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Ðà, cộng thêm tác
phẩm Vãng sinh Tịnh độ luận của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài bộ
kinh triển khai giáo lý Tịnh độ, nhưng rất nhiều kinh luận trong
hệ thống giáo lý Ðại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh
độ tông trở nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật
học Trung Hoa.
Lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông không theo
đường lối thông thường là người trước truyền cho người sau như các
tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng góp nhiều ít công cuộc
xiển dương giáo lý Tịnh độ.
Tịnh độ tông Trung Hoa, ngài Huệ Viễn (333-416)
được coi là người sáng lập. Ngài quê ở Nhạn Môn, 21 tuổi xuất gia làm môn
đệ của ngài Ðạo An. Ngài thông minh xuất chúng, được ngài Ðạo An khen
ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư xuống Tương Dương, sau đó trên
đường hành đạo, Ngài đến Lô Sơn, thấy cảnh trí u tịch, phù hợp với
chí nguyện tu hành, Ngài ở lại đó và thành lập chùa Ðông Lâm. Ngài
chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu hành không màng thế
sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Ðể phản đối sắc
lệnh của nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài
viết bộ Sa môn bất bái vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội
Niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên là Bạch liên xã, đây là một hình thức
tổ chức quần chúng tu tập, manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ chúng
về sau. Tổ chức Bạch liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia,
cách tu đơn giản là thành kính lễ bái và niệm hồng danh Ðức Phật A Di
Ðà. Pháp tu của ngài Huệ Viễn đã tạo nên đường lối của Tịnh độ
tông.
Ðến thế kỷ sau, ngài Ðàm Loan (476-542)
tiếp nối xiển dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng là người ở Nhạn
Môn, tu học rất tinh cần, chuyên nghiên cứu chú giải kinh sách nhưng nửa
chừng bị bệnh nặng, Ngài tìm thầy chữa bệnh, nhân đó gặp đạo sĩ
Ðạo Hoằng Cảnh dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên kinh. Trên đường
về phương Bắc gặp được ngài Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci) trao cho Ngài
những tác phẩm pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên tu Tịnh độ.
Ngài trước tác những bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Ðà kệ... Ngài
dạy chúng tu học và xiển dương giáo lý Tịnh độ, chú trọng
yếu tố "Tín tâm niệm Phật", đây cũng là sắc thái khác của
Tịnh độ tông.
Ngài Ðạo Xước (562-645) có nhân duyên với ngài Ðàm
Loan dù sống cách nhau vài chục năm. Ngài đã tiếp nhận pháp môn Tịnh
độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài Ðạo Xước xuất gia năm 14 tuổi,
chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một hôm đến chùa Huyền
Trung núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích ngài Ðàm Loan thì
lòng sinh cảm kích, Ngài quay sang tu Tịnh độ và thường giảng dạy Quán Vô
Lượng Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa dân chúng trong vùng tu Tịnh
độ và là người chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm
Phật. Ðối với nông dân, Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số niệm
Phật gọi là "tiểu đậu niệm Phật". Ngài trước tác An
lạc tập và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa tu dễ và tu
khó để kết luận rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý
nghĩa tha lực của Ðức Phật A Di Ðà làm cho mọi người đều thích thú
pháp môn này. Ðệ tử của Ngài khá đông, xuất sắc gồm có Thiện
Ðạo, Ðạo Phủ, Tăng Ðiền...
Ngài Thiện Ðạo (613-681) nối chí thầy mình xiển
dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời Ðường rất hưng thịnh, Tịnh độ
tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ công lao của Thiện Ðạo.
Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm thầy học đạo, Ngài gặp Ðạo
Xước học pháp môn Tịnh độ. Sau khi thầy mất, Ngài về Trường An trụ
trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền bá pháp môn Tịnh
độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Ðà và vẽ 300 đồ hình tả cảnh
Tịnh độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động và hiện thực
trong tâm người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác nhiều kinh
sách như Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán
niệm pháp môn, Ban châu tán. Ðường lối tu tập của Ngài được đời
sau ca ngợi và trở thành một phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.
Ngài Từ Mẫn (680-748) là một hành giả Tịnh độ khá
nổi tiếng vào đời Ðường, Ngài noi gương các vị tiền bối, lên
đường "nhập Trúc cầu pháp". Ngài ra đi năm 702 (thời Võ Tắc
Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Ðộ) gặp được hóa thân của Quán
Thế Âm Bồ tát trao cho pháp môn Tịnh độ. Ngài ở Ấn Ðộ 18 năm mới
về nước, được vua Huyền Tôn tặng danh hiệu "Từ Mẫn tam
tạng". Ngài trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá
pháp môn Tịnh độ mà Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một
dòng tư tưởng Tịnh độ độc lập. Tuy nhiên, hệ thống của Ngài không
hưng thịnh lâu.
Như vậy, hệ thống truyền thừa pháp môn Tịnh
độ từ sơ khởi cho đến đời Ðường không tiếp nối đời này qua đời
khác mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt đầu từ đời
Ðường mới có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời
Tống. Sau này, các học giả phân chia đường hướng tu tập của pháp môn
Tịnh độ thành 4 hệ thống: Huệ Viễn chú trọng "Quán tưởng
niệm Phật", Ðàm Loan chú trọng "Tín tâm niệm Phật",
Thiện Ðạo chú trọng "Khẩu xưng niệm Phật", Từ Mẫn thiên
về "Thiện căn niệm Phật".
Ðến đời Tống (960-1279), Phật giáo vẫn duy trì các
hệ tư tưởng và truyền thống tu tập của các tông phái. Tịnh độ tông
mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập của mình, nhưng vẫn bị ảnh
hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào thời kỳ này, các tông
phái nói chung đều có xu hướng dung hợp, ví dụ Thiên thai tông chủ
trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ trương này có ngài Tuân
Thức, Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Nguyên
Chiếu chủ trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài Diên
Thọ chủ trương... cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những hội
niệm Phật đua nhau xuất hiện, nổi bật là hội "Tịnh hạnh xã"
của ngài Tĩnh Thường.
Ðời Minh (1360-1661), Tịnh độ tông được phát
triển do các đại sư Vân Thê, Liên Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ tu
Tịnh độ phát triển mạnh phổ cập sâu rộng trong quần chúng. Ðến đời
Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp trong mọi pháp môn, tông phái. Những
đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài Tĩnh An, Thực Hiền (1686-1734).
Ngài Êẽn Quang ở cuối đời Thanh là một bậc cao đức truyền bá pháp môn
Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung Quốc, sau đó được truyền
qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, được tiếp
nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.
II. Giáo nghĩa Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền
tảng cho tư tưởng của mình: kinh "Vô Lượng Thọ" nói
về tiền thân Ðức Phật A Di Ðà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát
nguyện 48 lời nguyện để cứu độ chúng sanh, kinh Quán Vô Lượng
Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật, kinh A Di Ðà miêu tả
thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Ðức Phật A Di Ðà đang
thuyết pháp, và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân
tán thán và giảng về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì giáo lý
Tịnh độ đã được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho hoàng hậu của
nước Kosala là Videhi. Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán nản vô cùng
trước cảnh thế thái nhân tình. Bà cầu mong Ðức Phật cứu giúp vượt qua
nỗi khốn khổ này, Ðức Phật đã xuất hiện và giới thiệu các quốc
độ chỉ có an lạc không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di Ðà. Ðức
Phật dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sanh
về cõi ấy. Trong kinh tạng Nguyên thủy không đề cập đến chi
tiết ấy, có thể nói kinh tạng Nguyên thủy ít quan tâm đến yếu
tố tha lực. Ðến thời kỳ đầu của Phật giáo Phát triển, ngài Nagasena
đã đưa lý thuyết Phật cứu độ vào trong lý luận của mình, trở
thành tiền đề cho tư tưởng Phật lực về sau.
Cực lạc thế giới, Hán dịch từ tiếng Phạn
Sukhànatì, là nơi có hạnh phúc mà không có khổ đau. Cõi giới này do Ðức
Phật A Di Ðà giáo hóa. Có thể nói thế giới Cực lạc là một khái
niệm khác của Niết bàn, vì Niết bàn (Nirvana) có nghĩa là dập tắt
mọi phiền não khổ đau. Trong ý nghĩa hẹp hơn thì đó là một
thế giới hiện thực ở phương Tây, khác với thế giới Ta bà đầy
đau khổ này mà kinh A Di Ðà gọi là "ngũ trược ác thế".
Thế giới Cực lạc có những ưu điểm tiêu
biểu như không có ô uế, không có phiền não, thọ mạng lâu
dài, ăn uống tự có, có các thần thông... Ðất nước rất đẹp được cấu
tạo bằng các chất quý báu như vàng, ngọc, lưu ly...; cây cối, ao hồ,
cung điện, đường sá đều bằng các thứ báu, có ca nhạc như âm nhạc
cõi trời, các loài chim hót ca như thuyết pháp... Tóm lại, đó là một
thế giới lý tưởng, là môi trường tốt cho sự tu hành và đạt được
hạnh phúc tối thượng.
Ðức Phật A Di Ðà là vị giáo chủ của thế giới
Cực lạc. A Di Ðà là danh từ dịch âm của Amitàbha, dịch nghĩa là Vô lượng
quang, còn Amitàyus là Vô lượng thọ. Vô lượng quang chỉ cho ánh sáng vô
lượng, biểu tượng cho trí tuệ viên mãn hay cho Pháp thân
(Dharma-kàya). Vô lượng thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu, biểu tượng
của đại định hay còn gọi là Giải thoát thân (Vinuktikàya). Với ý
nghĩa danh hiệu như vậy, Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng cho sự sống vĩnh
cửu và giải thoát hoàn toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp dẫn
đối với con người ở mọi thời đại.
Theo kinh Vô Lượng Thọ thì Ðức Phật A Di Ðà
từng là một nhà vua. Sau khi ngộ đạo, Ngài phát tâm xuất gia và trở thành
vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmàkara). Ngài quyết tâm tu hành thành
Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong cõi Cực lạc của mình.
Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát. Những nguyện quan
trọng là nguyện thứ 18: "Ví con được thành Phật, mười phương
chúng sanh muốn sanh về cõi nước con mà chí tâm tin mến niệm từ
một niệm cho đến mười niệm, nếu không được sinh thì con
không thành bậc Chánh giác. Chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, hủy báng
chánh pháp". Nguyện thứ 19: "Ví con được thành Phật, mười
phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, dốc lòng phát
nguyện muốn sanh về cõi nước con, đến lúc mạng chung, ví con chẳng
cùng đại chúng vây quanh hiện thân trước người đó, thì con không thành
bậc Chánh giác". Nguyện thứ 20: "Ví con được thành Phật, chúng
sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ quốc độ con, vun trồng
các công đức, rồi dốc lòng hồi hướng muốn sanh về cõi nước con,
nếu không được toại nguyện thì con không thành bậc Chánh giác"
(Kinh Vô Lượng Thọ, Chân Thường dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ
Chí Minh ấn hành, 1992).
Qua nội dung 48 lời nguyện cho thấy con đường tu tập
Tịnh độ dựa vào nguyện lực của Ðức Phật A Di Ðà và nhất tâm niệm
Phật là con đường tu dễ nhất, đó là lý do tại sao Tịnh độ tông được
truyền bá rộng rãi nhất.
Con đường tu tập của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba
nguyên tắc:
1- Niềm tin (Tín): Ðây là điều
kiện tiên quyết, không có niềm tin hay niềm tin không đủ mạnh
thì không thể tu Tịnh độ được. Sự tin tưởng là nền tảng khởi lên
ước muốn và hướng tâm về thế giới Cực lạc. Như tất cả các pháp
môn khác, niềm tin là mẹ của các thiện pháp và phát sinh công đức.
Niềm tin của hành giả Tịnh độ rất rõ, tin rằng
Ðức Phật A Di Ðà và thế giới Cực lạc là có thực, Ðức Phật và Thánh
chúng luôn sẵn sàng tiếp độ chúng ta, chỉ cần chuyên tâm tin tưởng và
niệm Phật quyết chí vãng sanh thì chắc chắn được vãng sanh. Vì vậy,
các kinh sách Tịnh độ và các hành giả Tịnh độ thường nói xác quyết
chứ không có thái độ lưỡng lự, phân hai.
2- Nguyện lực hay tâm mong muốn (Nguyện):
Niềm tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn vãng sanh gọi là
ước nguyện. Mọi hoạt động tâm lý đều hướng về Tịnh
độ, mọi ước muốn đều được kích thích bằng sự nhàm chán đối với
đời sống uế trược và bất an này. Nếu ta còn ham muốn vật chất, tình
cảm, tư tưởng của cuộc đời này thì ước muốn vãng sanh không mạnh.
Nghiệp liên kết với đời sống này không giảm thì Tịnh độ không hấp
dẫn ta được, nên có chán Ta bà mới ước mong mãnh liệt về Tịnh độ
được. Ðó cũng là lý do tại sao người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là
giới trẻ.
Biểu hiện của ước nguyện về Tịnh độ
là mọi hành vi, lời nói và tâm ý đều phải thể hiện ước
nguyện đó. Với lời nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ vãng sanh Tịnh
độ, mong có khả năng để cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện như vậy mới
tương ứng với tâm nguyện của Tịnh độ, mới có cảm ứng với Phật và
Thánh chúng ở Cực lạc.
3- Hành trì (Hạnh): Khi tâm nguyện
hướng về Tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu
tập liên tục, nghĩa là thực hành phương pháp niệm Phật, quán tưởng...
đều đưa đến hợp nhất thân khẩu ý, không để cho các đối
tượng của trần gian lôi kéo làm tâm bị tán loạn. Mọi công đức,
thiện pháp ta có đều hồi hướng về Tịnh độ, thường thì hành
giả thiết lập cho mình một thời khóa tu niệm, ví dụ như trong một
ngày một đêm chia thành sáu thời khóa để tụng niệm, tạo cho mình
tiêu chuẩn niệm bao nhiêu lần, nhờ hành trì mà hành giả có thể đắc
định, thấy Phật và Thánh chúng cõi Cực lạc.
III. Phương pháp niệm Phật
Mục đích của pháp niệm Phật A Di Ðà là đưa
đến nhất tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm. Niệm Phật
là thực hành chánh niệm, như vậy về mặt bản chất, pháp môn niệm
Phật không khác biệt với thiền quán, là cốt lõi của các pháp môn.
Phương pháp niệm Phật có bốn cách:
1- Trì danh niệm Phật: Niệm danh
hiệu Phật A Di Ðà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.
2- Quán tượng niệm Phật: Niệm Phật
và chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật, hoặc tướng
tốt của các Bồ tát và Thánh chúng.
3- Quán tưởng niệm Phật: Quán tưởng
hình ảnh của Ðức Phật A Di Ðà cho đến khi thấy được linh ảnh của Ðức
Phật. Pháp quán này khác với quán tượng là không sử dụng hình ảnh bên
ngoài. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.
4- Thật tướng niệm Phật: Niệm Phật
đạt đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp
quán này mang sắc thái Thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến
được.
Phương pháp tu Tịnh độ được nhiều người chấp
nhận và hành trì, nhất là Trì danh niệm Phật, ai thực hành cũng được,
có thể niệm lớn tiếng gọi là Cao thanh trì, niệm thầm
gọi là Mặc trì, mấp máy môi mà không ra tiếng gọi là Kim cang
trì. Người xưa còn đưa ra 4 sắc thái niệm Phật: Hòa hoãn niệm là
niệm từ từ không cần gấp, không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ, có
thể vừa làm việc vừa niệm Phật, không cần "tu mau kẻo
trễ"; thứ hai là Truy đảnh niệm, là đưa câu niệm Phật nằm trên
đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật luôn hiện tiền,
không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định thời gian và
cần có kết quả rõ; thứ ba là Thiền định niệm, tức trụ tâm vào
định rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật. Ðây là lối tu dựa trên
cơ sở truyền thống nguyên thủy, khi tâm đạt định, hướng tâm ấy về
tam minh, ở đây hành giả hướng tâm về cõi Tịnh độ và Ðức Phật A Di
Ðà; thứ tư là Tham cứu niệm, là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền
công án, như nêu câu hỏi: Niệm Phật là gì? Sự nung nấu nghi tình
đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý thức và giác ngộ. Sắc thái này mang dấu
ấn của Thiền hơn là của Tịnh độ.
C- Kết luận
Tịnh độ tông chú trọng vào niềm tin của cá
nhân và sự cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Pháp tu chủ yếu là niệm
danh hiệu Phật A Di Ðà và quán tưởng đến thế giới Cực lạc. Ðây
là một tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều
tông phái khác phổ biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con
đường tu tập khá phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn
niệm Phật có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, Ðức Phật dạy các đối
tượng quán niệm trong đó niệm Phật là đứng đầu, vì đây là đối
tượng dễ đưa tâm vào chánh niệm, trong Phật giáo Nguyên thủy, ý
nghĩa về Phật lực đã được bao hàm trong pháp niệm Phật. Qua thời kỳ
tiền Ðại thừa, luận sư Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo) chủ trương thuyết
cứu độ qua cuộc vấn đạo của vua Milinda (hoàng đế Hy Lạp). Vua cho rằng
không thể chấp nhận được khi một người ác lại được cứu độ nếu y
tin tưởng vào một vị Phật vào đêm trước ngày chết. Nagasena đáp:
"Một hòn đá dầu nhỏ cách mấy vẫn chìm trong nước, nhưng một tảng đá
vẫn nổi trên nước nếu đặt lên thuyền". Về sau, các luận sư
Ðại thừa triển khai triệt để hơn về thuyết Phật cứu độ
và qua kinh điển, Tịnh độ tông tiêu biểu rõ cho luận thuyết ấy.
Con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở
tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn Tịnh độ vẫn không ngoài đường
lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi trên nước, nhưng vận
chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự thân, để có
được 10 niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải có công
phu tích lũy lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi các tông
phái khác phát triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất là
tư tưởng Tịnh độ tại tâm như "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ"
làm cho pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó
không phải là bản ý của Tịnh độ tông.
Ðể kết luận, xin dẫn lời bàn về niệm
Phật của nhà vua, Thiền sư Việt Nam thời Trần là Trần Thái Tông trong
tác phẩm Khóa hư lục: "Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng
trí thì tâm tức Phật chẳng nhờ tu chứng, thân Phật là thân ta không có hai
tướng, tánh tướng không hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết.
Ðó là hoạt Phật. Bậc trung trí phải nương vào niệm Phật, chú ý
chuyên cần, niệm Phật không quên tự nhiên thuần thiện. Niệm
thiện đã hiện niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu duy còn
niệm thiện. Bởi niệm ý niệm niệm niệm tất diệt.
Khi niệm đã diệt, ắt về chánh đạo. Tới khi mạng chung được vui
Niết bàn. Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn
thấy tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không
thoái chuyển. Sau khi mạng chung thì nhờ thiện niệm đó được sinh
sang nước Phật, nghe Phật nói pháp mà chứng đạo Bồ đề" (Khóa hư
lục, HT. Thanh Kiểm dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành,
1992). Ngài kết luận ba hạng người trên đây sâu cạn khác nhau nhưng mục
đích và kết quả là một, tuy nhiên bậc thượng trí nói thì dễ làm thì
khó, bậc trung trí nếu chuyên cần nỗ lực sẽ thành tựu trong đời này
nhưng nếu nghiệp nặng chưa dứt thì khó thành tựu, bậc hạ trí lối tu
lấy niệm Phật làm nấc thang bước từng bước vững chắc được qua nước
Phật rồi thì chí nguyện sẽ thành. Vậy muốn thành tựu cái siêu việt
phải bắt đầu bằng cái đơn giản./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn
ôn tập
1- Trình bày sơ lược lịch sử truyền thừa của
Tịnh độ tông.
2- Những nguyên tắc cơ bản của pháp môn Tịnh độ
là gì?
3- Trình bày các phương pháp niệm Phật.
|
[^]
Bài
trước
|Mục lục |
Bài kế
|
-oOo-
| Toàn
bộ | | Tập Một
| | Tập Hai |
|Tập Ba|
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |